CÔNG BỐ LỜI CHÚA
TRONG CỬ HÀNH PHỤNG VỤ CÁC GIỜ
Lm.
Giuse Phạm Đình Ái, SSS
WHĐ (13.01.2022) -
Tuy bàn về “Công bố Lời Chúa trong cử hành Phụng Vụ Các Giờ”, nhưng bài này chỉ
giới hạn vào một tiểu tiết là xem xét hai thực hành vẫn còn tranh cãi đến nay:
(1) Một là đọc Lời Chúa luôn mà không đọc câu trích dẫn Lời Chúa từ Sách/Thư
nào; (2) Hai là trước khi công bố Lời Chúa thì đọc lời trích dẫn: “Lời Chúa
trong….” Vậy đâu là thực hành đúng theo truyền thống và ý định của Hội Thánh?
Nên đọc câu trích
dẫn?
Những người ủng hộ
thực hành phải đọc câu trích dẫn nguồn Sách Thánh trước khi công bố Lời Chúa
thường nại vào ba lý do sau:
-
Lý do thứ nhất, giống như trong Thánh lễ, Lời Chúa luôn luôn phải được công bố
với lời trích dẫn nguồn Sách Thánh trước đó;
-
Lý do thứ hai, những người tham dự nên biết Lời Chúa đang công bố được trích
dẫn từ đâu;
-
Lý do thứ ba, đại đa số các giáo xứ và dòng tu đang theo thực hành này.
Ba lý do nêu trên,
nếu không muốn nói là nhầm lẫn, thì cũng hoàn toàn không thuyết phục ở chỗ:
-
Lý do thứ nhất chỉ đúng đối với trường hợp công bố Lời [Chúa] trong Kinh Sách
mà thôi. Thật vậy, Kinh Sách có 2 Bài đọc [dài] giống như các Bài đọc trong
Thánh lễ, chúng được đưa vào Phụng Vụ Các Giờ hiện nay theo
đúng truyền thống và ý định của Hội Thánh đối với Kinh Sách là “ít Thánh vịnh
hơn, nhưng Bài đọc lại dài hơn”.[1] Còn
đối với các Giờ Kinh khác như: Kinh Sáng, Kinh Trưa, Kinh Chiều và Kinh Tối,
thì sau các ca vịnh chúng ta có một Bài đọc ngắn chứ không phải Bài đọc dài.[2] Giống
như trong Thánh lễ, khi đọc Bài đọc thứ nhất của giờ Kinh Sách vốn được trích
từ Kinh Thánh, chúng ta phải đọc một câu dẫn trước đó để cho biết nguồn/tựa của
bản văn Sách Thánh. Dĩ nhiên, Hội Thánh tuân thủ truyền thống này và làm cho
mọi tín hữu dễ dàng đọc câu trích dẫn nguồn Sách Thánh ấy bằng cách in ra cách
rõ ràng như trong Sách Bài đọc [trong Thánh lễ] vậy, không để
cho người công bố muốn đọc thế nào cũng được. Ví dụ: Mỗi Sách/Thư trong
Kinh Sách đều có một câu trích dẫn phù hợp chứ không phải đánh đồng hết là “Lời
Chúa trong….”. Chẳng hạn, chúng ta thấy các câu sau: Trích sách các Vua
quyển 1; Dẫn vào sách ngôn sứ Amốt; Trích thư thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ
gửi ông Timôthê… Ngay cả Bài đọc 2 của Kinh Sách, dầu không có nguồn
từ Kinh Thánh, nhưng vì là Bài đọc dài, nên chúng ta vẫn phải đọc câu trích dẫn
như đã được in ra. Ví dụ: Trích bài giảng của thánh Ghêgôriô, giám mục
Nadien; Trích thư của thánh Phanxicô Xaviê linh mục gửi thánh Inhaxiô; Trích
bài chú giải ngôn sứ Isaia của Đức Cha Êuxêbiô, giám mục Xêdarê; Trích bài giảng
của thánh Anxenmô, giám mục… Tuy nhiên, đối với các Bài đọc ngắn,
không bao giờ cần đọc câu trích nguồn/tựa đề Sách Thánh trước khi công bố Lời
Chúa như chúng ta sẽ bàn tiếp dưới đây.
