Trang Chủ > Chia Sẻ

GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2014

BẢN TIN 03

Thưa quý độc giả và quý tác giả,

Giải Viết Văn Đường Trường là một nỗ lực khiêm tốn mang theo một số ước vọng cụ thể:

- Tạo sân chơi cho các bạn trẻ tập viết truyện ngắn và rèn luyện ngòi bút qua cuộc thi kéo dài 6 năm.

- Tập hợp những truyện ngắn tốt có nội dung Kitô giáo để giới thiệu trong một tủ sách văn học Công giáo.

- Tổ chức gặp gỡ các tác giả nhân ngày trao giải để có dịp tiếp xúc quen biết nhau, cùng nhau thảo luận trao đổi và hướng đến một định hướng chung và cách làm việc chung cho văn học Công giáo,

- Lễ trao giải hằng năm được tổ chức vào chiều lễ Thánh Matthêu, bổn mạng giới cầm bút, 21-9, và tiếp nối bằng cuộc hành hương kỷ niệm sinh nhật của nhà thơ Hàn Mạc Tử vào hôm sau, 22-9. Những người cầm bút ở những nơi khác nhau đều có thể hiệp thông cầu nguyện từ xa. Hy vọng với một nhịp sinh hoạt đều đặn hằng năm như thế, sẽ tăng thêm cảm hứng cho những người có khát vọng dâng tài năng văn thơ của mình để ca tụng Thiên Chúa và phục vụ Hội Thánh.

Ước mong quý độc giả khắp nơi tích cực vận động để có thêm nhiều tác giả hưởng ứng và tiếp tục tham gia cuộc thi.

Xin mời xem Bản Thể Lệ Giải Viết Văn Đường Trường đính kèm cuối bản tin này.

Nhân đây Ban Tổ chức xin thông báo: Để tạo điều kiện cho các tác giả có thời gian hoàn thiện bản thảo dự thi, thời hạn nhận bài của giải 2014 được gia hạn kéo dài thêm một tháng, hạn cuối nhận bài đến hết ngày 31-3-2014.

Xin trân trọng giới thiệu 6 tác phẩm dự thi mới được chọn qua vòng sơ tuyển. Một số bài không lọt qua vòng loại do chưa phải là truyện ngắn (chỉ mang dạng chia sẻ tâm tình, tùy bút hoặc kể chuyện), do kết cấu lủng củng, chưa thống nhất ý tưởng, hoặc do lấy lại câu chuyện từ một truyện nào đó (phóng tác chứ không phải là sáng tác). Nếu quý độc giả phát hiện bài nào chỉ là phóng tác, xin vui lòng cho Ban Tổ chức được biết.

Xin chân thành cám ơn các trang truyền thông Công giáo đang hỗ trợ chương trình này, cám ơn quý tác giả đã gửi bài tham gia và cám ơn quý độc giả đang quan tâm theo dõi. Nguyện xin Thiên Chúa giàu lòng thương xót chúc lành cho tất cả chúng ta.

Qui Nhơn, ngày 25-02-2014

Thay lời Ban Tổ chức

Linh mục TRĂNG THẬP TỰ

 BÀI DỰ THI

 Mã số: 14-008

LỰA CHỌN

- Tao có em bé !

- Ừm…

- Mày không tròn mắt lên ngạc nhiên hả ?

- Có bất ngờ.

- Chị Thanh chúc mừng tao.

- Sao lại chúc mừng?

- Không biết. Tao nói với chỉ tao có em bé, chỉ nói chúc mừng nha !

- Thời nay người ta khó hiểu thật.

-Tại mày xa đời lâu rồi nên nghĩ vậy thôi. Tao nghĩ chuyện tao là Single-mum chắc cũng chẳng có gì ầm ĩ.

- Hoàng biết không?

- Hoàng muốn vậy mà…

- …

- Tao gọi điện thoại cho má rồi, nói qua tuần tao về, nhưng chưa nói tao có em bé. Tao cũng sợ má tao bị sốc. Tao có kể sơ về Hoàng, má tao nói không được vô nhà thờ thì thôi đi chứ quen làm gì.

- Mày tính sao?

- Cứ về nhà xem sao đã. Chỉ tội nghiệp má, kỳ vọng rất nhiều về tao, chứ tao thì dễ rồi, sống ở đất Sài Gòn nàymấy cái chuyện đó có ai thèm để ý.

Rồi Thy đổi giọng :

- Ê mày, tao phải đi xưng tội hả? . . . Mà tao có đi xưng tội, chắc mấy ông cha mừng lắm.

- …?

- Mấy cha thấy tao không phá thai thì mừng chứ sao, còn ủng hộ tao hết mình nữa là khác. Mày không nhớ là ngày xưa tao cũng ở trong nhóm đi kêu gọi chống phá thai à. Ui, cái thời nay, họ phá thai đầy mày ạ. Tao không phá, thế là tao làm được việc tốt rồi.

- Đứa bé vô tội mà.

- Thì tao cũng nghĩ vậy… Ê, tao có nhỏ bạn, hai tụi nó lừa được cha xứ. Tụi nó xin làm phép cưới nhưng không đăng ký kết hôn ngoài xã.

- Không có giấy đăng ký kết hôn sao cha cho làm lễ cưới được?

- Thì chỗ quen biết, nó cứ hứa hẹn với cha, rồi đến ngày làm lễ nó nói nó quên, thế là xong.

- Nó lừa cha chi vậy?

- Thì để sau này có li dị cũng đỡ rắc rối, không phải ra tòa chứ chi. Thích thì ở chung, không thích thì bỏ. Đơn giản ! Bây giờ làm lễ cưới chủ yếu là để thỏa mãn yêu cầu của bố mẹ thôi. Ê… hay tao cũng thử xem… gia đình tao rất có uy tín trong xứ.

- Ủa, chứ mày nghĩ Bí tích Hôn phối chỉ làm cho có hình thức thôi hả?

- Ừ thì…Nhưng ít nhất gia đình tao cũng không bị mất mặt.

 

***

Cô Ngân ngồi trầm ngâm, lâu lâu lại thở dài. Hân đến ngồi bên cạnh mà cô cũng không biết.

- Mẹ, con thấy anh Hoàng cũng được đó chứ. Hiền lành, lại đẹp trai nữa… Ủa, sao mặt mẹ buồn xo vậy?

- Ờ… Mẹ thấy đau đầu

- Mẹ không thích anh Hoàng hả?

Cô Ngân lại thở dài.

- Mẹ không tin sự chọn lựa của chị Hai sao? Anh Hoàng hơi ít nói, nhưng như vậy thì bù lại cho cái tính nói nhiều của chị Hai là quá tốt rồi. Ở nhà mà hai người tranh nhau nói, thì còn ai nghe. Mẹ yên tâm đi, chị Hai chọn không lầm người đâu. Mẹ vẫn lấy chị Hai ra làm gương cho tụi con còn gì.

Những lời nói của con gái út càng làm cho cô Ngân cảm thấy đau thắt lại. Quả là cô đã rất tin tưởng và kỳ vọng vào Thy, con gái lớn của cô. Cô có thể yên tâm khi để cho Thy một mình vào Sài Gòn học và ở lại làm việc, bởi cô tin vào sự giáo dục và nền tảng đạo đức của gia đình mà Thy được hấp thụ từ bé, vả lại cô biết rõ tính tình của từng đứa con trong nhà. Thy là đứa nghiêm túc, sống có kỷ luật, gương mẫu, biết lo lắng quán xuyến đúng với tính cách là một chị cả. Tuy lâu rồi Thy không còn hay gọi điện về nhắc nhở các em, nhưng cô cũng không cho đó là quan trọng, chỉ nghĩ rằng Thy nhiều việc, thế thôi. Một năm Thy về nhà vài lần, mỗi lần được mấy ngày rồi đi. Cô cũng thấy rằng con gái mình ngày càng tự tin hơn, nói năng mạnh dạn, quyết đoán hơn. Cô cho rằng có lẽ môi trường công việc đòi hỏi Thy phải thay đổi để thích ứng, thậm chí, cô còn cảm thấy mừng vì con gái thoát được vẻ rụt rè nhà quê để có thể bằng người ta. Nhưng tự tin đến mức Thy có thể nói thẳng với cô về Hoàng thì cô không còn hiểu được làm sao.

- Thưa mẹ, đây là anh Hoàng, bạn trai của con. Anh Hoàng có vợ rồi. Vợ con anh ấy hiện đang sống với mẹ anh ấy. Anh Hoàng yêu con và muốn sống với con. Và con cũng yêu anh Hoàng. Tụi con về xin mẹ cho chúng con được đến với nhau.

Thy nói luôn một hơi, không dò ý, úp mở.

- Con nói chuyện gì lạ vậy?

- Con chỉ nói sự thật thôi.

- Hoàng có gia đình rồi, sao lại còn…

- Dạ, thì anh ấy không yêu vợ nữa, nên không muốn sống chung với cô ấy.

Hoàng giải thích :

- Dạ, khi về chung sống con mới phát hiện con và vợ con có nhiều điểm bất đồng, không thể hòa hợp.

- Chuyện bất đồng xảy ra trong đời sống gia đình là điều phải có, sao lại vội vàng bỏ vợ như thế?

- Dạ …

Thy chen vào :

- Thật ra anh ấy định li dị vợ lâu rồi, từ hồi mới cưới, nhưng má anh ấy sùng đạo nên không cho li dị. Dù sao thì cũng có làm lễ cưới đàng hoàng.

Đến lúc này thì cô Ngân không còn kiên nhẫn nữa :

- Như vậy thì đâu có gì để phải bàn hỏi. Tụi con quá biết chuyện của tụi con là không thể được còn gì.

Cô dợm dứng dậy, Thy buông một câu làm cô choáng váng :

- Nhưng con đã có thai với anh ấy rồi !

Rồi Thy tiếp luôn, như sợ nếu không nói thì sẽ không còn cơ hội để nói :

- Thật ra, con về là định xin mẹ làm vài mâm cơm mời những người trong nhà và hàng xóm để anh Hoàng ra mắt, sau này người ta khỏi thắc mắc, dị nghị, mẹ cũng không phải xấu hổ với ai. Tụi con vô Sài Gòn sống là yên chuyện. Ai hỏi, mẹ cứ nói tụi con làm việc ở Sài Gòn, bạn bè làm ăn ở trong đó hết nên muốn tổ chức đám cưới ở đó. Đơn giản vậy thôi.

Cô thấy đầu óc mình lùng bùng, không còn hiểu được chuyện gì nữa. Cô không dám tin người vừa thốt ra những lời đó lại là Thy, con gái cô. Chuyện như thế mà Thydám cho là đơn giản sao?

Không nhận được câu trả lời của mẹ, Thy và Hoàng vô lại Sài Gòn, đem theo sự bình yên của cô Ngân đi mất. Mấy hôm nay, cô như người mất hồn, chẳng còn làm được việc gì ra việc gì. Cô cáo bệnh, xin cha nghỉ dạy lớp giáo lý Hôn nhân – Dự tòng. Tự nhiên, cô không dám ra ngoài, ngay cả đến nhà thờ đi lễ, như thể mọi người trong xứ đều đã biết chuyện của con gái cô. Sống đến ngần này tuổi, trải qua bao khó khăn, vất vả, một mình nuôi dạy năm đứa con, có những lúc cô tưởng mình ngã gục, thế nhưng cô đã vững vàng vượt qua tất cả. Ngỡ rằng cuộc sống từ đây được bình yên khi các con đã khôn lớn, thì bây giờ cô lại phải đối diện với một bài toán quá khó do chính con gái cô đặt ra. Nó khó không phải vì không có lời giải đáp, nhưng vì đáp án của nó không đơn thuần chỉ là một kết quả tốt và một kết cục xấu cho cô lựa chọn, chọn lựa bên nào cũng đưa cô đến những kết quả nghiệt ngã. Làm theo kế hoạch của Thy, mọi chuyện sẽ “đơn giản” như Thy nói, cô vẫn có thể ngẩng cao đầu khi bước ra khỏi nhà, những đứa con của cô, em Thy, vẫn có thể hãnh diện khi kể về chị Hai của chúng, cô lại có thể tự tin để tiếp tục giảng dạy trên lớp giáo lý Hôn nhân – Dự tòng. Nhưng làm như thế, chẳng phải cô trở nên tòng phạm với con gái sao. Hơn ai hết, cô là người hiểu rất rõ chuyện con gái cô đang làm là tội lỗi, là không thể chấp nhận được. Còn nếu không? Cô không dám nghĩ tiếp…Cô thấy mọi người xung quanh nhìn cô xì xầm to nhỏ, nhìn cô cười giễu cợt, rồi ai đó sẽ hỏi vẻ rất quan tâm nhưng đầy ẩn ý : - sao, chừng nào thì bế cháu ngoại về đây? và có những người sẽ đắc ý khi nhìn cô cúi gằm mặt rời bỏ lớp giáo lý. Rồi họ hàng sẽ nói gì, cô chú bác bên nội sẽ cho rằng cô không biết dạy con, dung dưỡng con nên mới ra nông nổi, bôi nhọ danh giá dòng họ…Bất giác cô rùng mình, như con thú bị thương sợ hãi không dám chui ra khỏi hang, cô không còn dám bước ra khỏi nhà. Những lời khuyên, những bài học cho đời sống gia đình mà cô chia sẻ cho các em trên lớp giáo lý bằng chính những kinh nghiệm cô đã sống bỗng trở nên lý thuyết, sáo rỗng. Các bài giáo lý cô dạy cho những người tân tòng, nào là đã tin theo Chúa thì từ nay phải chọn sống theo những giá trị Tin Mừng, rằng đôi khi ta phải dám trả giá, dù là cả tính mạng, danh dự để bảo vệ sự thật, công bằng, lẽ phải…tất cả những điều đó giờ đây cô thấy sao quá xa vời, không còn chút thực tế nào cả. Bởi thực tế mà cô đang phải đối diện bây giờ là danh dự không chỉ của gia đình cô, mà còn là danh dự của cả họ hàng, dòng tộc. Danh dự đó còn hay mất tùy thuộc vào sự quyết định của cô. Cô có thể không đồng ý để làm cơm như đề nghị của Thy, nhưng cứ yên lặng như không có chuyện gì xảy ra, để mặc Thy ở trong Sài Gòn và sống như vợ chồng với Hoàng một cách bất chính, mỗi lần Thy về với con đều có Hoàng bên cạnh, ít ra người ta cũng đỡ thắc mắc, dị nghị… Songliệu một người mẹ như cô có thể biết mà vẫn làm ngơ để con tiếp tục sống trong tội lỗi không, và lương tâm có để cho cô yên với quyết định đó chăng…Còn nếu phản đối? Mọi người rồi sẽ biết, và chuyện gì sẽ đến với gia đình cô thì cô không dám nghĩ tiếp. Ôi, danh dự với lương tâm…Những thứ vô hình và quá mong manh, song có khi lại quý hơn cả mạng sống. Nhưng dường như người ta chỉ nhận ra điều đó khi đã đánh mất nó. Thật buồn cười khi người ta cố gắng nghĩ ra mọi cách, tốn hết công sức, tiêu mọi tiền của để cố cứu lấy danh dự, nhưng lại dễ dàng giết chết hay bán rẻ nó chỉ để thỏa mãn cho những đam mê, hay một lối sống lệch lạc nào đó của mình. Phải chăng bởi vì ngày nay người ta được cung cấp mộtcách rất dễ dàng những hoàn cảnh và cơ hội để phạm tội, nhưng lại quá khó khăn khi muốn tìmmột cơ may để quay về. Càng ngày người ta càng vẽ nên quá nhiều những con đường dễ dãi để đi, song lại cũng rất mau mắn và vội vàng để lên án hay phản đối những ai đi trên con đường đó. Người ta được trao cho rất nhiều phương tiện để có thể phiêu lưu vào những lối sống mới, nhưng lại chẳng được trang bị bao nhiêu sức mạnh của lòng tự trọng cần thiết đủ để dám đối diện với những hậu quả do mình gây ra, hay ít ra là có thể đứng dậy khi lối sống mới ấy làm người ta gục ngã. Thế rồi để cứu lấy danh dự, người ta đánh mất lòng tự trọng, cái vốn làm nên danh dự ; để làm im tiếng lương tâm, người ta lại lấy cớ vì danh dự an ủi nó…Cứ thế, từ một sai lầm ban đầu, người ta đành tiêu tốn năng lực trong cái vòng luẩn quẩn không lối thoát ấy…

Bất ngờ, cô Ngân lao vội đến bên điện thoại gọi xe đặt vé vô Sài Gòn, sợ rằng chỉ chần chừ một giây là cô sẽ thay đổi quyết định. Cô lẩm bẩm như kẻ mộng du : “Nếu cần phải cách ly, mình sẽ đưa con về nhà. Rồi muốn ra sao thì ra…”.

