Năm nào,
chúng ta cũng cử hành thánh lễ ngày 02-11 cầu cho người quá cố. Riêng năm nay
có một nét đặc biệt là cử hành kỷ niệm 50 năm Tòa Thánh chấp thuận cho người
Công giáo Việt Nam áp dụng nghi thức
cổ truyền của dân tộc để diễn tả lòng hiếu kính đối với người đã khuất.
Hoàn cảnh
truyền giáo thế kỷ XVII có nhiều phức tạp, đã khiến một số nhà truyền giáo ngộ
nhận, cho rằng việc thờ cúng Tổ tiên ở Việt Nam là một tôn giáo.
1. Nhiều
vị tưởng rằng khi cúng lễ gia tiên, gia chủ phải đọc những lời thần bí rất tỉ
mỉ. Thật ra, người ta chỉ thì thầm những câu nói tự phát chân thành. Nhiều vị
tưởng chữ "lễ" trong lễ gia tiên có cái ý nghĩa nguyên thủy của nó là
"các quy tắc của các lễ nghi tôn giáo". Thật ra, các "lễ"
chỉ là những cách ứng xử trong cuộc sống. Chúng nêu rõ cách ứng xử người ta
phải có trong nhà, ngoài phố, ở triều đình, ở các lễ hội.
Lý do mạnh
nhất khiến Giáo hội đi đến chỗ không chấp nhận nghi thức thờ cúng Tổ tiên cổ
truyền, chính là vì nhiều người tin rằng vong hồn của những người chết ở trong
các bài vị, và người ta ghi rõ "đây là nơi ở của hồn (ông A, bà B)",
cách riêng là ở trong tấm lụa đặt trước bài vị, được gọi là "hồn
bạch", thường là tấm lụa đã phủ trên khuôn mặt người hấp hối và được cho
là hồn đã nhập vào đó. Tuy nhiên đó chỉ là tin tưởng sai lạc của những người
kém hiểu biết. Theo những giải thích chính thống của các nhà nho, các bài vị
chỉ có mục đích duy nhất là để nhắc nhở người sống tưởng nhớ những người đã
khuất.
Có những
nhà truyền giáo cho rằng việc thờ cúng Ông Bà là một tôn giáo nhưng lại có
những nhà truyền giáo khác khẳng định rằng người Việt không bao giờ xem Tổ tiên
của họ là "những vị thần", cũng không bao giờ xem cha mẹ họ là
"những vị thần tương lai". Đã đành là có bàn thờ dành cho Tổ tiên và
Tổ tiên là đối tượng của một sự phụng tự nhưng phụng tự này chẳng là gì khác
hơn một phụng tự tưởng nhớ, khác với sự thờ Trời. Do đó họ kết luận ngay rằng
sự thờ cúng Tổ tiên không phải là một tôn giáo theo nghĩa đen của từ này (Chúng
ta vẫn thường được nghe trả lời như sau: "Chúng tôi chỉ thờ cúng ông bà
chứ không theo đạo nào cả."). Hơn nữa, khi truyền bá sự thờ cúng này,
người xưa nhắm thiết lập những mối liên hệ xác thực giữa những người sống và
những người chết, củng cố sự liên đới giữa các thế hệ và phát huy kỷ luật xã
hội, tức là chỉ vì những mục tiêu xã hội và chính trị chứ không hề có ý tưởng
tôn giáo nào.
2. Thế
nhưng trong thực tế, đối với nhiều người, các nghi lễ dành cho Tổ tiên cũng dần
dần mang thêm một ý nghĩa tôn giáo. Người ta đi đến chỗ thờ Tổ tiên như thần
thánh, và có khi dành cho Tổ tiên một tâm tình thờ phượng tuyệt đối như thờ
phượng Thiên Chúa. Chính đây là điều không thể nào đi đôi với giáo lý Kitô
giáo. Chỉ có một Thiên Chúa độc nhất và chân thật. Không thể thờ bất cứ thụ tạo
nào như Thiên Chúa được.
Nghi lễ thờ
cúng ông bà ở các thế kỷ trước quả thật có bị lây nhiễm một số tin tưởng sai
lạc đáng ngại. Chẳng hạn, tin rằng hồn ông bà về hưởng của cúng. Người ta sợ
rằng không cúng tế thì hồn người chết sẽ đói khát, không đốt vàng mã thì hồn
người chết không có tiền tiêu. Những tin tưởng sai lạc như thế không thể đi đôi
với giáo lý Kitô giáo.
Ngoài ra
còn có những mê tín khác.
