Trang Chủ > Suy Niệm > Mùa Phục Sinh

CHỦ NHẬT PHỤC SINH A

Sứ giả loan báo sự sống và ơn tha tội

5140.jpgKhi ánh sáng giải tỏa bóng đêm thì cũng là lúc mọi sự trở nên sáng sủa. Niềm Vui vở òa, một niềm vui đã được hứa từ muôn thuở và được chờ đợi từ rất lâu. Đó là lời mời gọi trở nên những con người mới để lớn tiếng loan báo cho trần gian biết rằng Đức Ki tô Sống lại mời gọi chúng ta đến với Sự Sống.

Sách  Công vụ 10, 34, 37-43

Đây là diễn từ của Phê rô nói với Cornêliô, một trong những sĩ quan quân đội La mã. Một chứng từ hùng hồn về cuộc sống, cuộc khổ nạn và sự Phục sinh của Chúa Giê su. Phê rô hân hoan công bố tin mừng cho người Do thái và cho mọi người trên khắp cùng thế giới.

Thánh Vịnh 117

Chúng ta được mời gọi từ bỏ thái độ e dè để mạnh dạn công bố cho tất cả mọi người biết niềm vui sâu xa được Thiên Chúa yêu mến dường ấy. Người ta có thể im tiếng được không trước món quà tuyệt vời là sự Sống vĩnh cửu mà Chúa ban cho chúng ta?

Thư gửi Côlôsê 3, 1-4

Thánh Phao lô nói thẳng với người Côlôsê rằng: “Anh em thân mến, với Đức Ki tô, anh em cũng được sống lại”. Trước kia anh em chỉ là những con người, nhưng giờ đây, anh em được thần hóa, là con cái Thiên Chúa. Thân phận con người hay chết của anh em đã được tái sinh thành Con cái Thiên Chúa. Chính nhờ Đức Ki tô và trong Đức Ki tô mà từ nay chúng ta được sống vĩnh cửu. Vậy hãy sống ngày hôm nay bằng cách tìm những sự trên trời. Halleluia!

 

Tin mừng: Mt 28,1-10

NGỮ CẢNH

Phải đọc đoạn nầy tin mừng trong bối cảnh của phần Mt 27,62-28,15 trong đó Mt làm nổi bật hai thái độ tương phản nhau: thái độ không tin của người Do thái (= đám lính canh 27,62-66/ ../ 28,2-4/.../ 28,11-15)) và thái độ tin tưởng của các phụ nữ đón nhận sứ điệp phục sinh (27,61/.../ 28,1/.../28,5-10/.

Có thể đọc đoạn tin mừng nầy theo bố cục sau đây:

1. Lời thiên sứ loan báo tin mừng phục sinh cho các phụ nữ (28.1-8).

2. Cuộc gặp gỡ giữa đấng Phục sinh với các bà (28,2-10).

TÌM HIỂU

Vừa ló rạng: đối với người Híp pri, ngày bắt đầu từ chiều hôm trước. Do vậy, trong khi ở các tin mừng khác câu chuyện phục sinh khởi đầu ban sáng, thì ở Mt khởi đầu từ lúc chặp tối.

Sau ngày nghỉ sa bát, các bà tiếp tục đi viếng mồ. Trong khi các bà tuân giữ luật ngày sa bát, các thượng tế đã vi phạm. Tất cả đều mới: một ngày mới bắt đầu, tuần lễ mới bắt đầu: hai dấu chỉ của một thời đại mới.

Đi viếng mộ: Mt không nói các bà đi ướp xác như Mc và Lc, vì ông đã gợi ý trong cử chỉ đổ dầu thơm như an táng trước (26,12). Họ đã đứng đó, tuy xa như tâm hồn rất gần cây thánh giá (27,55), hay trong lúc táng xác (27,61). Họ không thể rời cặp mắt khỏi người mà họ yêu mến và phục vụ.

Và nầy: (c.2) từ câu nầy trở đi, trình thuật hoàn toàn của Mt, được khai triển trong cùng một khung cảnh lạ lùng như trong trình thuật mô tả những hậu quả đi sau cái chết của Chúa Giê su (27,51-54).