-
Lý do thứ hai là mong ước hay đòi buộc người tham dự biết Lời Chúa được trích
dẫn từ đâu chỉ đúng trong trường hợp của Thánh lễ hoặc của giờ Kinh Sách (như
vừa trình bày ở trên) vì đó là những Bài đọc dài. Còn đối với Kinh Sáng, Kinh
Trưa, Kinh Chiều và Kinh Tối, công bố Lời Chúa được thực hiện như thế nào? (1)
Một mặt, người nghe cũng là người đang đọc kinh, họ thực sự đang cầm cuốn Các
Giờ Kinh Phụng Vụ trong tay, cho nên nếu muốn, họ chỉ cần
lướt nhìn là biết đoạn Kinh Thánh đó từ đâu mà không cần người công bố Lời Chúa
phải đọc lên. (2) Mặt khác, theo ý định của Hội Thánh, Bài đọc ngắn [với chỉ
1-2 câu hoặc quá lắm là 3 câu] nhắm đến thái độ lắng nghe chăm chú hơn là
truyền đạt thông tin, vì thế, theo một truyền thống từ rất lâu trong Hội Thánh,
nó được công bố “theo dạng thuộc lòng” (người đọc vẫn nhìn vào bản văn), nghĩa
là nhắm đến mục đích: để cho Lời Chúa thấm vào lòng người nghe đến độ thuộc
lòng, để cho Lời ấy được nhắc đi nhắc lại trong tâm trí người nghe như tiếng
chuông âm vang cả ngày mà không cần quan tâm chúng được trích dẫn từ đâu.[3]
- Về lý do thứ ba,
trong lãnh vực phụng vụ ở Việt Nam, với nhiều nguyên nhân đến từ hoàn cảnh đất
nước khiến chúng ta như bị “tách rời với thế giới” nhiều năm (từ sau 1975).
Thực tế này dẫn đến tình trạng một số các văn kiện/tài liệu phụng vụ liền trước
và sau Công đồng Vatican II chưa được chuyển dịch sang tiếng Việt, đến độ,
nhiều thực hành Hội Thánh giữ lại, chúng ta đã không biết mà bỏ đi, còn nhiều thực
hành khác Hội Thánh đã bỏ đi, đã thay đổi, chúng ta lại không cập nhật mà giữ
lại y như cũ. Kết quả là một số thực hành đã trở nên phổ biến nhưng lại là
những thực hành không đúng/không cần thiết/chưa cập nhật, chẳng hạn như: cô dâu
chú rể đọc Sách Thánh;[4] cộng
đoàn cùng đọc Tin Mừng với phó tế/linh mục trong Thánh lễ;[5] nêu
“một lô” ý lễ trong Kinh Nguyện Thánh Thể;[6] đem
hoa và nến trong cuộc rước tiến lễ;[7] rung
chuông đang khi chủ tế rước lễ;[8] v.v…
Vậy không phải cứ có đa số nơi thực hành thì đảm bảo đó là một thực hành chuẩn
mực mà là phải dựa trên công ý, tập tục, truyền thống, ý định và hướng dẫn của
Hội Thánh.[9]
Không cần thiết đọc
câu trích dẫn?
Lý do quan trọng hơn
rất nhiều, và là lý do chính khiến chúng ta không cần phải đọc câu trích dẫn
khi công bố Lời Chúa trong cử hành Phụng Vụ Các Giờ, theo như cha Edward
Mcnamara, là vì thực hành như thế mới đúng là tập tục của Hội Thánh.
