GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2014
BẢN TIN 12
Thưa quý độc giả và quý
tác giả,
Chúng tôi xin giới thiệu 7
truyện dự thi mới của Giải Viết Văn Đường Trường 2014. Trong bản tin lần tới,
chúng tôi sẽ giới thiệu 8 truyện cuối cùng.
Hiện chúng tôi đã có điểm
sơ khảo. Giúp chấm sơ khảo gồm có ba vị: Lê Hồng Bảo (Ninh Thuận, chủ nhiệm
chuyên trang truyện ngắn Vườn Ôliu), Trần Tuy Hòa (Phú Yên, biên tập viên
www.ghphuyen.org) và Tađêô Nguyễn Thanh Xuân (Hội Văn học Nghệ thuật Bình Định,
chủ nhiệm Câu lạc bộ Sáng tác Thơ văn Công giáo Đồng Xanh Thơ Giáo phận Qui
Nhơn).
Những truyện đạt điểm sẽ
được gửi đến Ban Chung khảo. Tham gia chấm chung khảo có bốn vị: Nhà văn Bùi
Công Thuấn (Giáo phận Xuân Lộc), Linh mục Nguyễn Trung Tây (Hoa Kỳ), Linh mục
Sơn Ca Linh Trương Đình Hiền (Hạt trưởng Quảng Ngãi) và Nhà văn Trần Như Luận
(Hội Văn học Nghệ thuật Bình Định).
Kết quả cuộc thi sẽ được
công bố trong Bản tin số 14.
Xin mời quý độc giả cùng
theo dõi, đánh giá và tham gia bình chọn qua hai câu hỏi: 1. Theo bạn, truyện
nào xứng đáng đạt giải nhất? 2. Có bao nhiêu người cùng ý kiến như bạn? Ba độc
giả đáp đúng nhất sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự
họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
Quý độc giả có thể gửi
phiếu bình chọn ngay sau từng đợt bài được giới thiệu. Khi đọc các truyện ở các
đợt tiếp theo, nếu thay đổi ý kiến, có thể gửi phiếu bình chọn mới. Chúng tôi
sẽ tính theo phiếu gởi sau cùng của mỗi người. Xin gửi cùng lúc về 2 điện chỉ
email: tinmunggiesu@gmail.com và
gopnhattho@yahoo.com.
Nếu quý độc giả phát hiện
bài dự thi nào sao chép, copy ý tưởng, hoặc chỉ là phóng tác từ một tác phẩm
khác đã công bố, xin vui lòng cho Ban Tổ chức được biết.
Xin chân thành cám ơn các
trang truyền thông Công giáo đã và đang hỗ trợ truyền bá chương trình này, cám
ơn quý tác giả đã gửi bài tham gia và cám ơn quý độc giả đang quan tâm theo dõi
cuộc thi. Nguyện xin Thiên Chúa giàu lòng thương xót chúc lành cho tất cả chúng
ta.
Qui Nhơn, ngày 10-6-2014
Thay lời Ban Tổ chức
Linh mục TRĂNG THẬP TỰ
BÀI DỰ THI
Mã số: 14-091
GÓC LẶNG !
Chiều dần buông. Mọi thứ
tan lặng đi theo màu ánh sáng ửng hồng nơi phía cuối chân trời kia đang trải
dần ra; pha nhẹ với nền xanh quyện chặt lấy mấy tấm vải trắng được ai đó thả
bồng bềnh phiêu lãng đẹp tinh tế. Còn sót lại đôi vài cánh én lả tả trở về nơi
trú ngụ. Trên con đường đầy sỏi đá và cỏ dại, một anh thanh niên trai trẻ vai
vác chiếc balô xanh lá nặng trĩu vừa bước xuống xe, cũng tìm về gia đình mình,
sau những ngày lửa đạn nơi chiến trường;anh xin phép được về thăm quê nhà vài
ngày nghỉ. Vì đâu đó, anh hay tin rằng: xóm đạo của anh vừa bị thả bom ngay
giữa trưa hôm qua! Tiếng “bom” như sét đánh ngang tai, chẳng phải lúc này là
niềm vui trọn vẹn được hội ngộ nữa, mà là nỗi lo sợ đan xen chằng chịt với sự
thao thức về cái gì đó bất ổn và khác lạ so với mọi khi.