Trong giây phút Chúa Giê su sống lại, có thể người ta chờ đợi một vài biến cộ lạ lùng xảy ra: các tin mừng ngụy thư và các nghệ sĩ không ngần ngại mô tả Đức Ki tô vinh thắng bước ra khỏi mồ. Mt dành khía cạnh kì diệu cho việc hiện ra của thiên sứ mở cửa mồ và cho thấy ngôi mộ trống không. Chúa Giê su đã sống lại! Và khi Đấng sống lại hiện ra với các bà (28.9-10), quang cảnh lại hết sức ngắn gọn.

Đất rung chuyển: các bà được đưa vào chứng kiến cuộc biểu hiện của trời một cách bất ngờ, như ba môn đồ trên núi (17,2). Đất rung chuyển ở câu 27, l5 là dấu chỉ cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, thì ở đây trở thành một điềm báo lòng nhân hậu của Người. Sự rung chuyển là biến cố cho thấy thiên sứ của Chúa xuất hiện, nghĩa là chính Chúa, cho thấy quyền năng của Người (x. St 22,11). Người đến, bên ngòai tường thành Giêrusalem vào lúc tên bịp bợm bị lật đổ.

Thiên thần Chúa: như trong lúc Chúa Giê su sinh ra, thiên sứ của Chúa (1,20.24;2,13.19) hướng dẫn các biến cố và ban cho chúng một ý nghĩa. Nguồn gốc và điểm đến số phận của Chúa Giê su, khởi đầu và tận cùng cuộc đời của Ngài là việc làm của Thiên Chúa, của một vì Thiên Chúa mạc khải các bí mật của Người cho các tín hữu.

Lăn tảng đá ra: Thiên Chúa đã mở tảng đá được niêm phong, không gì có thể cưỡng lại bàn tay của Người. Tảng đá không bị vỡ đôi (27,51), nhưng bị lăn qua một bên. Cùng với ngôi mộ của Chúa Giê su bị mở ra, tất cả các ngôi mộ đều mở ra, những người chết được giải thoát (27,52).

Rồi ngồi lên trên: Ngôi mộ trở nên ngai tòa nhắc lại thị kiến của Đa niên (7,9-10). Từ ngai tòa Thiên Chúa xét xử và thực hiện cuộc tách biệt giữa các người phụ nữ và bọn lính canh: bọn nầy kinh hòang và run rẩy, còn các bà thì hết sức vui mừng và bắt đầu chạy. Cuộc xét xử nầy sẽ được thực hiện vào lúc thời gian kết thúc: tiêu chuẩn là niềm tin vào sự phục sinh của Chúa Giê su.

Ánh chớp-tuyết: hai biểu tượng của một luồng sáng mạnh mẽ, càng chói lòa vì bừng sáng trong đêm đen. Cũng chính ánh sáng ấy chiếu sáng trên thân xác Chúa Giê su biến hình (17,2). Ở đây, Chúa Giê su chưa xuất hiện, nhưng chỗ thiên thần hiện ra và sứ điệp kèm theo cho thấy ánh sáng ấy chính là ánh sáng của Đấng Phục sinh.

Mt xếp đặt cảnh ấy nhằm nói rằng biến cố là công trình của  Thiên Chúa thực hiện (28,13). Nhưng ngang qua những gì sẽ nói ở câu 28,5, Mt muốn nêu bật việc nhận biết Chúa Giê su phục sinh không thể là đối tượng của kinh nghiệm con người, mà chỉ là kết quả của một cuộc mạc khải của Thiên Chúa.

Lính canh: họ bị rung động như mặt đất rung chuyển. Sự giao động và sợ hãi của họ khiến họ ra như chết, họ là những người được giao nhiệm vụ canh gác một xác chết! Do vậy họ không thể hiểu được sứ điệp của thiên sứ. Chỉ có các bà đã tìm Chúa Giê su trong đức tin mới có thể hiểu được mà thôi.

Các bà đừng sợ: x. 14,27; 17,7. Có sự phân biệt rõ ràng giữa thái độ hoảng sợ của bọn lính canh và sự kính sợ của các bà, phát xuất từ cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa và dẫn đến niềm vui (28,8).

Đấng bị đóng đinh: hình thái động từ Hi Lạp dùng ở đây có nghĩa: Đấng đã bị và vẫn bị đóng đinh.

Đã trỗi dậy: Đấng bị đóng đinh ở đây đang sống một đời sống thần linh, vinh quang với thân xác của Ngài. Vậy Ngài không còn bị giam kín trong một ngôi mộ nữa, nhưng được thông phần vào vinh quang vĩnh cửu. Ngài không bị giới hạn trong một nơi chốn nữa nhưng ở khắp mọi nơi. Động từ Hi Lạp có nghĩa trỗi dậy. Ý nghĩa phong phú của từ nầy dần dần được tỏ hiện.