Quả thực, vị giáo sư
phụng vụ và thần học bí tích này (Đại học Regina Apostolorum) đã nhận được 2
câu hỏi về cùng một vấn đề như sau:
- Câu hỏi 1: Trong
Phụng Vụ Các Giờ, khi đọc Bài đọc vắn, có nơi bắt đầu với câu “Bài đọc Thánh
Kinh” và khi kết thì đọc “Đó là Lời Chúa” […] Ở nhiều nơi khác, người đọc tiến
đến giảng đài, đọc Lời Chúa, rồi trở về chỗ của mình mà không đọc gì thêm. Vậy
cách nào mới đúng với hướng dẫn? Vì không có gì được đề cập một cách rõ ràng
khiến đôi lúc tạo ra bối rối.[10]
- Câu hỏi 2: Trong
giờ Kinh Sáng (Kinh Ca Ngợi), sau ba bài Thánh vịnh (Thánh vịnh và điệp ca) là
đến Bài đọc vắn. Liệu người ta có phải bắt đầu đọc với câu như trước các Bài
đọc Thánh lễ: “Bài trích sách [tên cuốn sách Kinh Thánh]”, hoặc người ta đọc
ngay bài mà không đọc: “Bài trích sách...” không? Thứ hai, khi kết thúc Bài
đọc, liệu người ta phải đọc “Đó là Lời Chúa” và sau đó đọc xướng đáp, hoặc
người ta đọc ngay xướng đáp mà không đọc “Đó là Lời Chúa” không?[11]
Trước 2 câu hỏi trên,
cha Edward Mcnamara đã có cùng một câu trả lời dứt khoát rằng theo tập tục của
Hội Thánh, các Bài đọc vắn trong Phụng Vụ Các Giờ được đọc hoặc hát, mà không
có dẫn nhập hay kết thúc nào cả. Người đọc chỉ đơn giản công bố chính bản văn
Lời Chúa/Bài đọc mà thôi. Do đó người đọc hoặc ca viên đi đến giảng đài (hoặc
thậm chí từ nơi người ấy đang đứng trong nhà nguyện), và chỉ đơn giản là hát
hay đọc Bài đọc vắn. Khi người ấy đọc xong, mọi người giữ một chút thinh lặng
hay nghe một bài giảng, và sau đó đọc xướng đáp. Câu xướng đáp ngắn này tạo
thành lời đáp cho Bài đọc ngắn nên người đọc cũng không nói gì thêm (Đó là
Lời Chúa) khi kết thúc Bài đọc.[12]
Việc đọc lời trích
dẫn trước Bài đọc vắn có lẽ mới chỉ xuất hiện gần đây khi người ta tự suy ra từ
thực hành công bố Lời Chúa trong Thánh lễ. Còn theo sau Quy luật của
Tôn sư, Quy luật của Thánh Biển Đức,[13] thực
hành đã trở thành tập tục - xét như là nguồn và sự diễn dịch tốt nhất của luật[14] -
là thế này: (1) Người ta đã phân biệt ra 2 loại Bài đọc trong Giờ Kinh: Bài đọc
dài và Bài đọc ngắn; (2) Kể cả Thần vụ Biển Đức lẫn Thần vụ Rôma đều dự trù cho
mỗi Giờ kinh (không phải Giờ Kinh Đêm) một Bài đọc [ngắn] được giảm xuống chỉ
còn vài câu, ngay sau các Thánh vịnh; (3) Bài đọc ngắn/Đoản huấn (lectio
brevis/capitulum) này được đọc “theo dạng thuộc lòng” với ý thức rằng đó là
Lời Chúa mà không cần quan tâm chúng được trích dẫn từ đâu. Từ thời xưa và chắc
chắn là bây giờ cũng vậy, Bài đọc ngắn được công bố “theo dạng thuộc lòng” và
nhắm mục đích là để cho những Lời ấy được nhắc đi nhắc lại trong tâm hồn người
nghe như tiếng chuông âm vang cả ngày.[15]
Tập tục này đã trở
thành chuẩn mực cho thực hành đọc Kinh Thần Vụ thời kỳ tiền Công đồng như được
minh định trong Quy chế Tổng quát Sách nguyện Rôma (1960) như
sau:[16]
- Đối với Bài đọc (lectio)
của các Giờ Kinh Đêm “Matituna”,[17] Quy
chế 1960 dạy rằng: “Các Bài đọc từ Kinh thánh được đọc với cả tiêu đề của Sách
Thánh mà chúng được trích ra, trừ khi có chú thích rõ ràng điều ngược lại.