Tre xào xạc khẽ đưa mình
lá rơi, đôi vài cánh bướm chập chờn bay giữa khoảng không đang chìm tối đi. Ếch
kêu vang trên cánh đồng xa trong sự u tịch, vắng lặng đến lạ kì. Chẳng bao giờ
cái cảm giác rùng rợn của sự tĩnh lặng lại khiến anh phải nôn nao và khiếp sợ
đến như vậy! Bước chân nhanh hơn, rồi nhanh hơn nữa, anh muốn về nhanh cái mái
ấm bình yên của mình. Vượt qua cánh đồng lúa đang chín rộ, đập ngay vào mắt anh,
ở phía chiếc cầu tre cũ nằm ven sông, người phụ nữ hơi khom lưng, đang thơ
thẫn, đăm chiêu hướng theo chiều dòng nước, chị ôm thật chặt đứa con ngây thơ,
đang say nồng trong lòng mẹ. Không phải đó là chị Tư bán cháo ở đầu xóm
sao?Nhưng… tại sao đôi mắt kia đang ngấn lệ trong buồn sầu. Có lẽ anh đã biết
được có điều gì chẳng ổn. Và chỉ trong giây lát, anh hiểu ra đứa con trai duy
nhất của chị đã chìm sâu vào giấc ngủ thiên thu, chẳng một ai có thể đánh thức
em dậy được nữa, chẳng ai còn nghe thấy thứ “ngôn ngữ riêng” của một đứa trẻ
ngây thơ nữa. Nghẹn đắng ở cổ, anh không thể nào mở lời và đến bên mà an ủi
chị. Hai con người đang chết lặng theo từng giây đếm trên chiếc đồng hồ quả
lắc. Chồng chị đã gửi gắm đứa con này làm nguồn vui còn lại cho chị để rồi anh
ra chiến trận và mãi mãi không quay về nữa.
Dòng sông mặc định vô
tình, cứ hững hờ trôi qua dòng đời, dẫu cho bao tiếng thét gào từ sâu bên trong
một trái tim vụn nát, nó vẫn cứ thế, vẫn không xúc cảm mà động lòng. Anh hận!
Mặt hồ muốn lắng đọng, thế sao bão táp chẳng để yên. Anh cũng hận! Cái xúc cảm
này cứ giày xéo từng mao mạch đổ về con tim. Anh vứt lại “chiếc balô nặng lòng”
này, chạy vội về nhà. Tất cả đang hỗn độn bủa vây lấy tâm trí anh khiến anh
không thể nghĩ được gì ngoài hai chữ “tạp viện”- nơi chứa đựng đầy kí ức của
mình.
Đêm nay không tối nhưng
cũng chẳng tỏ tường, bởi ánh trăng khuyết đã dương cao trên bầu trời vắng sao.
Anh vừa chạy đến đứng dưới dàn bông thiên lý trước nhà đang lan tỏa mùi hương
rộ mùa. Lờ mờ, anh vội lấy chiếc đèn pin bên mình bật sáng lên. Trời…Chỉ còn là
đống đổ nát nguyên vẹn, chưa xê dịch. ”Mái ấm của tôi đây sao?”. Anh gọi lớn
thất thanh:”Huy, Hà, Nguyệt anh về rồi, các em đang ở đâu?”. Đáp lại tiếng gọi
ấy là tiếng vang vọng lại của chính anh, cộng với tiếng kêu ai oán của loài cú
đêm. Anh vẫn gọi, gọi lớn, gọi mãi trong vô vọng. Anh lật tung từng mảnh vỡ của
mái nhà tranh, của bức tường rơm trộn bùn. Cho đến từng manh tre nứa làm cột
nhà, anh chẳng để sót….