Cô gần như ngã ngồi xuống ghế. Cuốc điện thoại là cố gắng cuối cùng làm cô kiệt sức…

 

Mã số: 14-009

 

ĐỨC TIN TRỔ HOA GIỮA DÒNG ĐỜI.

Ba tôi đã khóc. Khóc vì hối tiếc? Khóc vì hạnh phúc? Giọt nước mắt nóng hổi lăn nhanh trên gò má cao và đen sạm chất đầy phong sương của ba. Giọt nước mắt âm thầm lặng lẽ.

Nhân dịp năm đức tin, lần đầu tiên giáo xứ tổ chức chiếu phim “thánh Augutino – một tâm hồn trở lại”, để hun đúc niềm tin của mỗi người. Không khí thật náo nhiệt ! Người người nói cười ha hả. Còn ba tôi, ông vừa xem vừa rơi lệ dù đã cố ngăn không cho nó trào ra. Bỗng đâu có tiếng la to : “Nhìn kìa ! Nam nhi đại trượng phu mà khóc”. Mọi người đều ngạc nhiên, nháo nhác tìm xem ai, rồi tất cả đổ dồn nhìn về phía ba tôi. Hầu như mọi người đều cho rằng : ba tôi là một người đàn ông yếu đuối, đa sầu, đa cảm. . . Có người vì thật sự quan tâm hay chỉ tò mò nên đã hỏi : “Ủa, bụi bay vào mắt ông hả? ”. Ba tôi chỉ mỉm cười và khẽ gật đầu. Chẳng ai hiểu vì sao ba tôi lại khóc ! . . .

* * *

Ba tôi sinh ra trong một gia đình “vô thần”. Cuộc đời ba tôi giống như một biển cả bao la xanh thăm thẳm, với những con sóng êm dịu hay dữ dội, bộc lộ hay đằm sâu. Ông bà nội là Lý Trưởng nên rất giàu có và cũng rất khắt khe trong việc dạy bảo con cái. Khi còn bé, ba tôi được giáo dục theo nếp sống duy lý trí, chỉ tin vào những gì mình thấy hoặc những gì đã được khoa học chứng minh. Nền giáo dục đó ăn sâu vào trí não của ba tôi. Thời trai trẻ, “biển cả” của lòng ông là những sóng nhỏ, bập bềnh, trôi dạt vào bờ, rồi lại cuốn theo những hạt cát không biết đi về phương nao.

Ba – một chàng trai “vô thần” - chỉ sống theo đạo hiếu, thờ cúng ông bà tổ tiên. Ba tôi không tin có thần thánh, cũng chẳng tin có đời sau, nên ba chẳng cần biết đến nhà thờ hay nhà chùa ; cũng chẳng tin có ma vương hay quỷ lực. Ba tôi rất ghét nhìn thấy những người theo đạo Công Giáo đến nhà thờ vì ông cho đó là điều mê tín và quá lãng phí thời gian. Có lần, ba tôi nhìn mấy chàng thanh niên tầm tuổi mình quần áo chỉnh tề, đến nhà thờ dự lễ. Không chịu nổi, ba tôi gào thành tiếng : “Các người vào đó làm gì? Thật điên rồ. Hãy dành tất cả thời gian đó để chạy tiền tài, danh vọng và địa vị thì tốt hơn. ”

* * *

Ba tôi đi làm, ông quen được những cô gái trẻ đẹp, gia đình khá giả, có bằng cấp, có trình độ học vấn, có những cô cũng được thừa hưởng một nền giáo dục giống như ba ; nhưng sao ông không cảm thấy hạnh phúc? Hẹn hò vài ba lần là chia tay. Dường như ở các cô còn thiếu thiếu một điều gì đó mà chính ba tôi cũng không biết nữa. Ba tôi cố gắng kiếm tìm, tìm hoài mà chẳng được.

Ba năm sau, ba tôi gặp một cô giáo nuôi dạy trẻ. Từ cái nhìn đầu tiên, chàng đã bị chinh phục hoàn toàn bởi người con gái đó, không phải vì cô là một mỹ nhân “sắc nước hương trời” mà bởi vì cô có vẻ đẹp từ bên trong toát ra được kết dệt từ sự hiền dịu, đoan trang và nhân từ. Chàng biết chắc chắn đây là người đàn bà mà chàng đang cần tìm. Chàng yêu cô ấy và cô ấy cũng yêu chàng vì chàng là người có đời sống nội tâm và cô ấy tin : bằng sự cầu nguyện và tình yêu của mình, cô sẽ làm cho chàng tin rằng luôn có một Thiên Chúa cũng yêu chàng hơn cô đã yêu.

* * *

Ba tôi dần dần thay đổi, trước kia ba tôi nhìn đời bằng đôi mắt mang cặp kính đen và đồng tiền là trên hết ; thì bây giờ ba tôi nhìn mọi thứ với cặp kính màu hồng của niềm hy vọng. Ba tôi – một người “vô thần” lại bắt đầu tin hạnh phúc đang đến với mình. Trong mối quan hệ này, cả hai gia đình đều phản đối vì cô là một người Công Giáo. Gia đình cô không đồng ý cho cô cưới chàng vì sợ đức tin của cô không được đảm bảo. Còn gia đình chàng thì phản đối chỉ vì không muốn có một người con dâu theo đạo Công Giáo.

Ba tôi thật buồn ! Buồn đến tột cùng. Ông cố gắng tìm mọi đủ cách để vượt qua từng đợt sóng đang cuồn cuộn trong lòng giữa chữ hiếu và chữ tình mà không sao vượt được. Để lấy được người con gái đó, gia đình cô đặt điều kiện là ba phải theo đạo Công Giáo. Dù cố gắng van vỉ nhưng bà nội nói như một gáo nước lạnh dội thẳng vào mặt ba tôi : “Mày mà lấy nó, tao sẽ từ mày, mày sẽ không được một xu”.

Chua xót và đau đớn. . .

Một thời gian sau, khi chưa được sự đồng ý từ phía gia đình, ba tôi quyết định đi học đạo vì cảm nhận được tâm hồn của cô giáo nuôi dạy trẻ năm xưa, nàng chính là mẹ của tôi bây giờ. Ba tôi lấy mẹ với đôi bàn tay trắng, không gạo, không tiền, không đồ sính lễ, cũng không của hồi môn ; buồn hơn trong ngày trọng đại của ba mẹ cũng không được nhận lời chúc phúc từ phía ông bà nội nhưng ba mẹ vẫn ngập tràn hạnh phúc dù chưa trọn vẹn. Đặc biệt là mẹ, mẹ vui lắm, mừng lắm trong nước mắt và nụ cười khi thấy ba được lãnh Bí tích Rửa Tội, gia nhập vào đoàn con cái của Chúa. Đối với mẹ, tuy không được gia đình nhà chồng chấp nhận, nhưng mẹ vẫn luôn làm tròn bổn phận của người con dâu là thảo kính và chăm sóc cha mẹ chồng.

Ba tôi hạnh phúc không kể siết ! Chàng chăm chỉ đi lễ, đọc kinh. . . Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, chàng mệt mỏi khi thấy mất thời gian cho việc vô ích này. Ba tôi không còn đi xưng tội, rước lễ hay đọc kinh nữa. . . bỏ tất cả. Mẹ tôi khuyên thế nào ba tôi cũng chẳng chịu nghe, ông luôn tỏ ra khó chịu. Mẹ tôi lúc đó mới hiểu thế nào về câu nói vui của nhiều người :

“Kính lạy Thiên Chúa Ba Ngôi,

Tôi lấy được vợ, tôi thôi nhà thờ”.

Mẹ tôi buồn. Mẹ khóc trong âm thầm, mẹ không trách ba lấy nửa lời, mẹ thông cảm cho ba vì mẹ biết : ba cần có thời gian và đức tin cũng phải tự chính mình cảm nghiệm. Lúc nào, mẹ cũng luôn nhớ tới ba trong lời cầu nguyện. Mỗi tối trước khi đi ngủ, mẹ luôn lần chuỗi Mân Côi để xin Đức Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho ba được ăn năn trở lại và mẹ tin là Chúa sẽ nhận lời.

* * *

Vào một buổi tối nọ, ngoài trời mưa rả rích, tiếng ếch kêu “ộp oạp”, không gian thật ảm đạm, mẹ nói : mẹ muốn ba cùng đọc kinh chung với mẹ. Vừa nói xong thì: “độp” một cái, ba tát mẹ. Cái tát làm mẹ ngỡ ngàng. Mẹ đứng chết lặng nhìn ba… Mẹ xét lại mình và thấy không làm gì có lỗi với ba cả. Mắt mẹ đẫm lệ ! . . . Tâm hồn mẹ nát tan. Mẹ cứ tưởng tình yêu của mình sẽ sưởi ấm lại trái tim băng giá của ba. Mẹ luôn luôn nhẹ nhàng, tôn trọng và đối xử với ba thật tốt, vậy mà. . .

Lòng mẹ đau nhưng tình yêu của mẹ dành cho ba quá nhiều đã lấn át đi nỗi đau đó. Cả con người của mẹ vẫn toát lên sự dịu dàng, yêu thương bằng ánh mắt và những nụ cười ; bằng một trái tim thịt mềm nhỏ bé nhưng vô cùng rộng lớn. Mẹ vẫn là một người vợ hiền, chăm lo từng bữa ăn, giấc ngủ của ba. Từng lời nói, cử chỉ của mẹ đã gói trọn cả một tấm lòng thủy chung son sắt.

Mẹ không giận ba mà càng cầu nguyện cho ba nhiều hơn nữa. Chính đức tin mạnh mẽ và cử chỉ sống cao đẹp ấy như một cơn sóng thần đổ ập vào tâm hồn ba. Nó dữ dội và cồn cào. Nó gầm thét như muốn nhấn chìm đi tất cả. Nó xô ba ngã nhào xuống. Chính ba tôi cũng không ngờ trong một phút không kiềm chế được con người của mình, ba đã làm khổ mẹ.

Ba bị giằng xé . . . Một bên là hình ảnh ông bà nội cộng với bản chất sĩ diện của một người đàn ông nổi lên : “Lấy vợ, thì vợ phải theo đạo của chồng, không thì đạo ai người đó giữ”. Một bên là hình ảnh của người vợ luôn hết lòng yêu thương cha mẹ và chồng. Ba đau lắm. Giằn vặt tâm can. Ba tôi luôn đặt câu hỏi : “Theo ai? ”. Câu hỏi đó đủ làm ba mất ăn, mất ngủ mấy tuần liền. Ba ốm và tiều tụy đi rất nhiều. Trông ba hom hem như một ông lão. Ba luôn tự nhốt mình trong bốn bức tường. Ba chẳng nói, chẳng rằng, lầm lì như “củ khoai”. Ba cũng chẳng dám nhìn vào mắt mẹ… Sự kiên nhẫn và phó thác của mẹ, Chúa đã nhậm lời.

* * *

Dường như có một điều gì đó thúc đẩy đánh thẳng vào trái tim ba – như luồng ánh sáng từ Ơn Trên ban xuống rọi thấu ‘tim đen’…đến nỗi ba không thể chống cự được. Ba quyết định làm theo tiếng lương tâm mách bảo… Rồi một ngày, ba nói với mẹ sẽ đi xưng tội. Mẹ tôi mừng lắm. . . thầm tạ ơn Chúa. Ba ra khỏi nhà một lúc đã thấy về. Mẹ hớn hở chạy ra cửa đón và hỏi : “Anh xưng tội xong rồi hả? ”. Ba đáp một câu gọn lỏn : “Chưa”. Rồi vào nhà, nằm phịch xuống giường, vắt tay lên trán mà suy nghĩ. Lần thứ hai cũng giống như lần thứ nhất, ba làm cho niềm vui của mẹ chưa kịp bừng lên đã vụt tắt. Ba đi rồi lại trở về khi chưa xưng tội. Đến lần thứ ba : mẹ nhìn thẳng vào mắt ba và đề nghị : “Em cùng đi với anh”, rồi mẹ nắm chặt lấy bàn tay ba như muốn truyền thêm nghị lực để ba cảm thấy an tâm hơn.

* * *

Vậy là, ba mẹ hân hoan vui mừng vì đã gặp thấy Chúa và gặp thấy nhau trong Bí tích Hòa Giải sau hơn hai năm sống xa mối dây liên kết này. Lần đầu tiên trong đời, hương vị ngọt ngào không thể diễn tả nổi đã xâm chiếm tâm hồn ba. Ba cảm nghiệm được tình thương của Chúa tuôn đổ trên mình. Ba thấy thật hối tiếc vì đã biết Chúa quá muộn. Giờ đây, bằng cả cuộc đời và con người của mình, ba có thể lớn tiếng và thưa với Chúa rằng : “Lạy Chúa Giêsu, con hoàn toàn phó thác cuộc đời con trong tay Chúa”.

Cũng chính từ đây, cuộc sống của ba tôi thật an vui như vô vàn con sóng lăn tăn được nhuốm sắc vàng đằm thắm của những tia nắng ấm áp, vỗ vào bờ êm ả. Ngày tôi cất tiếng khóc chào đời, ba tôi ngập tràn hạnh phúc ! … Ông ẵm tôi vào lòng, vui sướng reo lên như nhận được một món quà cao cả mà Thiên Chúa đoái thương ban tặng. Sinh ra được mấy ngày, ba tôi đã vội bồng tôi đến nhà thờ để lãnh nhận hồng ân lớn nhất là được làm con cái Chúa. Chính ba tôi là cái nôi đầu tiên gieo hạt mầm đức tin vào lòng tôi. Và ba luôn cố gắng là một nghệ nhân thật giỏi để ươm trồng, chăm sóc và cắt tỉa chính hạt mầm mà ba đã gieo, như mẹ tôi truyền vào lòng ba vậy.

Khi tôi bập bẹ biết nói, ba kiên nhẫn dạy tôi từng chữ, từng chữ một để có thể trả lời cho câu hỏi vui của ba :

“ Con ai?

