Đức Thánh Cha tôn phong 7 hiển thánh
VATICAN. Sáng chúa nhật
21-10-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã tôn phong 7 vị chân phước lên bậc hiển thánh,
trước sự hiện diện của gần 90 ngàn tín hữu tại Quảng trường thánh Phêrô.
Từ 9 giờ sáng, trong khi
chờ đợi buổi lễ bắt đầu, ca đoàn hát thánh ca, rồi cộng đoàn đọc kinh Mân Côi,
xen lẫn những bài hát do ca đoàn gồm 200 ca viên đảm trách.
Bên trái bàn thờ trên thềm
Đền thờ Thánh Phêrô được dành cho các phái đoàn chính phủ và các nhà ngoại giao
và nhiều tín hữu khác; bên phải dành cho 50 HY và đông đảo các nghị phụ và giáo
sĩ, tu sĩ. Trên mặt tiền đền thờ có treo chân dung khổng lồ của 7 vị thánh mới.
Khác với những lần phong
thánh trước đây, lần này theo quyết định của ĐTC, lễ nghi phong thánh được cử
hành trước khi thánh lễ bắt đầu. Đúng 9 giờ 20 chuông Đền thờ được đánh lên rồi
50 vị đồng tế gồm 6 HY, 18 GM và 26 LM có liên hệ đặc biệt với 7 tiến chức hiển
thánh, cùng với ĐTC đi rước từ bên trong Đền thờ ra lễ đài, trong khi ca đoàn
hát kinh cầu các thánh.
Sau khi ĐTC hôn và xông
hương bàn thờ, rồi an tọa trên toà của ngài, ĐHY Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ
Phong Thánh, cùng với 7 vị thỉnh nguyện viên tiến lên trước ĐTC thực hiện nghi
thức 3 lần thỉnh cầu ngài ghi tên 7 vị chân phước vào sổ bộ các thánh.
Đáp lại lời thỉnh cầu thứ
I, ĐTC mời gọi các tín hữu hiệp với ngài qua lời nguyện khẩn cầu ơn phù trợ của
Chúa, của Mẹ Maria và các thánh cho việc làm hệ trọng chúng ta sắp thực hiện.
Rồi ĐHY Amato lại thỉnh cầu
ĐTC lần thứ hai. Ngài đáp lại bằng lời mời gọi toàn thể cộng đoàn cầu xin ơn
Chúa Thánh Thần phù trợ. Sau bài thánh ca Veni Creator, ĐHY Tổng trưởng Bộ
Phong thánh lại xin ĐTC lần thứ ba và đáp lại, lần ngày ngài long trọng đọc
công thức:
“Để tôn vinh Chúa Ba Ngôi, để tuyên dương đức tin Công Giáo và
tăng cường đời sống Kitô, với quyền bính của Chúa Kitô, của hai thánh Tông Đồ
Phêrô Phaolô và của Chúng Tôi, sau khi đã cầu nguyện lâu và suy nghĩ chín chắn,
với ơn phù trợ của Chúa, sau khi lắng nghe ý kiến của nhiều anh em trong hàng
GM, Chúng Tôi tuyên bố và xác định các chân phước: Jacques Berthieu, Phêrô
Calungsod, Giovanni Battista Piamarta, Maria Carmen Sallés y Barangueras,
Marianne Cope, Kateri Takakwitha và Anna Schaeffer là thánh và ghi tên các vị
vào sổ bộ các thánh và truyền phải sốt sắng tôn kính các vị trong toàn thể Giáo
Hội”.
Cộng đoàn tung hô Amen ba
lần, trước khi thánh tích của các vị được rước lên đặt cạnh bàn thờ và được
xông hương tôn kính, rồi ca đoàn và mọi người hát kinh Te Deum, tạ ơn Thiên
Chúa:
ĐHY Tổng trưởng Bộ Phong
thánh tiến lên ngỏ lời cám ơn ĐTC và thánh lễ được chính thức bắt đầu với bài
ca nhập lễ, và diễn tiến như trong các thánh lễ chúa nhật.