Cuối cùng, anh cầm lên
chiếc giày quai hậu màu đen của bé Hà mà nó quý nhất . Đó là món quà sinh nhật
anh dành dụm chắt chiu mấy tháng trời tiền làm thuê để mua tặng nó cách đây hơn
hai năm trước. Khi đó, nó bất ngờ chẳng nói được lời nào, nước mắt lưng tròng
trên khuôn mặt bầu bĩnh cứ như một thiên thần nhỏ bé tìm thấy mẹ sau khi bị lạc
mất vậy. Chẳng bao giờ thấy nó mang đôi giày đi đâu trừ những dịp lễ trọng ở
nhà thờ, nó lau chùi thật kĩ mỗi khi mang xong, rồi cất vào trong tủ kín cứ như
là cả gia tài của con bé vậy. Và đây. . . Chiếc xe tải làm bằng hộp thuốc với
mấy cái nút chai cao su của Huy do chính anh làm cho cậu bé tròn mười tuổi vẫn
còn y nguyên, nhặt lên, anh thổi sạch bụi đất bám đầy lên chiếc xe. Anh cúi gằm
mặt xuống đất, nước mắt đang rơi nhanh hơn, từng giọt, từng giọt, cho dù bản
ngã thanh niên cứng rắn thế nào, với những người mình yêu quý nhất, cũng chỉ là
một đứa con nít mỗi khi thức dậy chẳng thấy mẹ bên mình thôi. Anh cũng thế!
Cũng cần được yêu thương, huống hồ với anh “tạp viện” chính là tất cả động lực
để anh phấn đấu.
Cái tên “tạp viện” ngẫm
cho cùng mới hiểu được, họ, chính họ, những con người già trẻ, lớn bé có cả. Họ
là bảy con người chẳng còn nơi nương thân, ba lão, ba ấu, một thanh niên chẳng
quen biết nhưng cùng cảnh ngộ. Bởi cơ duyên, họ gặp nhau, cùng chung sức dựng
nên một căn nhà sụp đổ nát che mưa nắng qua ngày, cùng sống với nhau, cùng phấn
đấu, mỗi người mỗi việc, bươn chải để sinh nhai. Kẻ đan giỏ, người đan nón. Còn
anh, ai mướn gì thì làm nấy, biết là cơ cực, nhưng không lo phải buồn. Vì anh
biết anh vẫn còn tình yêu thương của họ làm “hậu phương” vững chắc cho anh. Thế
rồi năm tháng trôi qua, chẳng ai ngăn nổi tuổi già thoáng bay ngang cuộc đời
mình, các cụ cũng lần lượt đi xa đến một nơi lặng gió hơn, chỉ còn lại bốn con
người trẻ an ủi, động viên nhau mà sống tiếp.
Anh vẫn còn nhớ như in cái
lần đầu tiên gặp bé Nguyệt, khi đó Nguyệt mới tầm bốn năm tuổi thôi. Trong một
đêm giá rét, mưa bão, đang tay khép cánh cửa sổ lại, vô tình anh nhìn thấy một
bóng người run lẩy bẩy đang ngồi ngay đầu ngõ, anh chẳng sợ, liền chạy ra để
xem ai hù dọa. Nhưng không, đó là một cô bé nhỏ nhắn đầy thương tích ướt sũng
dưới mưa, ngẩng đầu lên nhìn anh, đôi mắt mờ lệ, anh hỏi: “Vì sao em lại ở
đây?”, Nguyệt chẳng mở miệng nói một lời phân trần. Và cô bé đã ngất lịm đi
trong cơn mưa dông không ngớt. Anh bồng Nguyệt vào nhà, mới hay đôi chân của em
chẳng lành lặn như bao đứa trẻ khác, các cơ và ngón chân đều teo nhỏ cả. Cô bé
đã đến với nơi này như thế đấy. Quãng thời gian đầu, Nguyệt chẳng nói chuyện
với ai trong nhà, ai hỏi gì, cô bé cứ như người khiếm thính, nhìn mãi ra phía
ngoài cửa. Hơn năm trời, cô bé mới vứt bỏ được lớp vỏ bọc của một con nhím luôn
trong tư thế tự vệ. Thế rồi, em mới kể ngọn ngành câu chuyện của mình.