Tương tự như vậy, các Bài đọc trích từ một bài giảng hoặc một khảo luận hoặc
một văn kiện của giáo hoàng cũng phải được đọc với tiêu đề và tên của tác giả;
tên tác giả được đặt trước các Bài đọc trích từ bài giảng về Phúc Âm trong
ngày.”[18]
- Đối với các Bài đọc
vắn/Đoản huấn (lectio brevis/capitulum), Quy chế 1960 [cũng như các sách
hướng dẫn cử hành Kinh Thần Vụ khác][19] chỉ
nói đơn giản rằng chúng được công bố trong tất cả giờ kinh khác ngoại trừ các
Giờ Kinh Đêm “Matituna” mà không đề cập gì đến việc phải đọc câu trích dẫn như
áp dụng cho các Bài đọc của Giờ Kinh Đêm “Matituna”.[20]
Cách trình bày
của Sách Nguyện Triđentinô (1962) là một minh họa cho thấy sự
thống nhất và bảo toàn tập tục được chuẩn hóa trong Quy chế Tổng quát
Sách nguyện Rôma (1960) liên quan đến việc công bố Lời Chúa trong Kinh
Thần Vụ. Chẳng hạn, đối với Bài đọc [dài] của các Giờ Kinh Đêm, sau Bài đọc 1
là câu trích cho chúng ta đọc trước khi đi vào công bố bản văn. Ví dụ: Trích
từ Sách Các Vua quyển thứ (De libro tértio Regum I); sau Bài đọc 4 cũng có
ghi câu trích. Ví dụ: Trích từ Sách “Thành đô Thiên Chúa” của thánh
Augustinô, Giám mục Hippo (Ex libro sancti Augustíni Epíscopi de Civitáte Dei)…
Còn đối với Bài đọc ngắn (lectio brevis), Sách Nguyện Triđentinô tuyệt
nhiên không ghi câu trích nào cả.[21] Nếu
đã không in ra câu trích mà có ai đó “cố tình” muốn đọc dẫn nhập trước Bài đọc
Lời Chúa, điều mà Hội Thánh không muốn, thì gần như đó là một nhiệm vụ bất khả
thi, bởi vì lúc bấy giờ, họ phải ghi nhớ và đọc lên bằng tiếng Latinh.
Sau Công đồng Vatican
II, mục đích của việc công bố Lời Chúa thật vắn gọn (= Bài đọc vắn) trong các
giờ Kinh Sáng, Kinh Trưa, Kinh Chiều và Kinh Tối vẫn là để cho những Lời ấy
được nhắc đi nhắc lại trong tâm hồn người nghe như tiếng chuông âm vang cả
ngày.[22] Chủ
trương này tiếp tục được nhắc lại trong Văn kiện Trình bày và Quy định
Các Giờ Kinh Phụng Vụ (1971) như sau:[23]
- Bài đọc vắn được chọn theo ngày trong tuần,
theo mùa hay theo ngày lễ. Phải đọc và nghe bài này như đích thực là một bản
công bố Lời Chúa. Bài đó nhấn mạnh đến vài ý tưởng của Kinh Thánh, và làm sáng
tỏ một vài lời vắn tắt, mà nhiều khi nghe đọc trong những bài dài liên tục
người ta không để ý mấy.[24]
- Các Bài đọc vắn cũng có tầm quan trọng trong
Các Giờ Kinh Phụng Vụ. Vì thế, đã chọn những bài này để trình bày một ý tưởng
hay nhắn nhủ đôi lời một cách vắn tắt rõ ràng.[25]
- Sau Bài đọc vắn cũng có những câu xướng đáp
vắn, nhưng đơn sơ hơn, tựa như một lời tung hô, khiến lời Chúa ăn sâu hơn vào
tâm trí người đọc hay người nghe.[26]