Như Người đã nói: qui chiếu đến ba lần loan báo (16,21; 17,23; 20,19). Việc các lời nầy được hoàn thành xác nhận tính chân thực của vị tiên tri và khiến cho Ngài được tin nhận nơi những người tin và cả nơi thù địch (27,63). Chúa Giê su không phải là người lường gat.

Đến mà xem: thiên sứ mời gọi các bà xác nhận: ngôi mộ trống không, tuy xác Chúa Giê su đã được đặt nơi đó. Như vậy, phần đầu của sứ điệp đã được chứng thực: “Ngài không còn ở đây nữa”. Còn phần sau: “Ngài đã sống lại”, họ sẽ khám phá một cách bất ngờ.

Mau về: sau lời loan báo, là lời mời gọi khẩn thiết. Giờ đây các bà được trao cho một sứ mạng khẩn cấp: họ sẽ là sứ giả của Tin mừng, là tông đồ cho các tông đồ. Ngôi mộ do vậy chỉ là một ngõ cụt và là nơi kết thúc con đường của họ. Và một con đường khác mở ra: họ chạy về và cuộc chạy của Tin mừng nầy sẽ không bao giờ chấm dứt.

Trước các ông: như Mục tử, Chúa Giê su muốn qui tụ các môn đệ của Ngài sau cơn thử thách của Khổ nạn. Ngài hẹn với họ như đã nói trước (26,32).

Galilê: vì Giê ru sa lem chẳng những đã khước từ người thừa kế của Đa vít, khi kết án lưu đày khi Ngài vừa mới sinh (c.2), mà còn tìm cách giết Ngài, nên không phải là nơi Chúa Giê su gặp lại các môn đệ của Ngài để sai đi thực hiện sứ mạng. Đối với Mt, Galilê, nơi đã đón tiếp Chúa Giê su, nơi Ngài giảng dạy (4,12), nơi các dân ngọai gặp gỡ (4,15), giờ đây sẽ là cửa mở đón chào tất cả các dân tộc, bàn đạp cho tin mừng bành trướng khắp nơi.

SỨ ĐIỆP:

Trong ngày phục sinh hôm nay, chúng ta mừng Chúa Giê su sống lại, chiến thắng tội lỗi và sự chết. Đây là khởi đầu hừng đông của nhân lọai mới. Và chính Maria Mađalêna là người đầu tiên nhận được sứ điệp ấy, Maria người phụ nữ tội lỗi. Bà là hình ảnh của tòan nhân loại khám phá ra Đấng Cứu độ của mình. Nhưng rõ ràng là Bà không hiểu ngay tất cả những gì xảy ra. Và ngay điều ấy, bà cũng là hình ảnh cho nhân lọai chúng ta.

Tin mừng Thánh Gioan nói với chúng ta rằng lúc ấy trời hãy còn tối. Rõ ràng là ngài không chỉ nói về bóng tối ban đêm. Nhưng đặc biệt Ngài muốn cho chúng ta thấy rằng ánh sáng của sự phục sinh đang đuổi bóng đêm, trong đó con người đang lún sâu vào tội lỗi. Chúa Giê su phục sinh là ánh sáng chiếu soi trong đêm tối. Ánh sáng mạnh mẽ không gì có thể ngăn chận được, không gì có thể cản ngăn nó tỏa sáng.

Vì thế, trong khi trời còn tối, Maria Mađalêna thấy hòn đá đã được lăn ra khỏi mồ. Bấy giờ, bà hết sức hốt hoảng, bà chạy đi tìm ông Phê rô và Gioan để báo cho họ biết người ta đã lấy xác Chúa ra khỏi mồ. Cả hai môn đệ vội vàng chạy đến. Gioan đến trước bởi vì ông trẻ hơn. Nhưng đã để cho ông Phê rô vào mồ trước.

Các ông khám phá ngôi mồ trống và những mảnh vải còn đặt tại chỗ và xếp đặt ngay ngắn. Phêrô còn lưỡng lự, nhưng Gioan thì khác hẳn. Tác giả đã cho thấy đức tin của ông: “Ông đã thấy và ông tin”. Chúng ta nhớ lại hai ngày trước, ông đứng dưới chân thập giá; ông đã tham dự cuộc chôn cất Chúa Giê su. Thế mà giờ đây ông xác nhận rằng không có dấu vết mất trật tự do những người ăn trộm xác gây ra. Tất cả đã xảy ra dường như là thân xác Đức Ki tô đã tan biến để mặc lấy vinh quang của Cha. Thân xác phục sinh của Ngài không còn gặp một chướng ngại nào nữa.