…Nguyệt bị dị tật bẩm sinh từ bé, chưa một
lần biết mặt cha mẹ, em về ở với chú thím, nhưng cuộc sống của cô bé bất hạnh
chẳng êm đềm, là tại vì họ vô tâm hay là bởi cuộc sống vật chất làm chai sạn đi
sợi dây rung cảm của mình, người ta đan tâm bắt một cô bé chưa tròn bốn tuổi
phải làm mọi việc trong nhà từ nấu cơm, giặt giũ rồi dọn dẹp, mặc cho em phải
“bò lết”để làm hài lòng ý chủ. Họ chẳng cho Nguyệt tiếp xúc vui chơi với bất kì
đứa trẻ nào, cắt đi sự tự nhiên, đáng yêu của đứa con nít mới lớn vốn đã bắt
đầu cảm thấy tự ti phần nào, khi chẳng còn ai bênh đỡ. Mỗi lúc, cô bé trông
thấy những đứa trẻ xúng xính nhảy quanh mẹ chúng trên đường đến nhà thờ. Nó uất
ức, nghẹn ngào và nén chặt lại khóc chẳng ra tiếng, để khỏi bị ăn đòn. Nó cũng
thèm khát được thử gặp ông Chúa bởi vì nó không biết Người ấy là ai, cũng tò
mò, hiếu kì như bản tính một đứa trẻ đang mò mẫn học làm “người lớn”! Một lần,
nó nghĩ rằng chú thìm đi thăm con gái sinh hai ngày nữa mới về nên lẻn đi xem
Thánh lễ là như thế nào cho biết, lúc trời vừa nhẹm tối. Nhà thờ chẳng xa là
bao, nhưng với Nguyệt đi đến đó là cả một kì tích vĩ đại, nó đi hai ba bước là
phải dừng lại để lấy thăng bằng rồi bước tiếp. Cứ thế, đi bộ hơn một giờ mới
tới. Hôm đó, Nguyệt cũng kịp “xem Lễ” theo cái tư duy non nớt, nhưng cô bé cảm
nhận sự thích thú mỗi lần nghe giảng bài, nó cũng muốn được rước bánh mà người
ta gọi là “Mình Máu Chúa” đó và trở về với một tâm thái phấn khích yêu đời hơn.
Và rồi…
…Chính cái đêm đó, đêm định mệnh Nguyệt bước
sang một trang mới. Cô bé bị ông chú, bà thím mình đánh đập bầm dập vì phạm
“trọng tội” là ra khỏi nhà mà không được phép. Họ bàn tính với nhau để “xử” vụ
này cho êm đẹp, mỗi câu từ vô tình khắc tạc sâu vào tiềm thức của cô bé:”Mình
đánh nó thế này, nếu nó chết, thì phải làm sao?Chi bằng đem vứt nó ra tạp viện,
mấy người nghèo rách xác đó chắc thương mấy đứa tật nguyền như con nhỏ này, để
họ cưu mang nó đi. Chứ nó ở lại, cũng vô ích, lại cơm áo gạo tiền, tốn kém trăm
bề”- Bà thím đay nghiến từng câu từ- “Ừ, phải, bà nói có lý”- Ông chú cũng tán
đồng cho một sáng kiến tuyệt diệu của bà thím “vĩ đại” và họ hành động như theo
“kịch bản” ấy. Cuộc sống, mấy ai trọn hảo, nếu là người không thiếu thốn vật
chất, thì cũng dễ dàng tìm thấy đầy rẫy lỗ hỏng của “khoang tim”. Cô bé Nguyệt
này lại chịu tổn thương lớn về thân xác lẫn tâm hồn, cho nên lần đó, Nguyệt
muốn chết đi, trong mưa, để từng hạt mưa rơi tẩy xóa đi những vết tích đang rỉ
máu từ ngoài vào sâu bên trong. Thế nhưng, sự quan phòng của ai đó, sẽ chữa
lành mọi đau đớn của một con người bằng cách này hay cách khác. Cô bé dần gạt
bỏ mặt cảm từ sâu nội tâm mà sống thanh thản với những con người chẳng thiếu
thốn nụ cười nơi đây. Ước nguyện của nó là được viếng thăm nhiều nhà thờ và
được đi đây đó khắp nơi để cảm nhận được thế giới vẫn còn nhiều thứ diệu kì chẳng ai khám phá hết. Và anh còn nhớ
Huy thủ thỉ bên tai rằng:”Mai mốt em lớn, em sẽ làm tài xế để chở cả nhà mình
đi du lịch, đưa chị ba(Nguyệt) đến nhiều nhà thờ chị ấy ao ước được đến đó!