Củng cố cho một thực
hành đúng
Tập tục không đọc câu
dẫn nhập hay kết thúc nào cả đối với các Bài đọc vắn chính là mấu chốt của vấn
đề chúng ta đang bàn. Cách trình bày trong cuốn Các Giờ Kinh Phụng
Vụ đã cho thấy rõ ý định của Hội Thánh là muốn duy trì tập tục này:
1/ Tất cả
những chữ in đỏ như: Giáo đầu, Thánh thi, Ca
vịnh (Tv 121 (122) Thành thánh Giêrusalem/Tv 129 (130) - Tiếng kêu từ
vực thẳm/Tc Pl 2,6-11 - Đức Kitô, tôi trung của Thiên Chúa), Xướng đáp,
Thánh ca Tin Mừng “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Magnificat), Lời cầu,
Kinh Lạy Cha mọi người cùng đọc, Lời nguyện… và chắc chắn là cả Lời
Chúa ……… 2Pr 1,19-21 đều
chỉ là để nhìn, để biết như một thông tin hay là hướng dẫn cử hành phụng vụ cho
chính xác, dễ dàng và tràn đầy ân sủng. Chúng có màu đỏ để “thu hút sự chú ý và
phân biệt chúng với những bản văn như lời nguyện, dẫn giải và các Bài đọc” chứ
không phải để đọc lên.[27] Vì
thế, chúng ta không được đọc “Lời Chúa trong ….” ngoại trừ các chữ đen sau đó
như: Trích sách các Vua quyển 1; Dẫn vào sách ngôn sứ Amốt; Trích thư
thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gửi ông Timôthê…vốn chỉ có trong Kinh
Sách mà thôi.
2/ Đúng vậy,
chỉ trong giờ Kinh Sách, sách Các Giờ Kinh Phụng Vụ mới ghi
những lời trích nguồn cho cả Bài đọc 1 (như: Trích sách các Vua quyển
1; Dẫn vào sách ngôn sứ Amốt; Trích thư thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gửi
ông Timôthê…) và Bài đọc 2 (như: Trích bài giảng của thánh
Ghêgôriô, giám mục Nadien; Trích thư của thánh Phanxicô Xaviê linh mục gửi
thánh Inhaxiô; Trích bài chú giải ngôn sứ Isaia của Đức Cha Êuxêbiô, giám mục
Xêdarê; Trích bài giảng của thánh Anxenmô, giám mục…); Còn trong các giờ
kinh khác, chúng ta không thấy ghi gì cả ngoại trừ chữ đỏ với phía bên trái là
từ Lời Chúa, còn phía bên phải là chữ viết tắt nguồn của Bài đọc Sách
Thánh. Ví dụ: Lời
Chúa……Dc 8,7; Lời Chúa……1 Cr 7,32-34; Lời Chúa……Xh 23,20-21. Điều này hàm ý rằng trong thực hành, chúng ta nên
đơn sơ và đơn giản hóa mọi vấn đề bằng cách sách Các Giờ Kinh Phụng
Vụ ghi [chữ màu đen] gì thì chúng ta đọc nấy, không nên tự ý thêm bớt
hay thay đổi điều gì đúng như Hiến chế Phụng Vụ Thánh đã
dạy: “Tuyệt đối không ai khác, dầu là linh mục, được lấy quyền riêng tư thêm
bớt hay thay đổi một điều gì trong phụng vụ.”[28]
3/ Cách trình bày
trong cuốn Các Giờ Kinh Phụng Vụ với phía bên trái là từ Lời Chúa, còn phía bên phải là chữ viết tắt nguồn của Bài đọc
Kinh Thánh cũng giống như cách trình bày trong Sách Lễ Rôma cho
phần ca nhập lễ và ca hiệp lễ và Sách Bài đọc cho phần Tung hô
Tin Mừng.