– Con Đức Bà,

Cháu ai?

Cháu A – dong

Họ hàng với ai?

- Các Thánh.

Nghe mẹ kể lại : ngày đó, tôi chẳng hiểu gì cả, thấy mọi người thích thú cười, tôi cũng vỗ tay cười theo. Đến bây giờ, tôi mới nhận ra rằng : không phải ba dạy tôi vu vơ cho vui đâu, mà ba muốn tôi sau này sẽ làm Thánh… Khi tôi bắt đầu nói thành thạo, ba dạy tôi đọc kinh, cầu nguyện với Chúa và Đức Mẹ bằng kinh Lạy Cha, Kính Mừng. . . Mỗi buổi tối trước khi đi ngủ và buổi sáng khi thức dậy, ba mẹ thường đọc kinh chung với tôi để cả gia đình cùng cảm ơn Chúa đã ban cho chúng tôi được bình an.

Thời gian chẳng chờ ai, dù bây giờ tôi đã lớn và ba mẹ cũng bận nhiều công việc nhưng ba tôi luôn cố gắng duy trì giờ đọc kinh và lần Chuỗi Mân Côi chung của gia đình. Có lần tôi tỏ ra khó chịu về điều đó thì ba lại nhẹ nhàng nói : “Ở đâu có hai, ba người họp lại nhân danh Chúa, thì Chúa sẽ ở giữa gia đình chúng ta”. Ba thường thúc giục tôi đi xưng tội, rước lễ và ủng hộ khích lệ tôi tham gia học giáo lý, sinh hoạt với các anh chị trong ca đoàn, giới trẻ…

 Với tôi, ba thật tuyệt vời !

Bằng đức tin của người Công Giáo – bổn đạo mới, ba luôn dạy tôi sống thế nào để trở thành người con ngoan hiền, biết kính trên nhường dưới, có lòng yêu thương những người nghèo khổ, người khuyết tật, người già yếu…để trở thành một người tốt, để xứng đáng làm con cái Chúa.

Dần dần theo năm tháng, hạt mầm Đức Tin mà ba đã nuôi nấng bao năm trong một cộng đoàn nhỏ là chính gia đình thân yêu của mình, đang trổ bông, sinh hoa kết trái trong lòng tôi, để giờ đây tôi đang bước từng bước theo tiếng gọi của Tình Yêu. Mỗi buổi sáng, “Nào ta hãy chúc tụng Chúa” vừa cất lên thì tôi lại nghe văng vảng ở bên tai : “Dậy, đi lễ thôi, Thu ơi ! ” – đó là tiếng gọi của ba tôi ngày xưa. Một giọng nói trầm ấm, quen thuộc đã đi vào lòng tôi từ khi tôi còn ở nhà.

Ở giáo xứ ai cũng khen ba là : “Con Chiên ngoan đạo”. Ba luôn là một tấm gương sáng cho cả xứ phải noi theo. Không phải chỉ vì ba chăm đi lễ, đọc kinh, mẫu mực trong việc dạy bảo con cái mà ba còn luôn sống đúng với Đức Tin của người Công Giáo : “Mến Chúa, Yêu Người”. Ba hết sức kính trọng quý Cha, quý Thầy, quý Dì và mọi người xung quanh bất kể lương hay giáo. Ba luôn quảng đại giúp đỡ nhà thờ, nhà xứ… bằng lời cầu nguyện, bằng công sức và bằng vật chất. Đối với ba : “Đức Tin không việc làm là Đức Tin chết”. Đức Tin giúp ba luôn mở rộng tâm hồn để đón nhận mọi người, giúp đỡ tất cả mọi người, những ai đang gặp khó khăn, bần cùng, cơ cực…

Mỗi khi nhìn lại cuộc đời ba, tôi không khỏi xúc động và thốt lên rằng : “Ôi! Hồng ân Thiên Chúa vô cùng lớn lao ! ”. Ba thật sự hạnh phúc khi đã để Thiên Chúa nắm lấy mình và mình ở lại trong bàn tay yêu thương của Ngài. Chính ba đã tìm thấy niềm hạnh phúc viên mãn của cuộc đời ba. Còn tôi, tôi cũng đang kiếm tìm niềm hạnh phúc trên con đường mà tôi đã chọn. Còn bạn thì sao? …

Năm Đức Tin đã khép lại. Giáo Hội dành một năm để mỗi người Công Giáo nhìn lại và nuôi dưỡng Đức Tin của mình. Cho dù chỉ vẻn vẹn một năm, một năm đã trôi qua nhưng Đức Tin của mỗi người không dừng lại ở đó. Đức Tin sẽ không bao giờ chết, nó luôn tồn tại, phát triển mạnh mẽ và lưu truyền từ người này sang người khác, từ đời này sang đời sau.

 

Mã số: 14-011

NIỀM TIN MONG MANH!

Lòng vòng mấy ngã phố Sài Gòn, người bắt đầu thắm mệt. Tôi thả bộ dọc con đường cập bên hông nhà thờ Đức Bà. Nơi ấy vẫn yên ắng, sài gòn nhiều nơi đã hoàn toàn thay đổi so với hai mươi năm trước. Duy chỉ nhà thờ Đức Bà vẫn lạnh lùng một nét đẹp cổ kín, nét đẹp phảng phất đâu đó một góc phố Paris, nơi mà tôi đã từng đi qua, và kịp khắc lại trong đầu. Có lẽ những ngày đầu chật vật, lạ lẫm khi bước chân đến nước Pháp nguy nga tráng lệ. Tôi lang thang đi tìm kiếm một công việc chẳng hạn, lờ mờ những gì xa xăm ấy tôi cũng không nhớ rõ. Nhưng khi đảo chân qua đây, tự dưng trong tìềm thức, lại hiện lên nét thân quen.

 Tôi dừng lại trước cổng chính nhà thờ Đức Bà, rồi lãng đảng đến gần bức tượng Người phụ nữ đứng đó. Tôi muốn chiêm ngắm lại dung nhan Bà sau bao năm đứng đợi nơi này. Tôi đứng nép vào góc phải, vẫn có một vài lữ khách đứng lại cầu kinh, không ai bảo ai câu gì. Họ luôn giữ nét tôn nghiêm kính cẩn. Tôi ngước mắt nhìn lên tượng Đức Bà. Đôi mắt ấy như đang sống động nhìn xoáy vào tận tâm can tôi. Một cảm giác ớn lạnh đang chạy dọc sống lưng tôi.  Tôi đan tay vào nhau và cảm nhận cái lạnh. Cảm giác này giống hệt cái cảm giác hai mươi năm trước đây. Nhưng khác là giờ chỉ có mình tôi. Chỉ có đôi bàn tay tôi tự đan xen vào nhau để cảm nghiệm trọn vẹn cái tím lạnh.

Tuổi trẻ, nông nổi, hời hợt trong suy nghĩ, nổi loan thể hiện rõ nét, trong hành động. Chú tôi hay dùng chữ “ rebel” để diễn tả tính khí của tôi. Giờ khi trãi nghiệm cuộc đời với đầy đủ hương vị, từ ngọt ngào, đến mặn đắng, chua cay, thậm chí chát lè trên đầu môi. Tôi mới thấy cái ngông của thời trẻ trung là quá quắt.

Tôi là đứa con gái cưng duy nhất của ba mẹ. Gia đình thuộc dạng khá giả sống sung túc giữa phố thị Nha Trang. Ba mẹ tôi là những nhà kinh doanh lăn mạnh ra thị trường đen đỏ, tiền nhà tôi không thiếu, tôi có thể có được những gì mình muốn dù nó có đắc đỏ đến đâu. Những đứa trẻ như thế khó có thể trở nên con mèo mướp ngoan ngoãn. Có đi chăng là những lúc nũng nịu vòi vĩnh ba mẹ mua món yêu thích. Ấy thế, nhưng tôi vốn dĩ là đứa thông minh có tố chất duy truyền từ cha tôi. Và cũng chính nhờ việc nghiêm khắc dạy dỗ con cái, kiềm kẹp việc học hành tử tế của ba mẹ. Tôi cũng trúng tuyển vào trường Đại Học danh tiếng nhất Sài Gòn. Nơi mà chú tôi đang giảng dạy. Thế là ba mẹ tôi khăn gói đưa con vào tá túc nhà chú với đầy đủ thủ tục gửi gấm. Tôi thấy ba và chú tâm sự mãi đến khuya. Ba tôi lo lắng đủ điều, những thứ nằm ngoài suy nghĩ của tôi. Với tôi học đại học chỉ đơn giản gọn nhẹ là hành trình đi tìm thêm cái mới, những niềm vui mới, lấp cho đầy túi trí khôn. Hai năm đầu ở giảng đường êm xuôi, có lẽ nó là những năm tháng sinh viên trong trẻo nhất của tôi, không vướn chút muộn phiền, rắc rối. Đến đầu năm thứ ba, kể từ khi tôi quen biết rồi thân thiết với Hà. Hà thoạt nhìn bề ngoài, ai cũng nhận ra là cô gái xinh, không có nét đẹp hút hồn người. Nhưng ánh mắt dường như biết nói của Hà, luôn dẫn dụ người khác lao vào khám phá cho thõa sự tò mò. Hà vì muốn đeo đuổi niềm vui giảng đường, vì cái mối giây quê hương thắt chặt tự sâu thẳm đáy lòng, nên gạt nước mắt, buông tay ba mẹ, ở lại sài gòn. Cả nhà Hà ra đi theo diện HO, riêng Hà ở lại. Khu biệt thư sang trọng nằm chếch về phía sau lưng nhà thờ Đức Bà, là những gì ba mẹ để lại cho Hà và vú nuôi. Khi cả gia đình đi rồi Hà mới thấy trống trãi, mênh mông đến khó lòng chấp nhận. Hà lửng thửng trong giảng đường không muốn về nhà, không muốn đối diện với bốn bức tường lạnh ngắt.

Chúng tôi thân thiết nhau kể từ khi Hà gợi ý tôi đến ở chung cho vui. Dẫu sao thì tôi ở nhà chú tôi cũng không thấy thoải mái. Mặc dù chú và vợ của chú rất thương tôi. Nhưng cái kiểu thương của nhà mô phạm. Tôi luôn cảm giác có một vòng giây đang trói chặt mình. Tôi cảm thấy như sự tự do của tôi ngày càng bị thu hẹp và phụ thuộc vào sự ban phát nới ra hay chặt vào của chú. Tôi không muốn, tôi không thích làm một chú ngựa bị cột chặt trong khu sở thú xinh đẹp, được no thõa thức ăn và giương mắt đứng nhìn nhiều người nhiễu nhương qua lại. Tôi phải là một con ngựa chạy rong nhấm cỏ non trên những thảo nguyên xinh đẹp.

Mặc cho ba mẹ tôi có thu xếp những bề bộn công việc, khăn gói từ Nha Trang vào, rồi thức trắng đêm với cô chú tôi. Tôi vẫn an lòng ngon giấc và ấp ủ trọn vẹn một quyết định sẽ dọn đến ở cùng với Hà. Tôi muốn vứt bỏ sợi giây trói buộc sự sáng tạo, mà đeo đuổi lối sống phù hợp mốt và thời đại của tôi. Tôi biết chú tôi giận lắm, vì chú đang công tác xa ở các tỉnh miền Tây. Tôi không thể chờ đợi và lẫn quẩn với việc chăm sóc nhà cửa con cái phụ cô. Tôi quảy hành lý sang ở nhà Hà. Cảm thấy như vừa cởi bỏ gánh nặng bị bó chặt vào người . Nằm duỗi cẳng ngủ mà không phải sợ những tiếng càm nhàm của người thân.

Có tôi Hà vui hẳn, nhà thêm tiếng cười rôm rả. Ngày ngày bên giảng đường ríu rít, cuộc đời chúng tôi như được buộc chặt vào nhau không thể tách rời. Ba mẹ tôi có lần vào Sài Gòn thăm, thấy tôi sống tốt, ông bà bị thuyết phục bởi cái lý tôi cho rằng ở nhà cô chú bận rộn với việc, cơm nước, nhà cửa, rồi thậm chí phụ cô trông em. Tôi không có thời gian tập trung cho việc học. Giờ sống đời sống của chính mình, của tôi và Hà tập trung cùng nhau học tập. Thỉnh thoảng, những ngày nghỉ tôi cùng Hà về Nha Trang thăm ba mẹ. Ba mẹ tôi an lòng và xem Hà như con.

Mọi sự sẽ bình yên, nếu như không có cái buổi tối cai nghiệt ấy. Sau khi chúng tôi vui trọn cuộc vui ở tiệc sinh nhật với bạn bè. Trở về trong tâm thế là ngà. Phải chăng những lời lúc say là lời tỉnh và là thật nhất. Hà ôm chặt lấy tôi như không muốn rời xa. Cơ thể nóng ấm của Hà lan tỏa dần sang da thịt tôi. Hà thì thầm đừng rời xa tôi nhé! Ở mãi nơi này nhé. Tớ không thể sống thiếu cậu. Lờ mờ trong đầu tôi loáng thoáng tiếng nghe được tiếng mất của chú và ba nói chuyện. Đó là nổi lo lắng mà chú tôi nói khi không muốn tôi dọn đi :- Rồi cháu sẽ ân hận khi dọn ra sống với cô bé ấy! Lúc đấy tôi như muốn biểu môi cười với những ẩn ý không mấy lành lặn của chú. Giờ ý tưởng ấy lại nhấp nháy trong đầu tôi. Tôi lắc mạnh để mong rằng ý tưởng ấy văng ra khỏi đầu óc tôi. Nhưng mọi thứ từng ngày diễn ra trước mắt tôi như niếu chặt, dán dính suy nghĩ ấy vào từng sợi nơ-ron thần kinh. Hà quan tâm chăm sóc tôi, vượt trên cả tình bạn. Hà dần dần kéo tôi buộc chặt tôi vào trong cái vòng lẩn quẩn mà dường như lắm lúc tôi cũng nếm cảm được vị ngọt ngào. Lúc đầu tôi sợ hãi, nhưng dần dần trái tim tôi vô cảm với sự sợ hãi. Nó chiếm ngự một cảm xúc kỳ lạ. Tôi bắt đầu cảm nhận được sự cần và đủ khi trao ban, sự cho và nhận để làm thăng hoa lòng thõa mãn và giá trị hạnh phúc. Chúng tôi đã cuộn vào nhau như những con sóng dữ đang tung ra khơi với muôn ngàn tự hào và kiêu hảnh. Mặc cho người đời có dè biểu, mặc cho những ánh mắt khinh khi. Chúng tôi vẫn tồn tại và hiện hữu bên nhau mà thấy đời thế là đủ.