Đến lượt chúng ta, chúng ta sẽ không bao giờ có một dấu chỉ về sự phục sinh của Chúa Giê su ngòai ngôi mộ trống đó. Chắc chắn, có những lần hiện ra của Đức Ki tô phục sinh. Tuy nhiên, đức tin của chúng ta sẽ phải luôn luôn xác định và truyền lại mà không dựa vào chứng cớ nào khác ngòai chứng của các tông đồ và cộng đòan còn lưu truyền cho đến ngày hôm nay.

Ngày Hiện Xuống, tin tức ấy vang đến Giêrusalem: Chúa Giê su đã sống lại. Rồi ngày hôm nay, nó đã được công bố trong khắp các nhà thờ trên tòan thế giới. Chúng ta là những người kế thừa tất cả các chứng nhân ấy, là những người đã chuyển đến chúng ta điều mà họ đã lãnh nhận. Ngày hôm nay, chính chúng ta nối tiếp lời chứng của họ nơi mọi người chung quanh chúng ta. Họ rất đông, những người sống trong bóng tối như Maria Mađalêna: sứ mạng của chúng ta là làm chứng rằng Chúa Giê su sống lại mở ra cho chúng ta một lối đi hướng về niềm hi vọng được đổi mới.

Biến cố phục sinh đảo lộn tất cả mọi sự trong cuộc đời chúng ta. Nếu tôi tin và sống niềm tin vào Chúa Giê su sống lại, thì tôi biết rằng các đau khổ, thất bại và tội lỗi của tôi sẽ không bao giờ là tiếng nói cuối cùng trong cuộc đời. Tôi xác tín rằng Đức Ki tô hiện diện để giải thoát tôi khỏi những sức ì của tôi và Ngài dẫn tôi đến ánh sáng và niềm vui. Chiến thắng của Đức Ki tô sống lại cũng đến thay đổi cái nhìn của tôi về thế gian và về những người sống trong đó. Cái nhìn ấy sẽ còn không bi quan, cũ kĩ và dững dưng nữa. Tôi sẽ không còn lí do để thất vọng về tất cả, cũng không mất tin tưởng vào con người, dù cuộc đời có bị tổn thương đến đâu đi nữa. Tôi không còn lí do đễ nghĩ rằng tình huynh đệ, sự chia sẻ, sự sông chính là không thể thực hiện được.

Niềm tin của chúng ta vào Đức Ki tô đem lại cho chúng ta một sự canh tân trong cuộc sống, một sự đổi mới cầu nguyện, một niềm vui khám phá và sống tin mừng. Đó là hạnh phúc được tin vào Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Tất cả những điều đó được thực hiện qua những quyết định cụ thể: Ra khỏi “nấm mồ” ích kỉ của chúng ta để sống một tình yêu chân thật; lăn tảng đá thất vọng giam hãm chúng ta và ngăn cản chúng ta tiến lên phía trước; không để cho mình bị sự ghen ghét hay trả thù chế ngự chúng ta, nhưng để cho sự tha thứ và lòng yêu mến chiến thắng. Chính nhờ cách sống ấy mà chúng ta có thể tỏ ra rằng Đức Ki tô đang sống và Ngài đang giúp cho những ai tiếp nhận sức mạnh sự Sống được biến đổi.

Khi sống như thế, chúng ta cũng có thể trở thành những người mang lại sự sống. Cơ hội thì không thiếu và nhu cầu thì bao la. Tất cả chúng ta được sai đến với những người đang chiến đấu chống lại sự đau khổ và thất vọng để đem lại cho họ niềm vui sống. Sự quan tâm, tình bạn không được quên những người bị cuộc đời xâu xé. Một vòng tay tiếp đón, một con tim tha thứ, một bàn tay chìa ra để nâng dậy, có thể thực hiện một phép lạ “tái sinh”. Và ngang qua tất cả những điều đó, một lời nói chứng tá cho đức tin của chúng ta là một lời mời gọi gặp gỡ Đức Ki tô sống lại.