”Anh mỉm cười, xoa nhẹ cái đầu lắc lư của nó. Câu nói đủ “độ chín” của một đứa
trẻ chưa trưởng thành khiến Nguyệt không cầm lòng được mà rơi nước mắt. Nguyệt
đáp lại:”Thế thì giờ em học lái thành thạo chiếc xe tải của anh hai cho em đi
đã”. Huy ngượng nghịu:”Em biết rồi! ”. Cả nhà sang sảng tiếng cười khi nhìn cậu
bé đang gãi đầu cố che sự thẹn thùng trên gương mặt. Bình yên là thế! Khi mỗi
buổi sớm thức giấc, anh cõng Nguyệt đi lễ, còn hai đứa trẻ kia thì thi chạy xem
đứa nào đến trước có phần thắng. Cứ như thế, ngày qua ngày. Giá như cuộc sống
phẳng lặng như thế sẽ tốt biết bao.
Ngay lúc này, anh bật đứng
dậy, chạy đi tìm em mình. Chính lúc anh băng qua nhà thờ, như được mời gọi, anh
đã ghé vào đứng trước tượng Đức Mẹ hòa bình cầm trên tay một quả địa cầu mà thì
thầm thưa chuyện. Ánh trăng luồn lách qua từng khe lá, in trên nền cát là
khoảng trắng hòa đen lẫn lộn. Anh cầu nguyện:
“Lạy Mẹ nhân lành, con
biết Mẹ yêu chúng con, con biết Mẹ chẳng muốn bất kì một người con nào của Mẹ
phải lầm than, cơ cực. Nhưng sao, thế giới lại đổi thay và vong ân cứu chuộc
Con Mẹ như thế, mỗi khi chiến tranh là mỗi lần cả chúng con và Mẹ đều bị đâm
thâu thêm mũi gươm vào ngay trái tim mình. Con buồn phiền bao nhiêu, Mẹ sầu
thương gấp bội. Con đáng sợ nhân loại ngày nay, họ thấy vui khi họ chiến thắng,
khi họ chứng tỏ họ hùng mạnh và vũ khí, bom đạn của họ là tối tân, là hiện đại,
là đủ sức diệt vong cả một dân tộc. Tính mạng của một con người chỉ là một viên
đạn nhỏ để họ thử nòng súng của mình. Thứ “trò chơi” đáng sợ ấy, đang tố giác
ngay cái bản chất lương tâm của mình đang dần biến chất. Bao nhiêu tội lỗi ghê
tởm của con người phát xuất từ cái nội tâm nguội lạnh không còn tình yêu chen
chân vào nữa. Họ tự tách mình ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa để sống theo “tự
do” trần tục, mà đáng lẽ là thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa. Khi cuộc sống vắng
bóng tình người thì thứ còn lại là hận thù, ghen ghét, là bôi nhọ nhân phẩm của
nhau để trục lợi và sẵn sàng bán mất linh hồn của mình để đổi lấy những thứ xa
hoa chẳng vững bền. Và ngay lúc này, con chỉ nguyện xin Mẹ điều này rằng Mẹ hãy
canh tân lại bộ mặt Trái Đất bằng chính hoa trái của con tim Mẹ, xin hãy để
tình yêu làm ngôi sao mai dẫn đường cho lý trí. Bao giờ thế giới này cảm nhận
được tình yêu sâu xa của “Người dám chết cho người mình yêu” thì con tin rằng
bi kịch của ngày hôm nay sẽ hoàn toàn chấm dứt bởi vì mọi sự đều khởi nguồn từ
con tim. Lạy Mẹ, ngay lúc này, con hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa nhân từ và
sự bao dung của Mẹ rằng em con vẫn được bình an”. Nói xong, anh cuối thật sâu,
chào Mẹ mà tiếp tục đi tìm. Đôi mắt ấy hướng theo con đường anh đang đi…
…”Ầm”. Một tiếng động làm
cho ai đó giật thót tim, bừng tỉnh. Chỉ là cơn mơ sao?Người đàn ông đứng tuổi,