Bài giảng của Đức Thánh
Cha
Giảng sau bài Tin Mừng về
sự tích hai anh em ông Gioan và Giacôbê xin Chúa Giêsu cho ngồi bên hữu và bên
tả Người khi Người được vinh quang, ĐTC nhấn mạnh lời Chúa Giêsu: “Con người đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc
nhiều người” (Xc Mc 10,45). Những lời này trở thành chương trình sống của 7 vị
Chân Phước mà hôm nay Giáo Hội long trọng ghi tên vào hàng ngũ vinh hiển của
các thánh. Các ngài đã anh dũng dâng mạng sống mình, tận hiến cho Thiên Chúa và
quảng đại phục vụ anh chị em đồng loại. Các vị là con cái của Giáo Hội, đã chọn
con đường phục vụ noi gương Chúa. Sự thánh thiện trong Giáo Hội luôn có nguồn mạch
từ mầu nhiệm cứu chuộc, được ngôn sứ Isaia báo trước trong bài đọc thứ I: Vị
Tôi Tớ Chúa là người Công Chính “làm cho nhiều người nên
công chính, Người mang lấy tội lỗi của họ” (Is 53, 11), Đó chính là Chúa Giêsu
Kitô, chịu chết, sống lại và đang sống trong vinh quang. Lễ phong thánh hôm nay
là lời khẳng định hùng hồn về thực tại cứu độ huyền nhiệm ấy. Sự kiên trì của 7
môn đệ Chúa Kitô trong việc tuyên xưng đức tin, sự trở nên đồng hình dạng của
các Vị với Con Người ngày hôm nay đang chiếu tỏa rạng ngời trong toàn Giáo Hội.
Đến đây, ĐTC lần lượt tóm
lượt tiểu sử và sứ điệp nổi bật của 7 vị thánh mới:
1. Trước tiên là cha
Jacques Berthieu, sinh năm 1838 tại Pháp, sớm được Chúa Kitô chinh phục.
Trong khi làm việc mục vụ giáo xứ, cha nồng nhiệt mong ước cứu vớt các linh hồn.
Trở thành tu sĩ dòng Tên, cha muốn rong ruổi trên thế giới để làm vinh danh
Chúa. Là mục tử không biết mệt mỏi tại đảo Santa Maria rồi tại Madagascar, cha
tranh đấu chống lại bất công, nâng đỡ người nghèo và bệnh nhân. Người dân
Madagascar coi cha như một LM đến từ trời, họ nói: Cha là “cha mẹ của chúng con!”. Cha trở nên mọi sự cho mọi người, kín
múc trong kinh nguyện và trong lòng yêu mến Thánh Tâm Chúa Giêsu sức mạnh nhân
bản và linh mục để đạt tới cuộc tử đạo vào năm 1896. Khi trút hơi thở cuối
cùng, cha nói: “Tôi thà chết còn hơn từ bỏ đức tin của tôi”. Các bạn thân mến, ước
gì cuộc sống của nhà truyền giáo này khích lệ và nêu gương cho các linh mục, để
các vị trở thành những người của Thiên Chúa như thánh Berthieu! Ước gì tấm
gương của thánh nhân trợ giúp các tín hữu Kitô đang bị bách hại ngày nay vì đức
tin! Ước chi sự chuyển cầu của thánh nhân trong Năm Đức Tin này mang lại thành
quả cho Madagascar và Phi châu! Xin Chúa chúc lành cho dân tộc Madagascar!
2. Pedro Calungsod
sinh khoảng năm 1654, tại vùng Visayas bên Philippines. Tình yêu của thánh nhân
đối với Chúa Kitô thúc đẩy Người trở thành giáo lý viên cùng với các thừa sai
dòng Tên tại nơi ấy. Năm 1668, cùng với các giáo lý viên trẻ khác, Pedro tháp
tùng cha Diego Luis de San Vitores tới quần đảo Marianas để rao giảng Tin Mừng
cho dân tộc Chamorro. Cuộc sống tại đó rất vất vả cam go và các thừa sai bị
bách hại vì ghen tương và vu khống. Nhưng Pedro đã chứng tỏ niềm tin và đức ái
sâu xa, và tiếp tục dạy giáo lý cho nhiều tân tòng, làm chứng về Chúa Kitô qua
cuộc sống khiết tịnh và tận tụy đối với Tin Mừng. Thánh nhân nồng nhiệt mong ước
đưa các linh hồn về cùng Chúa Kitô, và điều này càng làm cho Người kiên quyết
trong việc chấp nhận tử đạo. Pedro Calungsod qua đời ngày 2-4-1672. Các chứng
nhân kể lại rằng Pedro tuy có thể thoát thân nhưng đã quyết định ở lại cạnh cha
Diego. Vị linh mục đã ban phép xá giải cho Pedro trước khi bị giết. Ước gì tấm
gương và chứng tá can đảm của thánh Pedro Calungsod gợi hứng cho các dân tộc
yêu quí tại Philippines mạnh mẽ rao giảng Nước Chúa và đưa nhiều linh hồn về
cùng Chúa.