Vì lễ Phục sinh, vì sự sống lại của Đức Ki tô, chúng ta đừng dán mắt vào trần gian nữa, nhưng hãy hướng về Vương quốc nơi Thiên Chúa chờ đợi chúng ta. Và hãy sống như những người đã sống lại. Thánh Thể mà chúng ta cùng nhau cử hành mời gọi chúng ta như thế.

 

ĐÀO SÂU

1. Tại sao bà Maria Mađalêna chạy về báo tin cho ông Simon Phê rô chứ không cho các tông đồ khác?

Vì lúc bấy giờ, ông Phê rô đã là người đứng đầu trong nhóm (Mười Hai) tông đồ.

2. Tại sao ông Phê rô và Gioan chạy đến mồ dù có thể gặp nguy hiểm là bị liên lụy với Chúa Giê su?

Họ chạy đến mồ vì muốn cho thấy tình yêu đối với Chúa Giê su mạnh hơn sự sợ hãi. Có thể bị liên lụy với Chúa Giê su là mối nguy hiểm có thực và rất lớn, vì các Thượng tế và người Pha ri sêu đã nghĩ đến việc các môn đệ Chúa Giê su có thể ăn cắp xác và phao tin đồn sống lại.

3. Tại sao Gioan đến mồ trước, nhưng không vào ngay?

Có người cho rằng vì ông còn trẻ và chưa có gia đình nên chạy nhanh hơn ông Phê rô. Nhưng đúng hơn có lẽ vì ông đã ý thức sứ mạng mà Chúa Giê su đã trao cho ông Phê rô: là tảng đá nền móng Giáo Hội (Mt 16,18), ông có thẩm quyền quyết định cuối cùng trên những gì có liên can đến Đức tin và Luân lí.

4. Tại sao khi nhìn thấy những mảnh vải, các tông đồ đã tin liền?

Bởi vì những khăn tẩm liệm Chúa Giê su được sắp xếp cẩn thận ngay ngắn, một điều không thể xảy ra nếu có  một ai đó vội vàng đánh cắp thân xác Chúa Giê su rồi vội vã trốn chạy bọn lính canh mồ.

5. Cả hai tông đồ vẫn còn chưa hiểu Kinh Thánh sao?

Chưa, nhưng chính trong lúc ấy, các ông nhớ lại các lời sấm ngôn sứ mà họ đã đọc rất nhiều lần, một luồng sáng mới xuất hiện trong tâm trí các ông trong và nhờ đó, các ông bắt đầu hiểu những lời Chúa Giê su đã nói.

6. HỎI. Chúng ta có thể tìm thấy lời tuyên xưng đức tin cổ xưa nhất về sự Phục sinh của Chúa Giê su ở đâu?

THƯA. Trong đoạn 1 Cr 15,3-5, theo lời chứng của Thánh Phao lô: “.. Và Ngài đã sống lại ngày thứ ba theo lời Kinh Thánh”. Lời tuyên xưng ấy có trước rất lâu trong bức thư  được viết vào khoảng các năm 55-57.

7. Thánh Phao lô đã không nhìn thấy Chúa Giê su sống lại?

Đúng thế, nhưng ngay cả các tông đồ và các môn đệ của Ngài cũng không thể thấy biến cố Chúa sống lại, mà chỉ thấy các hậu quả của biến cố ấy mà thôi.

8. Các hậu quả ấy là gì?

Đó là các lần hiện ra của Đấng Sống lại, các lần Chúa Giê su phục sinh tỏ hiện trong thân xác vinh quang, ơn ban Chúa Thánh Thần  như là Đấng Bảo Trợ và Hướng dẫn vào Chân lí.

9. Tại sao Chúa Giê su đã không sắp xếp để có những người chứng kiến biến cố sống lại?

Bởi vì biến cố sống lại thuộc lãnh vực siêu tự nhiên, vượt quá khả năng thấy và hiểu biết của con người.

10. Tại sao Thánh Phao lô có thể làm chứng cho sự sống lại khi ngài đã không phải là một môn đệ Chúa Giê su lúc các biến cố xảy ra?

Ngài làm chứng, bởi vì chính ngài đã kinh nghiệm về sự hiện diện của Đấng Sống lại trên đường đi Đa mát. Ngòai ra ngài còn xác định là chỉ truyền lại điều ngài đã lãnh nhận, không thêm gì cũng không giải thích gì thêm. Bổn phận của ngài chỉ là trung thực truyền lại.