Rồi sự thế cũng đến tai ba mẹ Hà. Ông bà tìm mọi cách để đưa Hà đi. Ngay cả ba mẹ tôi cũng thế, họ không muốn chúng tôi phí hoài tuổi xuân. Họ không nở nhìn thấy cái hệ lụy, đang làm nhức nhối xã hội lại rơi vào đúng chính con cái và gia đình họ. Ngày Hà xuất cảnh, tôi lang thang, không muốn về lại căng phòng ấy. Lòng ngỗn ngang trăm mối. Tôi cuồng chân thả bộ và đứng gục đầu trước tượng người phụ nữ linh thiêng trước nhà thờ Đức Bà. Tôi nấc lên từng tiếng nghẹn ngào, rồi ngước mắt nhìn lên đôi mắt Bà. Đôi mắt ấy dường như nhấp nháy, cảm giác rùng rợn đang chạy dọc dài sống lưng tôi. Bàn tay tôi lạnh ngắt, mắt chao đảo, người chợt như ngã xuống. Nhưng có bàn tay ai đó đang áp vào xoa nhẹ tay tôi. Sao lạnh tái tím thế này? . Hơi ấm từ bàn tay ấy lan nhanh làm ấm dần, cái sức ấm len nhè nhẹ tận trái tim tôi. Một cảm xúc mà tôi chưa từng trãi nghiệm, cái ánh mắt hiền từ ấy như đang vặn vẹo trái tim tôi, giục tôi mở lòng xưng thú hết bao lỗi lầm với một người xa lạ mà dường như gần gũi. Hắn học trên tôi, khi mọi người kết án tôi hắn chỉ lặng lẽ quan sát mà không hề lên tiếng. Lúc nào ánh mắt hiền lành của hắn nhìn len vào má tôi. Tôi đều thấy run lên một nhịp đập, thoáng qua rồi tắt ngấm. Giờ lúc trái tim tôi gần như tan nát, hắn lại xuất hiện. Cánh cửa như đang đóng sầm trước mắt tôi, tôi lại thấy hắn nhẹ nhàng trao cho tôi chiếc chìa khóa. Rồi chìa nhẹ đôi vai cho tôi nghỉ ngơi. Hắn đeo vào tay tôi vòng chuỗi hạt màu xanh lấp lánh. Và thì thầm với tôi, hãy vững tin, vì tương lai phía trước đang còn rực sáng. Hãy tâm sự bất cứ điều gì khi bạn gặp buồn chán vì Đức Bà luôn dõi mắt theo gian trần.

Ngày tôi rời Sài Gòn để đi Paris, tôi cố tình quay lại nhà thờ Đức Bà, muốn nói lời từ biệt hay tìm lại dấu vết tôi cũng không biết nữa? Tôi nhớ mãi cái bàn tay xoa nhẹ đem lại cho tôi hơi ấm. Truyền cho tôi niềm tin và sức sống. Nhưng người ấy đã đi xa và duyên mai của tôi chỉ có thể là thế thôi.

Hai mươi năm lưu lạc nơi Paris tráng lệ. Tôi dường như quên hết mọi thứ. Tôi rồi cũng có gia đình và hai đứa con gái bé bỏng. Cuộc sống chạy đua với thời gian đủ làm cho tôi cạn kiệt sức lực. Mọi thứ đã cô đặc và hóa thạch từ tận thẩm sâu trái tim mình. Nhưng cái chuỗi hạt ngọc xanh kia vẫn óng ánh theo thời gian. Ánh mắt hiền lành ấy vẫn được tôi cất giữ tròn trịa từ góc trái tim mình. Và tôi vẫn trung kiên một lời cầu xin với Đức Bà dõi mắt nhìn đến cuộc đời tôi. Tôi luôn cảm nhận mình đã có một con đường quay về đúng hướng.

Cảm ơn những chiều Paris cuối tuần óng ả giúp tôi đoạn tuyệt với quá khứ nhưng giữ lại cho tôi chuổi hạt óng ánh và ánh mắt dịu nhẹ của người ấy truyền cho tôi chút niềm tin mỏng manh vào ơn phù trợ của Đức Bà. Giờ niềm tin ấy tỏa ngát xanh trong tôi.

 

Mã số: 14-012

THẦY!

Tôi quày quả ra đi vì một cú điện thoại?  Không đúng! Có lẽ vì muốn xác tính niềm tin của mình. Tôi quý Thầy vì Thầy là ân nhân cứu mạng gia đình tôi. Trong lúc cả nhà tôi hoàn toàn suy sụp, niềm tin được nhổ rễ và sự nghi ngờ đang lấp đầy tâm hồn.

Thầy đến. Như một luồng sáng Đức Ki-Tô, chiếu gọi vào tận tâm cang chúng tôi….

Câu chuyện Thầy kể luôn mang chiều sâu của niềm tin tưởng tuyệt đối, lòng phó thác vào sự an bày để mắt trông coi của Chúa là Cha.

- Ý Chúa luôn nhiệm mầu! Thầy nói,

Mẹ mất sớm! Miền Trung, thiên nhiên khắc nghiệt, khoảnh khắc giữa sự sống và cái chết mỏng manh như sợi chỉ. Mẹ Thầy bị cướp đi trong cơn bão kinh hoàng, nó như một vết khắc sâu đậm trong đầu Thầy.

Đứa bé mười hai tuổi, bên xác Mẹ và đàn em, Cha bệnh nặng, nhà không gạo. Làm gì? Bắt đầu từ đâu?

Thầy kể chuyện, như một cuộn phim dài nhiều tập. Tôi chăm chú. Tôi nuốt cơn nghẹn. Tôi thấy tim nhói đau. Lắm lúc như muốn rơi vào hố sâu. Nhưng sức mạnh vẫn nhiều hơn để chế ngự khốn khó. Mỗi lần như thế Thầy đều nói:

- Chúa luôn ẩm bồng Thầy trong vòng tay, vẫn ấp iu Thầy dù Thầy là đứa trẻ chăn trâu, dù Thầy là anh khuân vác, Thầy vẫn cảm nghiệm Chúa đi sát bên đời Thầy. Thầy luôn luôn trung kiên với việc cầu nguyện và Thầy nghe được tiếng Chúa gọi tên Thầy hàng ngày giữa cuộc sống xô bồ. Mỗi lần đứng trước thách thức Thầy đều nghe tiếng Chúa và khướt từ những lợi lộc trần thế. Và thế lực trần gian xô ngã Thầy, Thầy lại đứng dậy và bắt đầu lại từ con số không. Lúc đấy tâm hồn Thầy Bình an thanh thảng, tuy cuộc sống phải gánh thêm nhiều vất vả.

….

Tôi ghé ngang, căn phòng chỗ Thầy thuê trọ, ngăn nắp sạch sẽ. Phía bên trên chiếc bàn nhỏ là tượng ảnh Đức Mẹ sầu bi. Thầy chỉ tay lên Mẹ và nói người Thầy yêu nhất trong cuộc đời này, và cũng là người yêu Thầy nhất. Lúc nào Thầy cũng cảm nhận được giấc ngủ an lành trong vòng tay Mẹ.

Phía sau bức màng che chiếc giường gỗ đơn sơ là gian bếp nhỏ. Lơ thơ mấy con cá khô và bó rau đó là thức ăn đủ để sống và làm việc.

Giữa Sài Gòn tráng lệ, tiếng đời dồn dập bên ngoài, dòng người bon chen tấp nập đi tìm hưởng thụ cuộc sống. Thầy trong gác xếp nhỏ chuyên chăm cầu nguyện cho những bệnh nhân mà hàng ngày Thầy đã chữa bệnh cho họ.

Thầy làm từ thiện, không nhận tiền hay bất cứ món gì. Nếu ai mang đến Thầy bắt đưa về ngay. Tôi tò mò hỏi:

- Thế làm sao Thầy có tiền để sống?

- Mỗi tuần ba buổi Thầy đi làm một tiếng đồng hồ, người ta trả ba trăm một buổi. Mỗi ngày Thầy chỉ tiêu 20 ngàn. Thế là đù. Thầy nói Thầy làm gương cho xã hội!

Mỗi ngày, khoảng gần cả trăm lượt bệnh nhân đến với Thầy. Đa phần là xương khớp, có một số trẻ em thường là di chứng của sốt bại liệt. Thầy bấm nguyệt. Mà hơn hết là Thầy cầu nguyện xin Chúa cứu chữa họ qua bàn tay Thầy.

Gần mười năm, sống giữa đất Sài Gòn Thầy vẫn đi về trên chiếc xe đạp tự tay Thầy ráp, Thầy chưa biết sờ vào chiếc máy vi tinh, có khi nhiều người nhã ý tặng Thầy Laptop, I phone, nhưng Thầy không nhận, và gợi ý họ giúp người nghèo, người đau khổ.

…. .

Thầy gọi điện bảo đi vùng sâu trị bệnh cho người nghèo, cách chỗ tôi gần 2 tiếng ngồi xe đò. Bệnh nhân đông quá, ngơi tay ra được thì người đói lã. Mới đến chưa biết chỗ, nhưng thương bà con nghèo khổ, đa phần do lao động vất vả giờ xương khớp rệu rạo. Người nông dân chân thành dễ thương, có sao nói vậy, mộc mạc. Họ là món quà vô giá mà Chúa gửi đến cho Thầy, gặp họ, Thầy thấy hạnh phúc. Thân thiện chân thành như gặp người thân trong nhà, có người thiệt tình đến chân thành:

- Thầy ở đây luôn đi con hùn gạo nuôi Thầy.

Nụ cười móp méo trên khuôn mặt bà lão, nhưng trái tim tròn trịa chân tình.

- Thương Thầy quá, mà con không biết lấy gì báo ơn, con về mỗi ngày cầu nguyện cho Thầy khỏe để trị bệnh cho nhiều người.

- Mới mấy ngày mà con ngủ khỏe re.

Tất cả những câu nói mộc mạc ấy được Thầy đón nhận như niềm hạnh phúc, như tình yêu đẹp và trọn vẹn nhất vì đều mang hình hài của Đức Ki-tô. Chúa chẳng bảo người hóa thân là những người nghèo khổ bệnh tật đó sao? Gặp họ là gặp Đức Ki-tô còn gì? Cả đời đi tìm Đức Ki-tô nhưng gặp Ngài lại xua đuổi tránh xa vì sợ bị luyên lụy…

Buổi tối tranh thủ Thầy đi đến nhà những bệnh nhân dường như tuyệt vọng. Thầy chỉ mong mang đến cho họ niềm vui của chúa phục sinh, chứ bệnh nặng như thế thì chỉ có Đức Ki-tô mới cứu chữa được thôi. Được Thầy đến thăm là họ vui vẻ, họ vững tin hơn, lạc quan hơn, hy vọng nhiều hơn ở việc được phục sinh trong Chúa.

Đem niềm vui đến cho họ, gánh dùm họ nỗi ưu sầu. Có trường hợp thương tâm đến mức khi đêm về Thầy thức trắng đêm cầu nguyện cho họ. Đắm mình trong việc cầu nguyện, hãm mình, mong được chia sẻ với những đau thương khốn cùng của bệnh nhân và gia đình bệnh nhân phải hứng chịu.

Thầy dẫn tôi đến thăm gia đình anh Bão, chị Nhung. Thầy nói, đi nhiều gặp nhiều cảnh đời éo le. Nhưng đây là một trong trường hợp Thầy thức trắng đêm dìm mình với Đức Ki-tô trong vườn Giết-xi-ma để cầu nguyện. Cầu xin Chúa luôn ở sát bên bốn người họ, vì họ rất đáng thương. Nhìn họ rồi nhìn nhanh ra xã hội, đầy những nơi sống không ra chữ sống, lừa lọc, gian xảo, vì để có tiền họ bất chấp mọi thủ đoạn chà đạp lên nhau. Thầy nói thấy mà đau lòng. Thương người chồng phải chịu đựng quá sức đau khổ mà không thể rên xiết, chỉ một lòng bám riết vào Chúa vào niềm tin mỏng manh nhưng dai dẳng không gì có thể bức rời, cắt đứt.

Tiền sử của hai vợ chồng trẻ và hai đứa con gái ngoan ngoãn, năm năm trước đây là một gia đình nghèo, nhưng chí thú làm ăn, cũng có mấy xào đất. Anh hàng ngày đi làm phụ hồ, mong có chút đỉnh đề giành, mai con khôn lớn học hành. Chị ngoài việc chăm sóc cơm nước cho hai cháu, chị thường đi làm mướn, bẻ nhãn. Có lần đang đội thúng nhãn trên đầu chị bị trượt chân ngã. Đồng lớn đồng bé giành dụm được lâu nay anh gom góp đưa chị đến bệnh viện chợ Rẫy, nhiều tháng ở bệnh viện nhưng chị không thể trở mình được, chỉ có cái đầu vẫn tỉnh táo. Toàn thân bị liệt. Bác sĩ nói bị dập tủy. Tiền hết nợ chồng lên nợ cuối cùng anh đành gạt nước mắt đưa chị về nhà. Kể từ đấy đến nay đã năm năm, chị nằm yên một chỗ, không mặc quần áo, không cử động được, chỉ trừ cái đầu là còn có thể xoay qua. Anh vừa đóng vai người chồng, người vợ, người cha, thậm chí người y tá đắc lực của chị. Được cái, hai đứa con gái anh rất ngoan ngoãn. Chúng thương anh, tự biết chăm sóc nhau, tự biết lo học tập, luôn là học sinh giỏi. Bé lớn năm nay lên lớp 3. Bé kế lớp 2. Năm năm nay, ngày nào cũng thế anh dậy từ rất sớm, lo bữa sáng cho chị và hai cháu. Trước khi đưa hai cháu đến trường, anh lấy giây cột hai chân chị lại, sợ chị co giật tung chăn lên, côn trùng bò vào người. Để chị nằm yên đó, rồi anh đưa hai cháu đến trường, xong đi thẳng đến chỗ làm phụ hồ. Hai cháu tan học ngồi lại trường chờ Bố hết giờ làm về rước. Đến nhà anh bắt tay vào nấu cơm. Cha con ríu rít trong niềm hạnh phúc nhỏ nhoi. Lo cho cả nhà ăn xong anh lại tiếp tục đi làm buổi chiều. Xong việc chiều là 5 giờ anh lại về với chị và con lo buổi tối, cơm nước xong tầm 8 giờ anh bế chị đi tắm rửa. Anh chăm sóc chị rất tốt khuôn mặt hồng hào. Lúc tôi và Thầy đến thăm, gia đình họ đang bên bàn cơm tối. Anh vừa ăn vừa xơi từng muỗng cơm cho chị. Hai chú chim ri đang ríu rít. Thấy chúng tôi bước vào, không ai bảo, cả hai đều đứng lên chuyển nhường chiếc ghế đang ngồi chuyển mời chúng tôi ngồi. Hình ảnh rất cảm động! Một gia đình Na-za-ret nhỏ. Tôi đứng lặng người trước nổi đau, sự mất mát của họ. Tôi nhìn sâu vào mắt anh, lòng thầm cảm phục. Đôi mắt ấy sâu thẳm ánh lên sự chịu đựng, nhưng tôi như đụng chạm được con tim đầy tình thương của anh. Chằng chịt trong đầu tôi nhiều dấu hỏi:

- Làm sao anh có thể chịu đựng ngần đấy năm???

Xoáy sâu vào tâm tư ấy tôi tìm lời giải đáp. Vì tình yêu Thiên Chúa! Giọng trầm đục:

- Tôi cũng là con người, gặp đau khổ thử thách cũng muốn trốn chạy. Nếu như tôi không có đạo, không có Chúa tôi đã bỏ đi từ lâu. Nhưng Tôi là người công giáo, tôi biết Chúa vẫn thương tôi, nhiều lần tôi cũng nói với Chúa bớt đi thánh giá cho tôi nó nặng quá tôi không đủ sức vác. Lúc đầu tôi bị sốc lắm. Nhưng dần dần tôi phó mặc cho Chúa. Tôi hàng ngày cầu xin Chúa cho tôi mạnh khỏe để làm mướn chăm sóc vợ và hai con tôi. Sức mạnh mà Chúa cho tôi là hai đứa con nhìn chúng và tôi cố gắng. Cha con tôi rất thương nhau. Có người nhận nuôi chúng nhưng tôi không nở cắt đi núm ruột của mình. Cháu cũng không chịu theo, nói ở nhà với Ba Mẹ có gì ăn nấy.