- Nhìn vào bản văn
phụng vụ trong Sách Lễ Rôma, chúng ta thấy phía bên trái trang sách
là từ Ca nhập lễ/Ca
hiệp lễ, còn phía bên phải là chữ viết tắt nguồn của bản văn
Thánh Kinh. Ví dụ: Ca
nhập lễ………. Is 9,6; Ca hiệp lễ……… 1Ga 4, 9.
Trong trường hợp không thể hát ca nhập lễ/ca hiệp lễ, thì tất cả hoặc một vài
người giáo dân hoặc một độc viên, đọc ca nhập lễ/ca hiệp lễ ghi trong Sách Lễ.
Nếu không có ai đọc, thì chính vị tư tế đọc.[29] Khi
đọc lên, chắc chắn chúng ta chỉ đọc bản văn ca nhập lễ/ca hiệp lễ, chứ không
bao giờ xướng lên câu: “Ca nhập lễ trích trong sách tiên tri Isaia” rồi mới đọc
bản văn: “Một Hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, một Người Con đã được ban cho
chúng ta. Người nhận lãnh vương quyền trên vai, và Người sẽ được gọi là Cố Vấn
kỳ diệu” (Is 9,6); cũng không bao giờ xướng trước câu: “Ca hiệp lễ trích
trong thư thứ nhất của thánh Gioan tông đồ” rồi mới vào đọc bản văn: “Thiên
Chúa đã sai Con Một Người xuống thế gian, để nhờ Người chúng ta được sống.”(1Ga
4, 9)[30]
- Nhìn vào Sách
Bài đọc cũng vậy, phía bên trái trang sách là chữ “Tung hô Tin Mừng”, còn phía bên phải trang sách là ký hiệu tên nguồn
của câu Tung hô Tin Mừng (ví dụ: Lc 7,16). Khi hát/đọc Tung hô Tin Mừng,
chúng ta sẽ không xướng lên trước: “Tung hô Tin Mừng trích trong….” rồi mới
tiến hành hát/đọc Alleluja + bản văn Sách Thánh: “Alleluja. Alleluja. Vị
ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân
Người. Alleluja.” (Lc 7,16)[31]
4/ Cách trình bày
trong cuốn Các Giờ Kinh Phụng Vụ của Việt Nam với phía bên
trái trang sách là từ Lời
Chúa, còn phía bên phải là chữ viết tắt nguồn của Bài đọc
Kinh Thánh (ví dụ như: Dc
8,7; Cr 7,32-34; Xh 23,20-21…) khiến chúng ta cứ
thế theo thói quen mà đọc là “Lời Chúa trong….”. Thực ra, đối với các giờ Kinh
Sáng, Kinh Trưa, Kinh Chiều và Kinh Tối, bản gốc Latinh sẽ ghi ở phía bên trái
là từ Lectio brevis (= Bài đọc vắn) chứ không phải là từ Lời Chúa. Điều này hàm ý là không cần đọc trích dẫn gì cả vì
đó là Bài đọc vắn. Ngoài chính bản văn Lời Chúa [được in bằng chữ đen] ở đây,
cuốn Các Giờ Kinh Phụng Vụ cũng chẳng ghi thêm chữ nào như
trong phần Bài
đọc 1 / Bài đọc 2 của Kinh Sách
để chúng ta dựa vào đó mà đọc trích dẫn nguồn. Ý định rõ ràng của Hội Thánh ở
đây là nhằm tạo sự dễ dàng cho người công bố Lời Chúa. Nếu Hội Thánh muốn chúng
ta đọc gì thì sẽ ghi ra/in ra cho chúng ta đọc, vì thế ngay cả câu “Đó là Lời
Chúa” sau các Bài đọc trong Thánh lễ cũng phải được in ra. Đó là nguyên tắc hết
sức cơ bản cho buổi cử hành phụng vụ cộng đồng. Vô tình, chính chúng ta lại gây
khó khăn và đặt gánh nặng trên vai người khác bằng việc bắt người công bố Lời
Chúa phải thuộc lòng câu “Lời Chúa trong…”, tức phải thông thạo các ký hiệu
viết tắt tên các sách Kinh Thánh/Thánh Thư. Liệu thực hành này có phù hợp với
nhiều thành phần Dân Chúa không (chẳng hạn các cụ của Dòng Ba Đaminh hay các em
dự tu mới vào nhà dòng…) và có đánh đố họ không khi Phụng Vụ Các Giờ đã trở
thành kinh nguyện của toàn thể Giáo Hội.[32] Chính
mắt tôi đã thấy một số người, và theo chia sẻ của nhiều người, họ đã phải dùng
bút chì mà ghi cẩn thận vào cuốn Các Giờ Kinh Phụng
Vụ của họ câu đầy đủ “Lời Chúa trong….” để khỏi mất tự tin và đọc sai
trật khi được phân công lên công bố Lời Chúa. Nhẽ ra họ chẳng bao giờ bị áp lực
và phải lo lắng đến thế!