11. Tại sao cần phải nhấn mạnh đến việc Chúa Giê su thực sự chết?

Bởi vì đó là một trong những chứng lí nền tảng cho sự Phục sinh của Chúa Giê su. Cái chết của Ngài không phải là một cái chết hình thức, mà là chết thực sự. Lưỡi đòng đâm thâu qua cạnh sườn là dấu cho thấy Chúa Giê su đã chết thật, được nhà chức trách xác nhận. Hành động ấy chỉ được thực hiện trên những tội nhân chết trước khi bị đánh gẩy ống chân.

12. Tại sao lại phải đánh gẩy ống chân các tử tội?

Để kết thúc thời gian hấp hối của các tử tội trên thánh giá; họ chết vì không thể thở được nữa.

13. Tại sao Chúa Giê su không được chôn cất trong ngôi mộ gia đình?

Bời vỉ theo luật Do thái, không một tử tội thập giá nào có thể được chôn cất trong ngôi mộ của gia đình vì bị coi là ô uế (x. Đnl 21,22). Do đó, Chúa Giê su đã được chôn cất trong ngôi mộ mới.

14. Chúa Giê su được chôn cất một cách vội vã. Tại sao?

Tại vì lúc ấy Lễ Vượt qua đã gần kề, và bởi vì luật La mã không cho phép cử hành ma chay, than khóc cho các tử tội.

15. Có thật là các tông đồ nhiều lần được Chúa Giê su Phục sinh hiện ra không?

Đúng như vậy, họ chắc chắn rằng họ không phải là những người thị kiến, bị ảo tưởng. Hơn nữa, cuộc đời của họ hoàn toàn thay đổi: từ những người sợ hãi và nhát đảm, họ đã trở thành những chứng nhân can đảm dám chết để làm chứng cho niềm tin ấy.


Các bài viết mới hơn
     Suy niệm Lời Chúa Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống_Lm Giuse Đỗ Đức Trí
     Suy niệm Lời Chúa Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống_Lm Đan Vinh - HSTM
     Suy niệm Lời Chúa Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống_Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Sáu Tuần VII Phục Sinh_Nt. M. Anh Thư, OP
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Năm Tuần VII Phục Sinh_Tân Quang
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Tư Tuần VII Phục Sinh_Lm Giuse Nguyễn Duy Khang
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Ba Sau Tuần VII Phục Sinh_Thầy Phêrô_Maria. Mảnh vỡ. FVP
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Hai Tuần VII Phục Sinh_ Nt. Têrêsa Nguyễn Thị Kim Tuyến, OP
     Suy niệm Lời Chúa Chúa Nhật Lễ Chúa Thăng Thiên_Lm Đan Vinh - HSTM
     Suy niệm Lời Chúa Chúa Nhật Lễ Chúa Thăng Thiên_Lm Giuse Đỗ Đức Trí

Các bài viết cũ hơn
     SUY NIỆM CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG. Lm Phaolô Nguyễn Văn Đông
     SUY NIỆM CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG NĂM C- CHÚA THÁNH THẦN LÀ ĐẤNG BẢO TRỢ GIÁO HỘI- Lm Jos tạ Duy Tuyền
     SUY NIỆM CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG NĂM C- THIÊN CHÚA LÀM MỌI SỰ TRONG MỌI NGƯỜI. Lm HK
     SUY NIỆM THỨ BẢY TUẦN VII PHỤC SINH NĂM C-Lm. Dom Trần Công Hiển.
     SUY NIỆM THỨ SÁU TUẦN VII PHỤC SINH NĂM C- CHÚA GIÊ SU TRAO QUYỀN TỐI THƯỢNG CHO PHÊ RÔ. Madalena Nguyễn Thị Lan. O.P
     SUY NIỆM THỨ NĂM TUẦN VII PHỤC SINH NĂM C-Lm. Vinh sơn Phạm Ngọc Anh Tuấn
     SUY NIỆM CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN - THIÊN ĐÀNG: NƯỚC YÊU THƯƠNG- Lm Đaminh Nguyễn Thành Tiến
     SUY NIỆM CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN- NGƯỜI ĐI VỌNG MÃI TIẾNG CÒN.Nt Maria Anh Thư O.P
     TÂM SỰ VỚI CHÚA MỖI NGÀY TUẦN VII PHỤC SINH NĂM C. Lm. Jos tạ Duy Tuyền
     SUY NIỆM CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN- HÃY MANG CHÚA ĐẾN CHO NHÂN TRẦN- Lm. Jos tạ Duy Tuyền.