….

Tôi nhìn Thầy giọt nước mắt lăn dài, nước mắt của một người đàn ông lần đầu tiên tôi được thấy, nó như được bật ra từ tận sâu thẳm trái tim. Tôi nhìn qua anh người đàn ông thân hình nhỏ bé nhưng nghị lực phi thường dường như gánh hết nỗi đau nhân trần. Trái tim tôi rung lên từng nhịp đập, đau rát như có ai cào cấu khi nhìn sâu vào ánh mắt hai đứa bé, nó ngây thơ nhưng đục màu khổ đau. Rồi tôi nhìn nhanh lên ảnh tượng Chúa chuộc tội trên bàn thờ, khuôn mặt ấy như cảm thông như đồng dạng với chúng tôi, khuôn mặt ấy hiện diện nơi đây để thêm sức, để nhắc nhở chúng tôi ra khỏi vườn Giết-xi-ma là thấy ngay ánh sáng phục sinh.

Trên đường về Thầy nói với tôi. Hiệp thông với Thầy cầu nguyện cho gia đình anh. Cầu nguyện cho nỗi đau anh gánh chịu được thánh hóa nên như lễ vật đẹp lòng Chúa nhất. Cầu nguyện cho anh vì anh đã hy sinh hứng chịu nỗi đau để làm gương cho thế gian. Để làm nhân chứng sống động cho Đức Ki-tô, vì chỉ có niềm tin tưởng thật sự vào Đức Ki-tô vào sự phục sinh vinh hiển đời sau, anh mới chấp nhận vác trọn đến cuối đường, thánh giá đời mình.

Tôi tưởng mình ngon lành lắm. Tôi biết Chúa từ tấm bé. Tôi tuyên xưng niềm tin từ khi có tuổi khôn. Và cứ như thế tôi giữ trọn khư khư trong lòng rằng mình có đức tin. Hành trình một năm đức tin ngoảnh mặt nhìn lại. Tôi mai mắn tạ ơn Chúa vì mình được gặp Thầy, gặp anh, những người thật sự tin. Đức tin họ luôn hành động, sống động, còn tôi tin trong mơ hồ, tin rằng mình có đức tin. Nhưng đã có lần nào tôi hành động vì niềm tin đâu? Gặp khốn khó tôi cúi đầu rên rỉ, khi nguy nan tôi trách cứ nhân gian…

Tôi ngấm được một bài học từ Thầy: Chúng ta chẳng bao giờ gặp được Đức Ki-tô khi cứ trốn tránh những người anh em đói nghèo khốn khó quanh mình!

 

Mã số: 14-013

TRỞ VỀ .  .  .

 

 Mến gửi các em mái ấm Camêlô – quận 12 – Tp HCM.

Các em à !

 Anh biết rằng nỗi đau mà các em phải trải qua là rất lớn, các em đã thiếu tình thương rất nhiều. Anh tin rằng Vua Tình Yêu sẽ đùm bọc và nâng đỡ các em trên nẻo đường các em đang hướng tới. Mọi sự sẽ tốt đẹp khi các em trông cậy nơi Thiên Chúa. Anh sẽ mãi yêu các em và làm mọi điều tốt nhất cho các em trong khả năng có thể của anh.

Mến gửi các em !

Anh trai

                                                   

Khi Chúa dẫn tù nhân Xi-on trở về

Ta tưởng mình như giữa giấc mơ.

Việc Chúa làm cho ta ôi vĩ đại !

Ta thấy mình chan chứa một niềm vui.

 (TV 125, 1. 3 )

Ngồi thẫn thờ trong ngôi nhà thờ nhỏ, Hải Đăng nhận ra rất nhiều điều đã trải nghiệm từ cuộc sống. Dường như cái thiện và cái ác nó luôn song hành, chống đối nhau; cái tốt và cái xấu nó luôn tồn tại trong cuộc sống trần gian đầy đau khổ, chông gai…

Sự gì đến cũng sẽ đến, sự gì đi cũng sẽ đi để lại trong ta một quá khứ và mở ra trước mắt cho ta một tương lai. Trong vũ trụ này chẳng có gì là vĩnh cửu, đến vì sao còn có lúc phải rơi, đến mặt trời còn có ngày tắt nắng, nên cái cũ mất đi và cái mới lại thế vào, đó là một điều hết sức bình thường. Thế nhưng, là mỗi người Ki tô hữu tự đáy lòng chúng ta đều có chung niềm tin vào Đấng Cứu Độ. Chính niềm tin ấy đã khiến bao trái tim trăn trở, thao thức muốn tìm về một nguồn bình an, một tình yêu thật sự; do đó tạo cho họ một sức mạnh tinh thần, một hướng đi để sống tốt hơn trên con đường chân lý. Hy vọng rằng những khó khăn, trở ngại trong cuộc sống như một điều tất yếu cần có để ta có thể mỉm cười và trân trọng những gì cuộc sống đã ban tặng và thử thách ta giữa cuộc sống trần gian.

Bỗng một tiếng gọi văng vẳng từ ngoài vào:

- Đăng ơi ! Đã xong chưa?

- Nhanh lên, ta đi nào…

  Những tiếng gọi của thầy Trì làm Đăng choàng tỉnh.

- Dạ, em xong rồi ạ.

- Em ra ngay đây.

Lại gần chiếc xe Dream, thầy Trì nổ máy và nói: “ Lên xe ta đi nào ! ”.

Hai thầy trò cùng đi hướng về phía tu viện Biển Đức, nơi ánh sáng mặt trời đang tỏa nắng. Giờ này bình minh mới ló rạng, đôi ba tia nắng ấm áp dọi xuống khu phố làm tươi mới cả bầu không khí ẩm mốc, những tán lá cây bắt đầu ưỡn ngực, vươn vai để đón nhận những tia nắng đầu tiên của ánh mặt trời.

- Trời hôm nay đẹp quá thầy nhỉ ! Giá mà em được hóa thân vào những tia nắng kia để chiếu dọi những vùng tăm tối đang ngóng trông, đợi chờ. Đăng nói trong hy vọng.

Mỉm cười một cách khoái trá, thầy Trì đọc lên câu Thánh thi kinh sáng:

Bình minh tới, ngàn tia nắng ấm

Đuổi sa mù phủ trắng trần gian

Vầng hồng tươi mát xuân sang

Điểm tô muôn sắc huy hoàng trời mây.

 

Màn đêm tối bủa vây giăng mắc,

Tội bất trung dằn vặt tâm tình

Chợt nhìn bóng Chúa uy linh

Mây mù tan rã trời xanh sáng ngời.

 ( Thánh thi kinh sáng – thứ Tư / tuần 1 ).

- Thầy mong rằng em luôn có đủ sức mạnh vượt qua tất cả để đạt được những ước mơ của mình cho dù cuộc sống có thế nào đi nữa.

- Phấn đấu lên em nhé. Mỗi nhịp bước của em đều có dấu chân của Chúa, Chúa sẽ luôn đồng hành cùng em giữa những nẻo đường của cuộc sống.

- Tiếp lời, thầy Trì đọc câu thánh vịnh quen thuộc:

Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống

Mùa gặt mai sau khấp khởi mừng

Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo,

lúc trở về, vui reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng.

 ( Tv 125; 5-6 ).

Mải trò chuyện, hai thầy trò gần đến tu viện lúc nào không hay biết. Qua một khúc cua nhỏ nữa là đến nơi, hai bên bờ những rặng cau cảnh cao vun vút, thẳng như kẻ chỉ; dưới mép đường toàn là những cây cỏ Nhật được cắt tỉa vuông vắn; khuôn viên tu viện toàn là cây cảnh và hoa. Một hương vị quê hương hòa quyện giữa khu phố ồn ào, náo nhiệt. Nơi đây gần trung tâm thành phố nhưng lại mang một đặc tính của quê hương: thanh vắng, tĩnh lặng, nhẹ nhàng và còn thoang thoảng mùi của thiên nhiên, đất trời. . . Đứng trước hai thầy trò là một cánh cổng sắt đơn giản, không cầu kỳ hay trau chuốt gì cả nhưng vẫn giữ được vẻ sang trọng và đẹp đẽ. Phía bên phải là một cái chuông nhỏ với dòng chữ: Là khách hãy ấn chuông, xin cảm ơn!

Như được quay trở về với tuổi học sinh đầy tươi đẹp và trong sáng. Đăng nhớ lại những kí ức đẹp, những dấu ấn không thể quên khi anh nội trú tại đây trong những tháng ngày học sinh. Khung cảnh vẫn như cũ, mọi thứ vẫn như xưa, chỉ có điều là con người đã đổi thay qua từng ngày. Về lại chốn cũ anh bắt gặp một mùi rất riêng, cái mùi mà khó ai có thể có. Một sức mạnh tuôn đến khiến anh ngộp thở, không kìm nén được cảm xúc làm đôi mắt anh cay cay. Một sự bình an tuyệt đối khó mà diễn tả thành lời. . . Sáu năm trời với biết bao nhiêu kỉ niệm, bao tình thương vô bờ bến mà các cha, các thầy đã dành tặng cho anh, gửi gắm nơi anh bao hy vọng, sự chờ mong về một tương lai tươi sáng. Giờ nghĩ lại anh thấy mình có lỗi, anh xấu hổ với chính anh và những người đã tin tưởng anh.

Cũng nơi này, mười năm về trước một chú bé nhỏ nhắn với vẻ bồn chồn, lo lắng, sợ sệt lần đầu tiên được một người phụ nữ dẫn đến vào một buổi sáng đẹp trời. Những bước đi với vẻ ngập ngùng, e thẹn. Cậu níu váy áo người phụ nữ như thể cố níu giữ một điều gì đó. Cậu sợ sắp phải đón nhận một cuộc sống mới mà không biết nó thế nào, nó ra sao? ! . Người phụ nữ đó ngồi xổm xuống ngang hàng cậu bé và nói nhỏ vào tai cậu một điều gì đó khiến cậu bình tâm và bảo cậu lại ngồi chỗ ghế đá để chờ bà ta. Vâng lời bà cô, cậu lặng lẽ bước đến bên ghế đá bên cạnh có khóm hoa nhỏ, cậu ngồi xuống và ngắm nghía những bông hoa một cách chăm chú, còn người phụ nữ bước vào cha Quản giáo và họ trao đổi với nhau khá lâu. Một lát sau khoảng chừng 30 phút bà ta bước ra với vẻ mặt hớn hở, tiến đến gần cậu bé, nắm chặt tay cậu và dẫn cậu đến trước cha Quản giáo. Bà nói:

 - Thưa cha, như đã nói với cha đây là Hải Đăng.

 - Hải Đăng, con chào cha đi con.

Ngập ngùng trong tiếng nói:

-  Dạ. con. . con… chào cha ạ…

Mỉm cười một cách thánh thiện, vị Linh mục nhẹ nhàng nói:

- Ngoan lắm. Con năm nay bao nhiêu tuổi? , con học lớp mấy?

Những câu hỏi dồn làm cậu thêm lúng túng, khó xử.

- Con. . . con. . . mười. . mười. . hai ạ. Con học lớp 6 .

Câu trả lời của cậu khiến cha xứ đem lòng thương cậu hơn. Quay sang người phụ nữ, cha ôn tồn :

- Thôi được, cô cứ về đi. Giao cháu lại cho tôi.

- Có chuyện gì tôi sẽ báo lại cho cô, cô cứ yên tâm.

Ngồi xổm xuống chú bé nhỏ, cô dặn dò:

- Ở đây con phải ngoan nghe chưa. Nhớ vâng lời các cha và các thầy nhá. Đừng làm cho ai buồn nghe chưa con.

Nhìn lên khuôn mặt cha, cô nói:

- Vậy con giao nó lại cho cha, cha chăm sóc nó dùm con.

- Hết lòng cảm ơn cha. Thôi chào cha, con ra về.

Bỗng một giọng nói bé bỏng như chim non yếu ớt thốt ra:

- Vậy là con phải ở lại đây thật hả cô? !

Câu nói yếu ớt thốt ra khiến cô rơi nước mắt. Chưa bao giờ cô lại thấy thương nó như hôm nay. Năm năm trời sống chung với cô, giờ chia tay cô cũng nhớ nó lắm chứ, chưa bao giờ nó làm cho cô phải buồn hay bận tâm về nó, nó luôn sống mạnh mẽ, nhất là từ khi nó mất cả bố lẫn mẹ.

À, thì ra giờ mới hiểu người phụ nữ đó là cô ruột của cậu ta. Hỏi ra mới biết, cậu là một chú bé mồ côi. Thoạt nhìn chẳng ai nghĩ đó là một chú bé mồ côi vì nhìn khuôn mặt kháu khỉnh, đôi mắt tròn xoe, đôi má hồng hào cộng thêm cả núm đồng tiền khiến cậu thật dễ thương. Đâu ai ngờ được.

Nghẹn ngào trong nước mắt, cô nó bắt đầu kể:

Bố và mẹ nó yêu nhau một thời gian dài, tìm hiểu rất kỹ về nhau rồi đi học giáo lý Hôn nhân và họ quyết định cưới nhau. Đám cưới có lẽ được coi là xứng đôi nhất kể từ trước đến nay, họ hợp nhau đến từng cử chỉ, điệu bộ. Cưới nhau xong, sau hai năm họ mới có trẻ ra đời, đứa bé kháu khỉnh lắm rồi đứa trẻ được lớn lên trong sự thương yêu và đùm bọc của người thân. Năm nó bước vào lớp một, lần đầu tiên nó bỡ ngỡ bước những bước chân tới một miền đất mới với biết bao nhiêu thứ lạ lẫm, bao nhiêu cảnh lạ lùng. Giờ đây, nó có thêm nhiều bạn, biết thêm nhiều thầy cô. Nó rất sung sướng và hạnh phúc trước sự kiện trong đời. Bỗng một ngày, một ngày không ai có thể ngờ được, bầu trời quang đãng không chút gió, mặt hồ lặng như tờ. Một cú điện thoại réo lên ầm nhà, mẹ nó chạy lên và nhấc ống nghe áp sát vào tai, vừa được khoảng hai mươi giây, mẹ nó khụy xuống trong vô vọng:  “ Không thể như thế được. Lẽ nào lại có chuyện đó”.

Hốt hoảng và run sợ, mẹ nó bước đi không vững rồi bà cầm chìa khóa xe và lao chạy nhưng chẳng để ý gì. Phóng xe trên đường quốc lộ, tâm trí để đi đâu không biết, đến ngã tư khi ấy vừa có đèn đỏ mà mẹ nó cứ vụt lao qua. Bỗng một tiếng “ Uỳnh” vang ra rất mạnh, trời đất bỗng chết lặng, khung cảnh như bất động, mọi thứ dường như ngừng hẳn. Một lát sau mọi người tấp nập cả con phố, xe cứu thương kêu inh ỏi. Hiện trường là một vũng máu và máu với một chiếc xe máy tan nát, mọi người bàn tán nhau xì xào. Lúc ấy vừa đi làm về con cũng chưa biết tin gì cụ thể cả, một lát sau nhận được một cú điện thoại từ ông chú thút thít trong tiếng khóc:

- Bố… mẹ …thằng Đăng chết rồi cô à…hu…hu…

- Phải làm sao đây? Thật không thể ngờ. Cô đến đây nhanh nhá. Ở bệnh viện Bình Dân.