Kết luận
Với tất cả những gì
vừa trình bày, chúng ta nên loại bỏ bất cứ thực hành nào (1) do tự mình nghĩ
ra, (2) không thuộc về tập tục, truyền thống và ý định của Hội Thánh, (3) cũng
như gây áp lực cho người cử hành. Bởi vậy, chúng ta chọn thực hành như sau:
- Đối với các Bài đọc
vắn của Kinh Sáng, Kinh Trưa, Kinh Chiều và Kinh Tối, người đọc chỉ công bố bản
văn Lời Chúa mà không có dẫn nhập hay kết thúc nào cả.
-
Đối với các Bài đọc 1 và Bài đọc 2 của Kinh Sách, người đọc phải đọc lên câu
trích dẫn nguồn của bản văn được công bố theo đúng những gì đã được in ra ngay
trước bản văn.
(Cập nhật lúc 09h25,
ngày 14.01.2022)
Trích
nguồn: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/cong-bo-loi-chua-trong-cu-hanh-phung-vu-cac-gio-44384
[1] Công đồng
Vatican II, Hiến chế Phụng Vụ Thánh [Sacrosanctum
Concilium], số 89c; Bộ Phụng Tự, Văn kiện Trình bày và Quy định Các Giờ
Kinh Phụng Vụ (1971), các số 57, 63-68.
[2] Văn kiện
Trình bày và Quy định Các Giờ Kinh Phụng Vụ, các số 44-45, 79-80, 94,
172.
[3] X. Pius
Parsch, The Breviary Explained, trans. William Nayden & Carl
Hoegerl (New York: B. Herder Book. Co., 1952), 100-103; Văn kiện Trình
bày và Quy định Các Giờ Kinh Phụng Vụ (1971), các số 45, 156, 172.
[4] X. Phạm Đình
Ái, SSS, Nhìn Lại Các Vấn Đề Phụng Vụ Tại Việt Nam, tập 1 (Hà Nội:
Nxb. Tôn Giáo, 2016), 110-116.
[5] X. Ibid.,
117-123.
[6] X. Ibid.,
175-184.
[7] X. Phạm Đình
Ái, SSS, Nhìn Lại Các Vấn Đề Phụng Vụ Tại Việt Nam, tập 2
(Đồng Nai: Nxb. Đồng Nai, 2020), 231-244
[8] X. Notitiae 8
(1972) 343; Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma, các số 86, 150,
159; Nghi thức Thánh lễ, số 136; Lễ nghi Giám mục, số
163; Ritus Servandus in celebratione Missae 1962, “De oratione
dominica et aliis usque ad factam Communionem,” n. 6; Edward McNamara, “Có
cần rung chuông khi Truyền phép không?” (24/08/2005), dg. Nguyễn Ngọc
Đa, http://giaophanthanhhoa.net/phung-vu/co-can-rung-chuong-khi-truyen-phep-khong-27292.html.
[9] X. Hiến
chế Phụng Vụ Thánh, số 22; Bộ Giáo Luật, 23-28,
838§2-4, 381§1, 835§1; ĐGH Gioan Phaolô II, Pastor bonus, aa.