3. Giovanni Battista
Piamarta, linh mục giáo phận Brescia là đại tông đồ bác ái và của giới trẻ.
Cha cảm thấy đạo Công Giáo cần phải hiện diện về văn hóa và xã hội trong thế giới
tân tiến, vì thế cha tận tụy nâng cao đời sống Kitô, luân lý và nghề nghiệp cho
các thế hệ trẻ với tấm gương rạng ngời của cha về tình người và lòng từ nhân.
Được linh hoạt nhờ niềm tín thác không lay chuyển nơi Chúa Quan Phòng và với
tinh thần hy sinh sâu xa, cha đương đầu với những khó khăn và vất vả để thành lập
nhiều tổ chức tông đồ, trong đó có Học viện Artigianelli, nhà xuất bản
Queriniana, Dòng nam Thánh Gia Nazareth, và dòng các nữ tỳ khiêm hạ của Chúa.
Bí quyết cuộc sống khẩn trương và cần cù của cha chính là những giờ cầu nguyện
lâu giờ. Khi bị tràn ngập công việc, cha gia tăng thời gian gặp gỡ, tâm sự với
Chúa. Cha thích dừng lại trước Mình Thánh Chúa, suy niệm về cuộc khổ nạn, sự chết
và sống lại của Chúa Kitô, để kín mục sức mạnh tinh thần và tái ra đi chinh phục
tâm hồn tha nhân, đặc biệt là những người trẻ, để đưa họ trở lại nguồn sống với
những sáng kiến mục vụ luôn mới mẻ”.
4. “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu Chúa: chúng con hy vọng
nơi Chúa”. Với những lời này, phụng vụ mời chúng ta hãy nhận thánh ca này dâng
lên Thiên Chúa Tạo Hóa và Quan phòng như của chúng ta, chấp nhận dự phóng của
Chúa dành cho đời sống chúng ta. Thánh nữ Maria del Carmelo Sallés y
Barangueras, đã làm như vậy. Người là nữ tu, sinh trưởng tại Vic bên Tây
Ban Nha năm 1848. Khi thấy hy vọng của mình được thành tựu sau nhiều thăng trầm
khi chiêm ngắm sự phát triển của Dòng các nữ tu Đức Mẹ Vô Nhiễm chuyên về giáo
dục, mà Mẹ đã thành lập năm 1892, Mẹ đã có thể hát lên cùng với Mẹ Thiên Chúa: “Từ đời này đến đời kia, lượng từ bi của Chúa trải dài trên những
người kính sợ Chúa”. Công trình giáo dục của Mẹ, được phó thác cho Đức Trinh Nữ
Vô Nhiễm, tiếp tục mang lại những hoa trái dồi dào nơi giới trẻ nhờ sự dấn thân
quảng đại của các con cái của Mẹ, những người như Mẹ đã phó thác trong tay Chúa
là Đấng có thể làm mọi sự.
5. Giờ đây chúng ta hãy
hướng nhìn về thánh nữ Marianne Cope, sinh năm 1838 tại Heppenheim bên Đức.
Khi mới được 1 tuổi, Marianne được đưa sang Hoa Kỳ và năm 1862 gia nhập dòng Ba
Phanxicô tại viện ở Syracure New York. Sau đó với tư cách là Bề trên (tổng quyền)
của dòng, Mẹ Marianna tự nguyện đón nhận ơn gọi chăm sóc những người cùi trong
quần đảo Hawaii, sau khi nhiều người khác khước từ. Cùng với 6 chị em, Mẹ đến
đó để điều khiển một nhà thương ở đảo Oahu, rồi sau đó lập nhà thương ở
Malulani trên đảo Maui, mở một nhà cho các thiếu nữ con của những người cùi. 5
năm sau, Mẹ nhận lời mời mở một nhà cho các phụ nữ và thiếu nữ tại chính đảo
Molokai, can đảm đích thân đến đó và chấm dứt liên lạc với thế giới bên ngoài.