Vừa đến bệnh viện, một cảnh tượng không thể tin nổi, hai khuôn mặt rạng ngời, tay trong tay đi vào cõi vĩnh hằng. Hơn bảy năm về trước họ cũng rạng ngời, tay trong tay bước lên thánh đường trong sự chứng hôn của Vua Tình Yêu. Vậy mà, giờ đây cái kịch bản đó lại được lặp lại, họ nắm tay nhau bước sang một thế giới khác, thế giới không còn khổ đau, mất mát, thế giới của sự hạnh phúc vĩnh cửu…Họ vĩnh biệt trần gian nhanh như thế ư? còn Đăng thì làm sao? Nó còn quá nhỏ để đón nhận nỗi đau này??? . Nhưng rồi sự thật phũ phàng ấy cũng đã đến mà không có sự chuẩn bị gì cả. Hỏi ra mới biết sự tình, bố nó huyết áp lên quá cao do làm việc áp lực dẫn đến nhồi máu cơ tim, đưa đến bệnh viện quá trễ và tử vong ngay sau đó. Còn mẹ nó nhận được cái tin khủng khiếp ấy đã không giữ được mình, trên đường đến bệnh viện đã lao vào một chiếc xe tải và tử vong trên đường đến bệnh viện. Thế  là chỉ trong một buổi sáng và hé sang buổi chiều mà hai con người đã vĩnh viễn ra đi không nói lời từ biệt, họ để lại đứa con nhỏ mới lần đầu tiên được cắp sách đến trường.

Rời bệnh viện, chiếc xe tang đưa cả hai người xuống dường trong tư thế bất động. Thằng Đăng, nó chưa hiểu gì, nó chạy lại bên chiếc giường nhỏ nơi bố mẹ nó đang nằm, nó thấy bố nó mặc bộ vet có đeo cà la vat, một hình ảnh nó thường thấy mỗi khi có ngày lễ trọng, nó thủ thỉ hỏi bố: ta chuẩn bị đi lễ hả bố? Mặc đồ rồi sao bố mẹ còn ngủ? . Nó lay mạnh nhưng cũng chẳng ai trả lời cho những câu hỏi của nó. Hiện lên trên khuôn mặt đứa bé sự hoang mang, lo sợ. Nhìn sang mẹ nó thấy mẹ đẹp hơn ngày nào, nó thấy mẹ như thời con gái:mẹ mặc bộ áo dài trắng tuyệt đẹp, trên đầu còn có nơ, đôi má thì được đánh phấn, đôi môi thì được tô son. Nhưng…nhưng sao mẹ cũng như bố. Sao chẳng nói với nó lời nào! . Mọi người thân quen tụ tập đông đủ cả, chẳng ai cầm được nước mắt, sao xót xa, đau đớn thế không biết. . .

Nghẹn ngào trong dòng lệ, cô kể tiếp:

- Khi đưa xác bố và mẹ nó cất vào hòm thì khi đó nó mới hiểu ra: bố, mẹ nó rời xa nó thật rồi. Nó khóc…cứ khóc…khóc mãi…đôi mắt nó sưng híp, tiếng nói của nó nghẹn đắng trong nước mắt:mẹ ơi! ! ! bố ơi! hu…hu…hu…và nó lịm dần đi trong vòng tay của ông chú…

 Hôm sau và suốt mấy ngày liền nó không ăn uống gì cả cho dù dỗ dành đủ trò nhưng vẫn không thể, nó còn quá nhỏ để đón nhận nỗi đau này. Mấy hôm đi chợ về thấy nó ngồi trước hiên cửa, mặt buồn rười rượi, ánh mắt xa xăm hướng về phía chân trời xa thẳm, ai có thể thấu được trong mắt một đứa bé nhỏ mồ côi này. Thế là từ nay tình yêu gia đình nó sẽ không và mãi chẳng bao giờ được nếm trải. Nó cần sự yêu thương chở che của mẹ, sự vỗ về và chơi đùa cùng bố lúc bố rảnh rỗi:

 Con chim nhỏ thôi ngừng cất tiếng hót

 Căn nhà nay vắng bóng mẹ ra vào

 Vắng bóng cha ôm con đùa dỡn

 Trong căn nhà chật hẹp, đơn sơ

 Nguồn tình yêu vô biên, bờ bến

 Nhưng từ này chẳng còn và chẳng đến

 Giờ hiểu rằng con cần đến mẹ cha.

 (Tình Mẹ Cha – Hienboy94)

 Mỗi ngày trôi qua càng đọng lại trong nó bao nỗi buỗn, bao sự trống trải, cô đơn, bao mất mát của tình yêu gia đình. Ai có thể hiểu được cơ chứ ! ! ! . Và ngày nào cũng thế hễ có tiếng xe là nó chạy ra xem có phải bố hay mẹ nó về thăm nó không, được một chút hy vọng mỏng manh nhưng rồi lại tan biến trong chốc lát khi chiếc xe đã vụt đi mất. Nhiều đêm nó thường tỉnh dậy sau những cơn ác mộng khủng khiếp: mồ hôi nhễ nhãi, người thì run run lẩy bẩy trong tiếng nấc: Bố . . ơi ! ! ! Mẹ . . . ơi ! ! ! huhuhu. Dường như nước mắt của nó đã cạn sau bao nỗi nhớ. Nước mắt không đủ để chảy cho những nỗi thống khổ của nó. Dẫu biết rằng mọi chuyện rồi sẽ dần vơi nhưng sự mất mát ấy sẽ theo nó suốt cuộc đời…

 Nhiều đêm con ôm ghì chặt nó vào lòng, xoa đầu và an ủi nó, hâm nóng lại trái tim tan nát của nó. Chính những lúc ấy con cũng không kìm nổi nước mắt khi thấy con chim non yếu ớt đang bay giữa đường đời cô đơn và khổ đau. Nhưng rồi thời gian cũng làm nó vơi đi nỗi buồn, tạo cho nó động lực để sống tốt, sống xứng đáng với bố mẹ nó. Bố nó thường dạy nó quy luật của chiếc mũi tên: “ Khi kéo cung  thì mũi tên nó bị lôi ra đằng sau, càng lôi ra xa thì mũi tên càng bay xa hơn. Cũng vậy trong cuộc sống, khi những trở ngại, khó khăn kéo ta lại phía sau thì cũng chính là tạo cho ta nguồn động lực để ta tiến về phía trước”. Nó luôn nhớ lời dặn ấy và động viên mình bước về phía trước dù gặp khó khăn hay trở ngại gì. Thời gian có thể không xóa nhòa tất cả những kí ức đau buồn nhưng nó cũng sẽ làm vơi đi, làm nguội lại và xoa dịu bớt nỗi đau ấy…

 Trong suốt 5 năm trời nó không khi nào làm con phải buồn hay thất vọng về nó, trái lại nó luôn là nguồn động viên lớn cho con mỗi khi con gặp khó khăn gì trong cuộc sống. Ít hôm nữa con được nhà trường cử đi du học để học tiếp lên tiến sĩ nên khoảng thời gian bốn năm con sợ không ai chăm lo cuộc sống cho thằng Đăng nên con gửi nó lại cho cha, mong cha giúp con chăm sóc nó giùm con.

 Sửa lại cái túi sách, cô nó cúi đầu chào cha và xoa đầu Hải Đăng:

- Thôi cô về nha. Ở lại phải biết vâng lời cha nghe chưa con? . Thôi cô đi đây.

- Con chào cha con về luôn vì bây giờ cũng khá trễ rồi ạ. Hẹn gặp cha vào ngày gần nhất.

 Một nụ cười mãn nguyện với một giọng nói nhẹ nhàng:

- Cô cứ yên tâm và ra về đi, đừng bận tâm về cháu.

- Sang nước khác nhớ cố gắng học và phải luôn biết thờ phượng Chúa trong mọi sự con nhé! ! ! . . .

                                                              *

 Lúc đầu mới vào đây, lạ nước lạ cái vả lại nó còn nhỏ để chịu sự thay đổi trong cuộc đời, nhiều đêm liền nó đã khóc vì nhớ nhà, nhớ cô, thêm vào những nỗi nhớ kéo theo đó là nó nhớ bố, nhớ mẹ vô vàn, may mà có các thầy và cha Quản giáo nâng niu, dỗ dành nên dần dần nó cũng quen. Có những lúc thấy nó chết lặng người khi thấy những ông bố, bà mẹ chở con cái của họ đến trường, tự nhiên nó thấy tủi thân và nó thương mình quá. Có thể do hoàn cảnh đưa đẩy nên nó hay chạy đến với Chúa nhiều hơn để cùng tâm sự với Chúa. Một đêm nọ sau khi đọc kinh tối xong, các thầy đã về phòng ngủ, chỉ còn nó ở lại để nó có thể cảm nhận tình yêu của Chúa thay cho tình yêu bố mẹ. Nó hy vọng rằng tình yêu của Chúa sẽ lấp đầy chỗ trống nó đang thiếu và bồi thêm sinh khí cho những ngày mai phía trước. Có lúc nó thủ thỉ hỏi Chúa: bố mẹ con đi đâu thế hả Chúa? ! , sao chỉ còn con trống trải giữa đời thế này? ! . Hỏi những câu mà nó cảm thấy như xé ruột tim gan, nhức nhói hết sức, đau hết sức. Hỏi xong nó nói với Chúa để tự an ủi mình và  để vơi đi nỗi buồn : Chúa à ! Ngài thay bố mẹ con nhá, làm bờ vai đỡ nâng lúc con ngã; làm vòng tay để vỗ về mỗi khi con cô đơn, buồn tủi. Và cứ mỗi lần như thế nó khóc, khóc giữa bóng đêm đen tối; rồi nó nhủ lòng đứng lên vượt qua số phận. Cứ nhiều đêm như vậy dần dần nó đã yêu Chúa từ lúc nào không hay, Chúa đã chạm tay vào cuộc sống nó; từ đây Chúa bước vào cuộc sống nó và đồng hành cùng nó trên nẻo đường đời. Cuộc sống là vậy, phải biết chấp nhận số phận để lớn lên dù hoàn cảnh có kéo đến chỗ nào đi nữa. Mỗi ngày nó được đọc kinh lần hạt, tham dự thánh lễ Misa và học hỏi Kinh Thánh nhưng nó cũng không lả lơi việc học tập, trái lại nó khá chăm chỉ và luôn đứng đầu lớp về thành tích. Và rồi thời gian cũng thấm thoắt trôi đi, chở bao nhiêu kỉ niệm buồn vui của cuộc sống đưa nó lớn lên qua từng ngày, từng giờ trong ân huệ Chúa. Sang năm 12 nó nộp hồ sơ vào đại học Ngoại thương Tp HCM, ngành  kinh tế đối ngoại với khối A và khối D1. Công việc ôn thi rất vất vả, nó ôn thi ngày lẫn đêm và kết quả không ngoài dự tính, nó đậu cả hai khối với số điểm cao. Khi nhận được giấy báo, nó chạy thẳng đến cha Quản giáo, nó không kìm được nước mắt, nó ôm Cha vào lòng và khóc nức nở, rồi nó đưa cho cha giấy báo đại học. Mỉm cười đầy mãn nguyện, cha xoa đầu và ôm nó vào lòng với một tình thương đầy ắp, vô bờ bến. Ngày nó bước vào cánh cổng đại học là  ngày nó bước vào một cuộc sống khác, cuộc sống khá vất vả nhưng cũng lắm niềm vui, đó là cuộc sống sinh viên. Hành trang của nó vài bộ quần áo, một ít tiền, hàng tá sách vở và một kho tàng tình thương vô hạn mà các cha, các thầy đã dành cho nó. Nó ra đi đem theo biết bao nhiêu là niềm tin và hy vọng về một ngày mai chói lòa. . .

 Bước vào cánh cổng đại học nó hiểu rằng chỉ có con đường học vấn mới giúp nó phát triển cả về trí tuệ lẫn nhân cách. Sống không học, không có tri thức sẽ như cây chẳng bao giờ thấy ánh sáng mặt trời, sẽ như đời chẳng có niềm vui. Trường của nó cách dòng 60 cây số nên nó đành ở trọ và kiếm việc làm thêm để tự nuôi sống bản thân. Năm thứ nhất nó luôn tự hứa với mình là phải luôn đứng tốp đầu lớp, nó đặt ra nhiều mục tiêu trước mắt và những mục tiêu lâu dài. Ngày nào cũng thế nó chỉ luôn cắm đầu vào học và tìm tòi những kiến thức, bên cạnh đó nó còn tìm được công việc gia sư, tuần 3 buổi, mỗi buổi 100. 000đ, do đó nó cũng đủ nộp tiền phòng, còn các khoản khác cô nó cấp cho. Mỗi tuần nó cũng về dòng một lần để tĩnh tâm và cầu nguyện cùng các cha và các thầy. Cuộc sống cứ dần trôi theo năm tháng, hoàn cảnh đưa đẩy khiến con người có tính cách tùy thuộc vào hoàn cảnh để quyết định mọi việc. Sang năm thứ hai nó thấy nó đã lớn, nó có thể quyết định mọi việc theo suy nghĩ của nó, nó cảm thấy việc lệ thuộc vào người khác khiến nó bứt rứt, khó chịu và nó tìm mọi cách làm ra tiền để không lệ thuộc vào người khác, đặc biệt là cô của nó, mỗi lần túng tiền mà cứ phải cấp cho nó trong vẻ mặt không vui thì nó cũng hơi ngại do đó nó tìm đủ mọi cách để kiếm ra thật nhiều tiền, công việc gia sư ít ỏi quá nên nó cũng bỏ nốt và nó chuyển sang công việc bồi bàn, rồi làm thê ở quán ăn nhưng được ít lâu nó lại bỏ vì công việc cứ lặp đi rồi lặp lại khiến nó phát ngán, vả lại cũng ngốn khá nhiều thời gian của nó. Dần dần không hiểu sao nó chán việc đi lễ, cứ mỗi lần đi lễ là nó lại tự viện ra hàng tá lí do khác nhau để trốn tránh, nhiều lúc nó nói với vẻ bình thản “ đi lễ lúc nào mà chẳng được, cốt là sống cho tốt là được”, những lí do tưởng chừng đơn giản nhưng lại rất nguy hiểm cho những cô, cậu sinh viên đại học. Hơn hai tháng nay thấy Đăng nó không về thăm nhà dòng, cũng chẳng gọi một cú điện thoại nào khiến cha Quản giáo sợ nó gặp chuyện, ngày hôm sau cha gọi điện hỏi thăm nó nhưng nó bảo với cha là nó bận việc học nên không thể về được. Theo dòng thời gian, dường như nó quên đi cái hình ảnh tuyệt vời ngày nào mà nó có được: kinh nguyện sáng tối, chầu Thánh Thể, các thánh lễ và những buổi tĩnh tâm. Nó luôn nghĩ chỉ cần có tiền là có tất cả, tiền có thể mua được mọi sự. Bước sang năm thứ hai, nó dần sa lãng vào việc học, nó thiết nghĩ rằng cuộc sống có thể thay đổi khi không cần con đường học vấn. Tiền… tiền và chỉ là tiền, nó nghĩ chỉ cần tiền là đủ. Và rồi dần dần cứ mỗi lần có tiền là nó lại va phải những chuyện xấu, những bạn bè hư hỏng. Bước sang năm thứ ba rồi sang năm cuối nó đã thành một con người khác hẳn, một con người chạy theo những thứ mau hư nát. Cuộc sống sinh viên nào ai có thể ngờ được, đủ thứ hư hỏng, đủ thứ ranh ma. Rồi một ngày, một ngày có thể nói là ý Chúa. Hôm ấy bầu trời dìu dịu hòa lẫn chút oi bức, ngày hạ tàn, những tán lá bắt đầu úa vàng trong nắng. Mùi của thu mới bắt đầu xuất hiện qua khung cảnh thiên nhiên nhiên và qua những biến chuyển của mọi vật xung quanh. Đồng hồ đã điểm 11 giờ đêm, thằng Đăng và đám bạn của nó vừa mới ăn nhậu xong, trên người mỗi đứa sặc toàn mùi rượu, lúc ra về bọn nó cầm xe mà phóng như bay giữa lòng thành phố đông người. Vừa qua bến xe Miền Đông, bỗng một chiếc xe đi ngược chiều, do không làm chủ được tay lái nên hai chiếc xe đã lao vào nhau. Một lát sau xe cấp cứu kêu inh ỏi. Lúc đó tại hiện trường thầy Trì đi công tác về ngang qua ( một người thầy đã dạy giáo lý cho thằng Đăng suốt mấy năm trời ) đã nhận ra khuôn mặt của thằng Đăng nằm giữa vũng máu, máu chảy lênh láng khắp hiện trường. Không chần chừ thầy Trì đã cùng xe cấp cứu vào bệnh viện, sau những tiếng đồng hồ chờ đợi, một lát sau bác sĩ đi ra với khuôn mặt bình thản : “ Thế là đã qua cơn nguy kịch, giờ đang chuyền máu để lấy lại sức vì máu mất quá nhiều”. Nói xong bác sĩ lẳng lặng đi vào phòng. Ngồi trong phòng trông coi thằng Đăng thầy Trì lại nhớ lại quá khứ, nhớ lại những kí ức đẹp, những buồn vui thầy và trò cùng nhau đối mặt. Nhìn khuôn mặt thằng Đằng lại toát lên trong thầy một vẻ đáng thương nhưng cũng lại đáng trách. Thương vì nó thiếu tình cảm gia đình; thiếu sự nâng niu của mẹ; che chở của cha; thân một mình bơ vơ giữa đường đời. Nhưng cũng thật đáng trách, chỉ vì những thứ hư nát mà nó quên cả Chúa, bỏ cả linh hồn.