62-75; Văn kiện Trình bày và Quy định Các Giờ Kinh Phụng Vụ, các
số 37, 43, 71, 74-75, 80, 110, 112, 126, 202, 207, 265…
[10] Edward
McNamara, “New Priests Blessing Bishops” (28 April 2009), https://www.ewtn.com/catholicism/library/new-priests-blessing-bishops-4472.
[11] Edward
McNamara, “Morning Prayer and the Our Father” (5 September
2017), https://www.ewtn.com/catholicism/library/morning-prayer-and-the-our-father-4866.
[12] X. Edward
McNamara, “New Priests Blessing Bishops” (28 APRIL 2009); “Morning
Prayer and the Our Father” (5 September 2017).
[13] Benedictus Nursiae, Regula
Sancti Benedicti, translated into English, A Pax Book, preface by
W.K. Lowther Clarke (London: S.P.C.K., 1931).
[14] Bộ Giáo Luật,
27.
[15] X. A. G.
Martimort, “The Liturgy of the Hours”, trong The Church at Prayer: The
Liturgy and Time, vol. IV, ed. A. G. Martimort, trans. Matthew J. O’Connell
(Collegeville: The Liturgical Press, 1986), 221-222; Pius Parsch, The
Breviary Explained, 100-103.
[16] Sacra Rituum
Congregatio, Rubricae, “Rubricae generales breviarii romani”
(25/07/1960).
[17] Sau Công đồng
Vatican II, những đặc nét của Giờ Kinh Đêm (Matituna/Matins) trước đây đã được
thay đổi và chuyển thành Kinh Sách của Phụng Vụ Các Giờ ngày nay.
[18] Rubricae,
“Rubricae generales breviarii romani” (1960), các số 215, 220; X.
Bernard A. Hausmann, Learning the Breviary (Cincinnati:
Benziger Brothers, 1961), số 25.
[19] Chẳng hạn cuốn
vừa trích dẫn: Bernard A. Hausmann, Learning the Breviary (Cincinnati:
Benziger Brothers, 1961).
[20] X. Rubricae,
“Rubricae generales breviarii romani” (1960), các số 240-242,
166-169, 171, 175.
[21] Trích theo Giờ
Kinh Ad Matutinum - Tridentine 1570 - “Dominica VIII Post
Pentecosten ~ Semiduplex Dominica minor”.
[22] X. Pius
Parsch, The Breviary Explained, 100-103.
[23] X. A. M Roguet,
OP, The Liturgy of the Hours: The General Instruction with Commentary,
trans. Peter Coughlan & Peter Purdue (Collegeville: The Liturgical Press,
1971), 119.
[24] Văn kiện
Trình bày và Quy định Các Giờ Kinh Phụng Vụ, số 45.
[25] Ibid., số 156.
[26] Ibid., số 172.
[27] Anscar J.
Chupungco, OSB, Phụng Vụ Là Gì? dg. Nguyễn Thế Lân (Sài Gòn:
Học Viện Đaminh, 2019), 326.
[28] Hiến chế
Phụng Vụ Thánh, số 22; X. Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Huấn
thị Bí tích Cứu độ, số 31.
[29] X. Quy
chế Tổng quát Sách Lễ Rôma, các số 47-48, 87, 198; Ủy ban Thánh Nhạc –
HĐGMVN, Hướng dẫn Mục vụ Thánh nhạc, số133b.
[30] Sách Lễ Rôma -
Ngày 31 tháng Mười Hai - Ngày thứ Bảy tuần Bát nhật Giáng sinh.
[31] Sách Bài
Đọc – Thứ Tư sau CN XVIII Thường Niên.
[32] X. Hiến
chế Phụng Vụ Thánh, số 100; ĐGH Phaolô VI, Tông Hiến Laudis
Canticum, số 1; Văn kiện Trình bày và Quy định Các Giờ Kinh
Phụng Vụ, các số 23, 27, 40; Bộ Giáo Luật, 1174 §2.