3. Với hoàn
cảnh ấy, các nhà truyền giáo đã tranh luận hết sức nghiêm túc qua nhiều năm,
một bên cho rằng những sai lạc trên đây có thể điều chỉnh được, một bên cho là
khó lòng thay đổi được não trạng của dân chúng. Cuối cùng, để bảo đảm cho niềm
tin của tín hữu được tinh ròng, năm 1742, Giáo hội đã quyết định rằng người
Công giáo Á Đông, bao gồm Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, chỉ được
tôn kính Tổ tiên theo cách Giáo hội quen làm, chứ không được thờ cúng theo hình
thức cổ truyền địa phương. Giáo hội quyết định như vậy mặc dù biết đó là một
chọn lựa phải trả giá đắt, rất bất lợi cho công cuộc truyền giáo. Trước khi có
quyết định ấy, số người hưởng ứng Đạo Chúa tại Việt Nam càng lúc càng đông, cả
đến trong triều đình vua Lê cũng có nhiều người theo Đạo. Việc cấm thờ cúng Tổ
tiên theo lối cũ đã khiến người ta tẩy chay tôn giáo mới, thậm chí đã thành một
trong những lý do biện minh cho các cuộc bách hại của nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn
và chiến dịch Văn Thân. Đã hẳn việc cấm thờ cúng nói đây có phần do ngộ nhận
nhưng dù sao nó cũng cho thấy đức tin Kitô giáo phải là một chọn lựa quyết liệt
đến mức nào.
4. Mãi gần
200 năm sau, khi Đạo Hiếu không còn bị ngộ nhận là một tôn giáo và những tin
tưởng sai lạc cũng không còn là chuyện chung của quảng đại quần chúng, ngày
8-12-1939, Tòa Thánh đã công bố một huấn thị chấp thuận cho người Công giáo
Trung Quốc được thờ cúng ông bà theo lối xưa. Rồi 25 năm sau đó, ngày
20-10-1964, huấn thị ấy được áp dụng cho tín hữu Việt Nam, tính đến nay là tròn
50 năm. Với thông cáo của HĐGMVN năm 1965, những chỉ dẫn của huấn thị ấy đã
chính thức đi vào cuộc sống của người Việt Công giáo.
Nhiều hành
vi cử chỉ xưa kia tại Việt Nam, có tính cách tôn giáo, nhưng nay vì sự tiếp xúc
với bên ngoài và vì tâm tình, tập quán đã thay đổi nhiều, nên chỉ còn là những
phương cách biểu lộ lòng hiếu thảo tôn kính đối với Tổ tiên và các bậc anh hùng
liệt sĩ. Những cử chỉ, thái độ, nghi lễ có tính cách thế tục, lịch sự và xã
giao đó, Giáo hội Công giáo chẳng những không ngăn cấm mà còn mong muốn và
khuyến khích cho nó được diễn tả bằng những cử chỉ riêng biệt của mỗi nước, mỗi
xứ và tùy theo trường hợp. Chẳng hạn như treo ảnh, hình, dựng tượng,
nghiêng mình bái kính, trưng hoa đèn, tổ chức ngày kỵ, giỗ...
Đồng thời,
vì có nhiệm vụ bảo vệ đức tin Công giáo được tinh tuyền, Giáo hội không thể
chấp nhận cho người giáo hữu có những hành vi cử chỉ, hoặc tự nó, hoặc do hoàn
cảnh có tính cách tôn giáo trái với giáo lý mình dạy. Vì thế, các việc làm có
tính cách tôn giáo không phù hợp với giáo lý Công giáo (như bất cứ lễ nghi nào
biểu lộ lòng phục tùng và sự lệ thuộc của mình đối với một thụ tạo nào như là
đối với Thiên Chúa), hay những việc dị đoan rõ rệt (như đốt vàng mã), hoặc cử
hành ở những nơi dành riêng cho việc tế tự của một tôn giáo khác... thì giáo
hữu không được thi hành và tham dự. Trong trường hợp bất đắc dĩ, chỉ được hiện
diện một cách thụ động như đã ấn định trong giáo luật.
Kỷ niệm 50
năm một sự kiện quan trọng của lịch sử Giáo hội Công giáo ViệtNam, độc giả nào
quan tâm muốn tìm hiểu thêm, xin mời đọc quyển sách đính kèm: 50 NĂM THỜ CÚNG
TỔ TIÊN. Sách in hiện cũng có bán tại các hiệu sách Công giáo ở Sài Gòn.
Việc thờ
cúng tổ tiên theo lối xưa có thể được tượng trưng bằng ba cây nhang. Nhang là
một sáng kiến tài tình của kinh nghiệm tâm linh phương Đông. Giữa nghĩa trang
lộng gió, giữ cho ngọn nến khỏi tắt thật khó, nhưng nhang thì khác. Trên cánh
đồng mục vụ của Hội thánh Việt Nam hôm nay cũng thế, Gió Thánh Thần đang thổi
rất lạ, có thể khiến nến bị tắt nhưng nhang sẽ càng lúc càng hừng lên ánh lửa
trầm ấm.