 Sau khi nhận được tin thằng Đăng bị tai nạn, cô của nó và cha Quản giáo hớt hải chạy đến bệnh viện giữa những dòng lo lắng. Sau khi xem xét tình hình thì cha Quản giáo giao cho thầy Trì ở lại trông coi thằng Đăng cho đến khi nào khỏi và hướng dẫn nó trở về với Chúa.

 Ba tuần sau tình trạng Hải Đăng dường như đã khỏe trở lại. Những câu kinh nguyện lại đến với anh như thuở trước, anh hạnh phúc vì lại được cảm nhận Chúa mỗi ngày qua từng trang cuộc sống. Ít hôm sau Hải Đăng đến trường nhận bằng tốt nghiệp đại học, thế là quãng sinh viên sóng gió đã qua, một trang sách mới lại được lật ra và một dòng đời mới dần dần được viết lại bằng chính đời sống của anh.

                                                          *

- Đăng à, thôi ta vào thôi ! Cha Quản giáo đang đợi.

 Hai thầy trò bước vào trong ánh nắng nhạt nhòa giữa trời thu tươi mới, mùi trời thu nhẹ dịu đến mát lòng. Sau khi gặp cha Quản giáo rồi anh chính thức được vào tập sinh của dòng.

 Hôm nay dưới ánh đèn heo hắt, anh viết những trang viết đời mình để tạ ơn Vua Tình Yêu đã không bỏ rơi anh những lúc anh sa vào cạm bẫy, anh lầm đường lạc lối nhưng lại hướng dẫn anh trở về với suối nguồn tình yêu đích thực. Đó là Giêsu Kitô – Tình Yêu của anh…

 Rồi đây sẽ có những điều nơi anh được bắt đầu lại. Và Hải Đăng sẽ mãi thực sự là ngọn đèn lung linh giữa chính cuộc đời tăm tối của anh… 

 

Mã số: 14-014

 

BÀI HỌC ĐỨC TIN

Hôm nay trên đường đi học về tự nhiên nó cảm thấy một điều gì đó khác hẳn. Không khí có vẻ hơi kì lạ. Hình như có chuyện gì đã xảy ra thì phải! Nó thầm nghĩ. Nhìn xung quanh ai ai cũng xầm xì nhỏ to, rỉ tai kể cho nhau nghe một chuyện gì đó mà ở độ tuổi mười bảy của nó không được phép biết. Tò mò nó đi thật chậm sau lưng hai bà thím ở trong xóm thì có nghe loáng thoáng tên ông Bảy. Nó chép miệng:quái nhỉ? chuyện gì nhà ông Bảy mà khiến cái xóm đạo nhỏ bé , tĩnh lặng của mình xôn xao thế? không được rồi! mình phải về thật nhanh xem sao! ” vừa dứt lời nó phóng một mạch như tên lửa.

Vừa tới hiên nhà ông Bảy nó đã í ới gọi:

- Ngoại ơi! chị Na ơi! con đói rồi! dọn cơm cho con ăn đi! !

Thực ra thì ông Bảy không phải ngoại của nó mà chỉ là một người ông ở cạnh nhà nó thôi. Nó chỉ nhớ là từ lúc còn bé xíu, nó đã qua nhà của ông Bảy chơi rồi. Đến giờ vẫn vậy, ngày nào nó cũng qua nhà ông nên ông coi nó như con như cháu trong nhà. Và hiển nhiên ông Bảy trở thành ngoại của nó. Có lẽ tần suất nó ở nhà không nhiều bằng nó ở đây cho nên cũng không lấy làm lạ gì khi nó đòi ăn cơm nhà ông Bảy.

- Sao không ai lên tiếng hết nhỉ? mấy hôm trước ngày nào ngoại và chị Na cũng chờ mình trước hiên mà? ”. Nó cởi cái cặp ra, vứt xuống đất rồi đi thẳng vào nhà. Nó rà soát một cách chậm rãi từ nhà trên xuống nhà dưới mà cũng chẳng thấy ai. Một lần nữa nó lại gào ầm lên:

- Mọi người đâu cả rồi? con đói sắp chết rồi nè! ngoại ơi! chị Na ơi!

- Ông ở đây! ở nhà buồng này! Giọng thều thào yếu ớt của ông Bảy.

- Ngoại sao thế? ngoại ốm à? thế chị Na đâu sao không chăm sóc ngoại mà để ngoại ra nông nỗi này? ”nó hỏi dồn dập.

- Cái Na nó đi rồi con ạ!

- Ủa? thế chị Na đi đâu vậy ông? Nó đưa cặp mắt ngây thơ hỏi.

- Nó bỏ đạo, bỏ ông đi theo thằng con trai khác rồi con ơi! Cả xóm đang đồn ầm lên đó! Bây giờ ông không muốn sống nữa rồi! ”

Ông Bảy đau khổ kể, nước mắt lưng tròng cứ chực trào ra. Nó vẫn chưa hiểu lắm nhưng cứ đứng đó một hồi lâu. Lần đầu tiên nó thấy cảnh tượng lạ như vậy. Một người đàn ông lớn tuổi, mạnh mẽ, lạc quan như ông Bảy lại khóc. Tự nhiên nó cũng buồn theo.

- Con về nhà ăn cơm nhé! hôm nay ông không thể ăn với con được rồi! ” Nói xong ông Bảy quay lại buồng chưa kịp cho nó trả lời. Thế là nó đành lủi thủi về nhà.

Vừa tới nhà nó đã nằng nặc đòi mẹ kể. Đương nhiên mẹ nó không thể nào từ chối yêu cầu từ đứa con gái cưng của bà được. Mẹ nó đã kể hết đầu đuôi câu chuyện như thế nào và bây giờ có lẽ nó cũng đã hiểu. Nó mơ hồ nhớ lại đêm hôm trước khi chị Na đi, chị và ông Bảy đã cãi nhau thật to khi nó đang dần chìm trong giấc ngủ.

- Mày không được đi! mày mà đi thì không còn cha con gì ở đây!

- Con đã quyết định rồi. con sẽ đi với anh ấy! mong cha tha tội cho con…

Nó gật gù lia lịa. ”à! thì ra chuyện là vậy! mình hiểu rồi! ”

Hôm sau, nó được mẹ chỉ thị qua chăm sóc ông Bảy.

****

Tối ấy, trên chiếc giường tre cũ kĩ, nó thỏ thẻ hỏi ông Bảy:

- Ngoại à! chị Na đi theo tiếng gọi con tim mà sao ngoại lại phản ứng gắt gao như vậy? Con thấy chuyện này hoàn toàn tự nhiên mà! Có gì đâu mà mọi người cứ cuống cuồng lên thế?

- Con à! Con còn nhỏ nên không hiểu chuyện đâu! Mọi việc không đơn giản như con nghĩ

- Nhưng Chúa đâu có cấm ta yêu ai?

- Không cấm không có nghĩa là ta được phép làm mọi điều ta thích mà không quan tâm đến ý Ngài! con hiểu chứ?

- Nhưng thậm chí Ngài còn khuyến khích ta nên yêu một ai đó mà? ” Nó bướng bỉnh, gân cổ cãi.

- Con ơi! tình yêu thì có nhiều nhưng Chúa thì chỉ có một! Không yêu được người này thì một lúc nào đó sẽ yêu người khác! Nhưng nếu con không có Chúa thì con chẳng có gì cả. Bởi vì Ngài là duy nhất con hiểu chưa? Con phải thấy cái nào quan trọng hơn để mà lựa chọn cho kĩ chứ! Thế giữa vô vàn người với một người duy nhất thì con chọn ai? Giữa cái có rất nhiều với cái chỉ tồn tại duy nhất thì cái nào trọng hơn?

- Đương nhiên là người duy nhất và cái duy nhất rồi!

- Thế thì đúng rồi! Người nào quan trọng hơn với ta thì ta phải ưu tiên chọn hàng đầu! Con sáng suốt hơn chị Na rồi đấy con ạ! Nó chưa hiểu được chân lí này như con nên lựa chọn ắt hẳn sẽ sai lầm-một sai lầm nghiêm trọng giống như tội lỗi mà nó đang gánh chịu.

- Vậy tội cho chị Na quá! Con hi vọng chị sẽ quay về

- Sẽ có một lúc nó trở về! Ngoại tin như vậy! Vì ngoại biết Chúa sẽ không bỏ rơi con chiên lạc lối của Ngài. Ngài sẽ tìm nó về bằng mọi cách kể cả bỏ lại 99 con chiên kia. con hiểu ý ngoại chứ?

- Dạ! con hiểu ngoại ơi! ” Nó dõng dạc thưa.

- Thế ngoại có trách cứ gì chị Na không? Mọi người nói là chị Na làm ngoại xấu hổ với xóm giềng mà!

Ông Bảy im lặng chốc lát rồi nhẹ nhàng nói:

- Ngoại không trách nó. Người ta nói ngoại xấu hổ với xóm giềng nhưng thực ra người ngoại cảm thấy xấu hổ và mặc cảm tội lỗi nhất đó chính là Chúa-đức Chúa cao cả của ta.

- Vì sao? ”nó nhảy dựng lên. Chị Na mới là người có lỗi mà? ”

- Ngoại cũng có lỗi vì đã dạy con không tốt. Chúa tin tưởng giao cho ngoại chăn dắt một con chiên mà ngoại đã làm lạc mất nó. Thay vì đưa nó về cận kề với Ngài.

Đêm đó, nó không sao ngủ được. Suốt đêm cứ trằn trọc mãi. nó thầm nghĩ ngoại nó thật là một người đàn ông mạnh mẽ cũng như có lòng tin kiên định vô cùng. Nó hy vọng chị Na yêu quý của nó sẽ về như ngoại nói và nó thầm hứa sẽ thay chị Na làm tốt vai trò một người con hiếu thảo đối với ngoại trong thời gian chị vắng nhà. Và rồi nó ngủ thiếp đi lúc nào chẳng hay.

            ******

Thời gian trôi qua nhanh thật. Mới đó mà nó đã trải qua kì thi quan trọng nhất của đời học sinh rồi. Bây giờ nó chỉ đang chờ kết quả thi đại học mà thôi. Thời gian này nó rảnh rỗi lắm. Suốt ngày ở nhà ông Bảy để tiện chăm sóc cho ông. Nói về phần ông Bảy, đã hơn một năm trôi qua kể từ ngày đứa con gái yêu của ông ra đi, thời gian cộng với sự dằn vặt, đau khổ về con đã làm cho ông yếu thêm. Bây giờ ông không thể tự tay mình làm một số việc như trước nữa nhưng ông vẫn còn minh mẫn lắm.

Hôm nay, cũng như mọi ngày, nó lom khom nhóm bếp để nấu thức ăn cho ngoại và nó. Đột nhiên nó thấy một bóng người phụ nữ mà nó nghĩ là quen thuộc đứng thập thò ngoài hiên nhà. Nó sững người vì quá ngạc nhiên. Nó hét ầm lên:chị Na! ”. Lập tức nó phóng ra ngoài thật nhanh. thấy thế người phụ nữ toan chạy nhưng làm sao chạy nhanh bằng một đứa con gái mới lớn.

- Chị Na, chị đây rồi! sao bây giờ chị mới về? em nhớ chị lắm có biết không? ” nó hỏi dồn dập. Nhưng khi ánh mắt nó lướt qua một đứa bé trai kháu khỉnh đang bị chị Na ẵm nách thì nó giật mình. Nó thôi hỏi han và im lặng suy tư trong chốc lát.

Mặt người phụ nữ lúc này tái xanh hẳn đi.

Rồi đột nhiên nó nắm lấy cánh tay người phụ nữ và ân cần hỏi:

- Chị Na à! con trai chị phải không? Thôi chị vào nhà đi! ngoại trông chị dữ lắm!

- Nhưng….

- Thôi không nhưng nhị gì hết! chị theo em! đưa đồ đây em xách cho!

Dường như mặc cảm tội lỗi trong chị vẫn còn nặng lắm, chưa thể trút bỏ được. Không phải chị không muốn vào nhưng chị không thể vào, có điều gì đó luôn cản bước chân chị làm cho bước chân càng nặng nề thêm. Thiết nghĩ có lẽ đó là sự đấu tranh nội tâm, sự dằn vặt của lương tâm và sự thống hối trong tận đáy lòng đã làm chị khó xử thêm. Người phụ nữ đứng đó hồi lâu, cứ chần chừ mãi không chịu đi. Chắc có lẽ hiểu rõ điều đó, nó quay lại nắm lấy tay chị và kéo đi. Điều này đã làm cho chị có dũng khí hơn để bước tiếp. Bỗng nhiên chị thấy lòng nhẹ nhàng hẳn và đã đỡ dằn vặt hơn.