Tại đó Mẹ chăm sóc cha Damien, vốn nổi tiếng vì hoạt động anh dũng nơi những
người cùi, chăm sóc cha cho đến chết và tiếp nối cha nơi những người cùi nam giới.
Khi còn có thể làm chút ít cho những người đau khổ vì căn bệnh kinh khủng này,
Mẹ Marianne Cope chúng tỏ tình yêu, lòng can đảm và hăng say cao cả nhất. Mẹ là
mẫu gương sáng ngời và mạnh mẽ về truyền thống Công Giáo tốt đẹp nhất trong việc
săn sóc những chị em và theo tinh thần của thánh Phanxicô yêu quí.
6. Kateri Tekakwitha
sinh năm 1656 tại nơi này thuộc bang New York, thân phụ là người bộ lạc Mohak
và mẹ mà tín hữu Công Giáo thuộc bộ lạc Algonchina, người đã thông truyền cho
Kateri cảm thức về Thiên Chúa hằng sống. Kateri được rửa tội năm 20 tuổi, và
tránh các cuộc bách hại, tị nạn đến cứ điểm truyền giáo thánh Phanxicô Xavie gần
Montréal. Tại đó, Kateri làm việc, trung thành với truyền thống của dân tộc
mình, và cũng từ bỏ những xác tín tôn giáo của bộ tộc, cho đến khi qua đời lúc
24 tuổi. Với cuộc sống đơn sơ, Kateri trung thành với tình yêu Chúa Giêsu, kinh
nguyện và thánh lễ hằng ngày. Ước mong lớn nhất của Kateri là được biết Chúa và
làm những gì đẹp lòng Chúa.
Kateri mang lại cho chúng
ta ấn tượng mạnh về hoạt động của ơn thánh trong cuộc sống của thánh nữ, - vốn
không được những nâng đỡ từ bên ngoài,- và về lòng can đảm trong ơn gọi rất đặc
biệt trong nền văn hóa của thánh nữ. Nơi Kateri, đức tin và văn hóa làm cho
nhau được phong phú. Ước gì tấm gương của thánh nữ giúp chúng ta sống tại nơi
chúng ta đang ở, mà không từ bỏ thực chất của chúng ta, yêu mến Chúa Giêsu! Lạy
Thánh Nữ Kateri, bổn mạng của Canada và là vị thánh đầu tiên thuộc thổ dân bắc
Mỹ, chúng con phó thác cho thánh nữ sự canh tân đức tin của các thổ dân trên
toàn Bắc Mỹ! Xin Chúa chúc lành cho các thổ dân!
7. Anna Schaeffer
người làng Mindelstetten, khi còn trẻ đã muốn gia nhập một dòng thừa sai. Vốn
xuất thân từ gia đình khiêm hạ, Anna làm công trong một gia đình với ý định kiếm
đủ tiền hồi môn để được đón nhận vào một tu viện. Trong công việc ấy, Anna bị
tai nạn, bị phỏng nặng ở hai chân không thể lành được, khiến cô bị liệt giường
suốt đời. Và thế là chiếc giường đau khổ trở thành căn phòng tu viện đối với
Anna, và đau khổ trở thành hoạt động truyền giáo của thánh nữ. Thoạt đầu Anna
than thân trách phận, nhưng rồi Anna tiến đến mức biết giải thích tình trạng của
mình như tiếng gọi yêu thương của Đấng Chịu Đóng Đanh, mời gọi Anna bước theo
Ngài. Được an ủi hằng ngày nhờ việc rước lễ, Anna trở thành một dụng cụ không
biết mệt mỏi chuyển cầu bằng kinh nguyện và phản ánh tình thương của Thiên Chúa
cho nhiều người đến xin Anna lời khuyên bảo. Ước gì hoạt động tông đồ bằng lời
cầu nguyện và bằng đau khổ, hy sinh và đền tạ của thánh nữ là tấm gương rạng ngời
cho các tín hữu tại quê hương, và ước gì lời chuyển cầu của thánh nữ củng cố
phong trong Công Giáo Hospice, gồm những trung tâm săn sóc chống đau cho các bệnh
nhân ở giai đoạn cuối đời, trong công tác phục vụ tốt lành.