Hành động này của nó làm người ta liên tưởng đến bí tích giải tội mà Chúa Giê-su lập ra. Nó đã mạnh mẽ nắm lấy tay chị mà kéo về ngôi nhà thân yêu, đã làm cho chị dũng cảm đối đầu với thực tại điều này cũng giống như bí tích giao hòa kéo con người lại gần với Chúa hơn và ở tại đây con người trở nên thành thực với bản thân, biết chân thành nhận ra lỗi lầm của mình đã phạm và thành tâm xin Chúa tha thứ.

Trở lại với chị Na, từ khi được nó kéo về nhà, chỉ trong giây lát là đã đến gian buồng quen thuộc-nơi người cha đáng kính của chị đang nằm. Nó hiểu mình nên làm gì nên lặng lẽ để túi đồ xuống rồi bế thằng cu đi ra sân chơi.

- Cha à! ” chị Na nói trong nước mắt.

- Út đó hở con! ngoại chưa đói đâu. Con ăn cơm trước đi!

Hình như tuổi tác đã làm tai ông kém đi và mắt cũng mờ hơn nhiều, ông vẫn chưa biết thực hay chuyện con gái mình đã về.

- Không cha ơi! con đây! cái Na đây! con gái hư hỏng của cha đây! con đã về rồi ! ”nói tới đây chị Na không kìm được nước mắt, khóc òa lên và chạy tới ôm chầm lấy ông Bảy.

- Na sao con? ừ! con biết quay về là cha mừng rồi. Bấy lâu nay cha ráng sống để chờ ngày này mà. Thế là cha đã hoàn thành ước nguyện của cha rồi đấy con yêu ạ!

Những giọt lệ từ khóe mắt nhăn nheo chảy ra. Vậy là lần thứ hai ông Bảy khóc vì chị Na.

-  Xin cha tha tội cho con! con đã….

-  Đừng nói nữa con yêu dấu của cha. Nếu mà cha sống chỉ để trách tội con thì cha đã không sống nổi tới bây giờ đâu. Thật ra cha chưa bao giờ trách con cả nói đúng hơn là cha không có quyền đó. Người con cần xin lỗi đó chính là Đấng Tối Cao của con-người chịu đau khổ nhất khi con nhẫn tâm bỏ Người. Con phải nhận ra rằng người con cảm thấy có tội nhất đó không phải là cha mà chính là Ngài. Con hiểu cha nói chứ?

- Dạ thưa cha! Con hiểu! Con thật có tội với Chúa và với cha! xin Chúa, xin cha tha tội cho con.” Vừa nói, chị Na vừa ngước mắt lên bàn thờ nơi có bức ảnh lòng thương xót ngự trị.

- Con thật giống người con thứ hoang đàng trong Kinh Thánh. Cha là người phàm mà không trách tội con thì chắc chắn Đấng giàu lòng xót thương như Ngài sẽ bỏ qua thôi. Con hãy lo dọn mình xưng tội và trở thành con chiên ngoan đạo để tạ lỗi cùng Chúa cũng như cảm ơn Ngài con nhé!

- Vâng thưa cha!

Đêm hôm đó, một đêm vô cùng ý nghĩa. Lần đầu tiên căn nhà nhỏ bé của ông Bảy lại ngập tràn tiếng cười như vậy. Nó cảm nhận được cái ấm áp của tình phụ tử, của lòng vị tha và cả sự hồn nhiên, đáng yêu của thằng cu nhỏ. Nó tặc lưỡi cười rồi nói:

- Vậy là ngoại đã có thêm một thằng cháu nữa rồi nha! Đừng có bỏ rơi con đó!

Mọi người ai cũng phá lên cười thế là cả nhà được dịp cười một trận ra trò.

**************

Vậy là đã mấy tháng trôi qua kể từ ngày chị Na ra trước toàn thể giáo dân để thú tội, nay chị đã là chị trưởng của hội Legio và là một ca viên của ca đoàn giáo xứ. Chị không những làm việc từ thiện mà còn tích cực đi rao giảng Tin Mừng cho bà con hàng xóm ngoại giáo. Mọi người đã không còn nhớ cái Na từng bỏ đạo để theo người yêu như xưa nữa. Mà nay họ chỉ luôn miệng nói những điều tốt đẹp từ chị mà thôi. Mọi việc đều xảy ra tốt đẹp với chị Na cũng như đối với nó. Có lẽ bởi vì chính Chúa đã bảo vệ và phù hộ cho những con chiên bé nhỏ của Ngài. Không lâu sau khi chị Na xưng tội, nó đã nhận được giấy báo đậu đại học. Ngày nó khăn gói lên đường cũng là ngày gia đình nó, chị Na và ông Bảy khóc như mưa. May sao gần nơi nó học là một nhà thờ nên ngày nào nó cũng đi lễ và tập hát trong ca đoàn do những sinh viên xa nhà như nó phụ trách. Điều này làm cho gia đình nó ở quê yên tâm hơn. Ngày nào nó cũng gọi về hỏi thăm ba mẹ, ông Bảy lẫn chị Na. Và tất nhiên mọi việc ở xóm đạo nhỏ bé nó cũng đều biết tất tần tật thông qua mẹ   chị Na của nó.

Và rồi điều gì đến cũng phải đến, lá rụng về cội, người nào sống trên đời thì cũng có lúc phải ra đi. Từ Sài Gòn, nó nhận được hung tin ông Bảy mất. Nó tức tốc mua vé xe đi về để còn kịp nhìn mặt ngoại lần cuối. Về đến nơi, không khí tang thương bao trùm cả căn nhà bé nhỏ. Mọi người ai cũng xót xa, tiếc thương cho sự ra đi của ông Bảy. Nó vẫn không tin vào mắt mình và òa khóc nức nở khi nhìn thấy ngoại của nó nằm im trong quan tài. Nó đau lắm nhưng nhìn thấy chị Na thất thểu vừa khóc vừa dỗ thằng cu thì lòng nó lại đau thêm. Nó nghe mẹ nó kể lại trước khi nhắm mắt ông Bảy đã thưa cùng Chúa rằng:con là một người cha dạy dỗ con mình không đến nơi đến chốn xin Ngài tha tội cho con. Con cùng con gái con đã phạm đến Chúa rất nhiều xin Ngài tha tội cho chúng con”

*********

Chiều hôm ấy, một buổi chiều trời mưa lâm thâm, phảng phất hương thơm của hoa cỏ đồng nội. Nó cùng chị Na đi lên thăm mộ ông Bảy. Hai người thắp nhang, đọc kinh cầu nguyện cho linh hồn ông Bảy sớm được chầu dung nhan Chúa. Nó thầm cảm ơn ngoại vì đã dạy cho nó hai bài học lớn. Một là Thiên Chúa duy nhất và hai là lòng bao dung cao cả của Ngài. Hai bài học lớn này đã giúp đức tin của nó kiên vững hơn trong cuộc sống trần gian này. Trên đường về, nó suy nghĩ vẩn vơ rồi tự nhiên buộc miệng hát:

- Cao vời khôn ví! a. . á. . a. . à. . a! Tình yêu của Chúa cao vời khôn ví! Tình yêu cao vời! Con lấy gì Chúa ôi! đền đáp cho cân mà đền đáp cho cân…. . ”


BẢN THỂ LỆ GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG

Cập nhật cho cuộc thi lần thứ hai - 2014

 

GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG được Ban mục vụ Văn Hóa và Truyền Thông Giáo phận Qui Nhơn thực hiện trong khuôn khổ dọn mừng kỷ niệm 400 năm Tin Mừng của Chúa đến với giáo phận Qui Nhơn (1618-2018), nhằm đào tạo cho Hội Thánh Việt Nam nhiều cây bút văn xuôi. Thể lệ, chủ đề và cơ cấu tưởng thưởng của cuộc thi được ấn định như sau.

I. THỂ LỆ

1. Cuộc thi kéo dài sáu năm, năm năm đầu (2013-2017) mỗi năm trao giải một lần, năm thứ sáu (2018) dành cho những người đã đạt giải trong các năm trước và trao giải tổng kết.

2. Cuộc thi dành cho các bạn trẻ Công giáo, trong cũng như ngoài giáo phận Qui Nhơn, dưới 40 tuổi (năm dự thi – năm sinh theo sổ rửa tội ≤ 40). Người đã đạt giải một lần, các năm sau có thể dự thi tiếp, dù đã hơn 40 tuổi. Các bạn trẻ dự tòng cần có chứng từ đang theo học giáo lý dự tòng.

3. Thể loại: Truyện ngắn, mỗi truyện không quá 3000 từ. Không nhận truyện phóng tác. Phải là sáng tác mới, chưa đăng báo, website hay blogs và chưa gởi dự thi ở bất cứ đâu.

4. Truyện lấy ý từ một tác phẩm khác, xin ghi rõ xuất xứ tác phẩm gốc. Nếu bị phát hiện sao chép của người khác hoặc dựng lại theo ý tác phẩm khác mà không ghi xuất xứ, sẽ bị loại và cấm thi các năm tiếp theo.

5. Đề tài: Truyện cần mang nội dung Kitô giáo, có tác dụng xây dựng đức tin cho Dân Chúa và loan báo Tin mừng cho người chưa biết Chúa.

Mỗi năm, mỗi tác giả có thể tham gia tối đa 05 bài dự thi, có thể gửi chung một lần hoặc nhiều lần.

6. Chỉ nhận bài dự thi qua điện thư email, gửi attach file với định dạng . doc (word), không nhận bài gởi qua đường bưu điện.

7. Đầu bài dự thi phải ghi rõ: họ và tên, bút danh, năm sinh, rửa tội tại đâu, năm nào, địa chỉ nhà, giáo xứ, giáo phận, số điện thoại liên lạc, địa chỉ email. Dù đã gởi nhiều email dự thi, đầu mỗi bài đều cần ghi như thế. Những bài thiếu các chi tiết này sẽ không được nhập hồ sơ dự thi.

8. Mỗi bài dự thi sẽ được nhập hồ sơ theo lần gởi đầu tiên, mọi chỉnh sửa về sau đều không được chấp nhận.

9. Địa chỉ nhận bài, xin gởi cùng lúc về 2 điện chỉ email: tinmunggiesu@gmail. comgopnhattho@yahoo. com.

10. Thời gian nhận bài: trước ngày 01-3 mỗi năm. Những bài gửi về muộn hơn sẽ được đưa vào hồ sơ dự thi năm sau.

11. Tưởng thưởng: Mỗi năm sẽ có 06 giải thưởng chính thức và 15 giải triển vọng, theo cơ cấu và sinh hoạt như sẽ nói dưới đây.

12. Kết quả cuộc thi hằng năm sẽ được công bố ngày 15-8 mỗi năm

13. Lễ trao giải vào ngày 22-9 mỗi năm.

14. Những tác giả được vào chung khảo mà không đạt giải sẽ được hỗ trợ một phần tiền xe về dự ngày họp mặt trao giải.

15. Các thông tin về cuộc thi sẽ được đăng trên trang mạng giáo phận Qui Nhơn http://www. gpquinhon. org và những trang mạng ủng hộ chương trình này.

16. Các tác phẩm đạt giải sẽ được in thành tuyển tập do Ban Tổ Chức giữ bản quyền.

II. TƯỞNG THƯỞNG

Cơ cấu giải thưởng

Mỗi năm, có 6 giải thưởng chính thức và 15 giải triển vọng. :

- một giải nhất:                                                   20. 000. 000 $VN

- hai giải nhì, mỗi giải                                        12. 000. 000 $VN

- ba giải ba, mỗi giải                                            8. 000. 000 $VN

- 15 giải triển vọng, mỗi giải                              3. 000. 000 $VN

 

Tuyển tập truyện ngắn riêng

Ngoài phần thưởng bằng tiền mặt, những tác giả đạt giải, nếu có nhiều truyện khác có giá trị, sẽ được Tủ Sách Nước Mặn hỗ trợ xuất bản một tuyển tập riêng dưới 200 trang với những truyện ngắn mang nội dung Kitô giáo.

Những tác giả không đến dự lễ trao giải sẽ chỉ được nhận 50% tiền giải thưởng và không được hỗ trợ in tuyển tập riêng.

III. TƯỞNG THƯỞNG DÀNH CHO ĐỘC GIẢ

1. Bình chọn

Các truyện dự thi đã qua vòng sơ tuyển sẽ lần lượt được đưa lên mạng internet. Mời độc giả tham gia bình chọn qua hai câu hỏi: 1. Theo bạn, truyện nào xứng đáng đạt giải nhất? 2. Có bao nhiêu người cùng ý kiến như bạn? Ba độc giả đáp đúng nhất sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.

2. Giúp phát hiện trường hợp sao chép

Những độc giả giúp phát hiện đầu tiên những bài dự thi sao chép của người khác (xin ghi rõ xuất xứ bài gốc) sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.

 

Ban Tổ Chức chân thành biết ơn sự giúp đỡ của các ân nhân. Các hỗ trợ tiền bạc hoặc hiện vật cho cuộc thi xin gởi về: Linh mục Võ Tá Khánh, 116 Trần Hưng Đạo, TP Qui Nhơn – Email: gopnhattho@yahoo. com – Điện thoại: 0935-424-449.

 

Qui Nhơn, ngày 21-9-2013

(Điều chỉnh ngày 04-10-2013)

TRƯỞNG BAN TỔ CHỨC

Lm Gioan Phêrô Võ Tá Khánh (Trăng Thập Tự)

Trưởng Ban MV Văn hóa Giáo phận Qui Nhơn

 


Các bài viết mới hơn
     Chiếc Khẩu Trang Mùa Chay - Giuse Lưu Hành
     Người Phụ Nữ Cần Nhiều Hơn Thế - Pr. Lê Hoàng Nam, SJ
     Trong Giếng Không Có Bã Rượi - Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb
     Qùa tặng của sự đón nhận - Robin Seelan, S.J.
     MỘT THOÁNG SUY TƯ_Lm. Giuse Phạm văn Nhân.
     GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2014 - BẢN TIN 13. Lm. Trăng Thập Tự
     GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2014. Lm. Trăng Thập Tự
     GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2014. Lm. Trăng Thập Tự
     GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2014- BẢN TIN 10. Lm. Trăng Thập Tự
     GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2014-BẢN TIN 09. Lm. Trăng Thập Tự

Các bài viết cũ hơn
     CHÚC XUÂN.Antôn Lương văn Liêm
     GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2014. Lm. TRĂNG THẬP TỰ
     CÂY MAI TRỤI LÁ. Lm Giuse Nguyễn Hữu An
     ĐƯỜNG ĐA-MÁT. An tôn Lương Văn Liêm
     CANH TÂN GIỜ KINH GIA ĐÌNH NĂM ĐỨC TIN. Lm Đan Vinh
     TRÁNH NÓI XẤU THA NHÂN. Lm. Đan Vinh
     NHỮNG VẤN ĐỀ KHOA HỌC VÀ ĐỨC TIN. Lm. Đan Vinh
     TẤM PHÔNG VÀ BỨC TRANH CÓ TÊN GỌI MARIA. Antôn Lương Văn Liêm
     MÃNH LỰC TÌNH YÊU! Lm. Hương Quất
     CHÚA VÀ SỰ THINH LẶNG. Sưu tầm