Và ĐTC kết luận rằng: “Anh chị em thân mến, các vị thánh mới, tuy có nguồn gốc, ngôn ngữ,
quốc tịch và hoàn cảnh xã hội khác nhau, nhưng đều liên kết với toàn thể Dân
Chúa trong mầu nhiệm cứu độ của Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc. Cùng với các ngài, cả
chúng ta nơi đây, hiệp với các nghị phụ Thượng HĐGM đến từ các nơi trên thế giới,
liên kết với những lời của Thánh Vịnh tung hô Chúa là “ơn phù trợ và là khiên thuẫn của chúng ta”, và chúng ta cầu xin
Chúa: “Lạy Chúa, ước gì tình thương Chúa đổ trên chúng con, như chúng
con hy vọng nơi Chúa' (Tv 32,20-22). Ước gì chứng tá của các vị thánh mới, cuộc
sống các ngài quảng đại dâng hiến vì tình thương Chúa Kitô, nói với toàn thể
Giáo Hội ngày nay, và lời chuyển cầu của các ngài củng cố và nâng đỡ Giáo Hội,
trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới.
Trong phần rước lễ, 280
linh mục và phó tế đã tản ra các nơi ở quảng trường để mang Mình Thánh Chúa cho
các tín hữu. Và chính ĐTC đã cho hàng chục tín hữu rước lễ.
Cuối thánh lễ, vào lúc 11
giờ 40, ĐTC chủ sự buổi đọc Kinh Truyền Tin. Trong lời nhắn nhủ trước khi đọc
kinh, ngài mời gọi các tín hữu hướng về Mẹ Maria, Nữ Vương các thánh, và đặc biệt
nghĩ đến Lộ Đức, bị lụt vì mưa lũ làm nước sông Gave dâng cao, ngập cả Hang Đá
Đức Mẹ hiện ra. ĐTC nói: “Đặc biệt hôm nay, chúng ta hãy phó thác cho sự bảo vệ từ mẫu của
Mẹ Maria các thừa sai nam nữ, các LM, tu sĩ và giáo dân, đang gieo vãi hạt giống
tốt lành của Tin Mừng. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho Thượng HĐGM, trong những
tuần lễ này đang đương đầu với thách đố tái truyền giảng Tin Mừng để thông truyền
đức tin.
Bằng nhiều thứ tiếng, ĐTC
cũng chào thăm các phái đoàn chính quyền và các tín hữu đến tham dự lễ phong
thánh. Sau kinh truyền tin, ĐTC đã ban phép lành cho các tín hữu như mọi khi.
Các phái đoàn
Sau thánh lễ, tại nhà
nguyện Đức Mẹ Sầu Bi trong đền thờ thánh Phêrô, các phái đoàn chính phủ đã được
ĐTC đặc biệt chào thăm:
Phái đoàn Philippines gồm
7 người do Phó Tổng thống Jejomar Binay hướng dẫn; phái đoàn Tây Ban Nha gồm 22
người do Bộ trưởng nội vụ Jorge Fernandez Díaz làm trưởng đoàn; Phái đoàn Pháp
có 22 người do Bộ trưởng nội vụ Manuel Valls; phái đoàn Canada gồm 10 người do
chủ tịch Hạ viện liên bang Ông Andrew Sheer; phái đoàn Italia có 10 người do bộ
trưởng y tế Renato Balduzzi, phái đoàn Đức có 6 người cho Chủ tịch nghị viện
bang Bavaria bà Barbara Stam hướng dẫn; phái đoàn Hoa Kỳ gồm 5 người do Đại sứ
Miguel Diaz cạnh Tòa Thánh đại diện, và phái đoàn Madagascar có 6 người do bà
Annick Rajaona, trưởng Văn phòng ngoại giao, cầm đầu.
Trong gần 8 năm làm Giáo
Hoàng, ĐTC Biển Đức 16 đích thân tôn phong 43 vị hiển thánh, kể cả 7 vị sáng
21-10-2012, và ngoài ra có hơn 600 vị chân phước được tôn phong, do Tông Thư của
ngài, và thường là một vị Hồng Y, nhất là ĐHY Tổng trưởng Bộ Phong thánh, chủ sự
các lễ phong chân phước. Đa số các vị chân phước được tôn phong trong thời gian
qua là các vị tử đạo trong thời nội chiến tại Tây Ban Nha từ 1936 đến 1939.
G. Trần Đức Anh OP