đầu hói, râu bạc trắng khập khiễng từng bước đến khép vội cửa sổ bị cơn gió
giật tung ra. Mưa lớn quá! Âm ỉ mãi cả đêm rồi. Trời chưa kịp sáng chỉ độ
khoảng ba, bốn giờ gì đó. Từ nãy giờ,
mọi thứ tái diễn lại y hệt như ngày nào. Đã hai mươi tám năm trôi qua, kể từ
cái ngày đất nước thống nhất. Người trai trẻ nhiệt huyết ấy nay đã già nua
“đứng tuổi”. Cuộc đời trải qua bao nhiêu sóng gió, ông cũng đã thấu hiểu được
giá trị sống là như thế nào?Sau cơn mưa, trời lại sáng, đó chính là quy luật tự
nhiên mà thôi. Chiến tranh đã đi vào dĩ vãng, nhưng hậu quả của nó vẫn để lại
cho ông “dấu tích” không thể quên- một đôi bàn chân tật nguyền! Thế nhưng đến
cuối cùng, ông cũng chẳng còn phải thổn thức nữa, vì Thiên Chúa đã trả lại sự
tĩnh lặng và tình yêu cho ông. Hạnh phúc hơn, khi ông hay tin rằng cả ba đứa
trẻ thân yêu của anh đã được “sứ Thần” của Thiên Chúa gửi đến cứu giúp, nâng
đỡ. Bé Hà kháu khỉnh ấy nay đã trở thành bà sơ dòng Kín Carmel, Chúa đã gọi em
đi trên con đường hiến dâng và phục vụ. Thỉnh thoảng, anh có nhận được tâm thư
của Hà, anh cảm nhận được niềm vui sướng trọn vẹn lan tỏa trong từ câu từ của
cô bé! Và… niềm vui sướng ấy được nhân lên khi ông biết được ước mơ của cậu bé đòi
làm tài xế cũng thành hiện thực. Bây giờ, Huy đã làm giám đốc của công ty vận
tải lớn nhất thành phố. Điều đặc biệt nhất, chiếc xe do chính cậu lái, chỉ dành
riêng cho Nguyệt và những người giống như cô bé “nội tâm” ấy. Hằng ngày, chiếc
xe lăn bánh đi đến mọi miền đất nước để đưa Nguyệt cùng cả đoàn đi thăm viếng
mọi nhà thờ như mong ước của em và mang theo tình yêu của Chúa chia sẻ đến cho
những con người bất hạnh “chưa được yêu”.
Cứ như vừa bước qua một
cây cầu sắp gãy là đến được Thiên Đường vậy. Ông chẳng còn gì để tiếc nuối nữa
khi hạnh phúc ngay đời này đã viên mãn. Ngày mai, lúc cơn mưa trút nước xuống
trên ngọn đồi khô cằn này đã tạnh, sau khi hừng đông vừa lên. Ông sẽ nhân thật
nhiều giống cây si ngay trên đỉnh đồi đã cằn cỗi và trơ trọi bao nhiêu năm qua,
kể từ lúc ông chuyển lên đến đây để “định cư” và tìm cho mình một không gian
riêng. Ông biết rằng giống cây này tự đâm rễ thật sâu để lấy nguồn nước cho
mình và dù cho nắng cháy thiêu đốt hay bão táp phong ba, nó vẫn kiên định đợi
chờ và chẳng dễ gì quật ngã. Còn ngay trong khu vườn trống nhà mình, ông muốn
trồng một loại hoa, rễ củ, đó chính là hoa huệ. Loài hoa trắng tinh khiết
thiêng liêng, đẹp vẹn tuyền để cuối đoạn đường này, ông sẽ được thấy loài hoa
luôn hướng về ánh sáng ấy sẽ nổ rộ và tỏa lan mùi hương nhẹ nhàng của nó đến
khắp mọi nơi. Và… chính lúc này, người đàn ông
bên ngọn đèn cầy heo hút, với một cây giá nhỏ trước mặt, cuốn Kinh Thánh
cũ, và cả một sợi dây chuỗi đã ngả màu đồng đất đang suy tư về một điều gì đó
chẳng thể đọc được, trên một ngọn đồi lộng gió…
Mã số: 14-092
MƯA …
Mưa rả rích cả ngày. Mưa
tầm tã cả tháng. Mưa cứ tỉnh bơ rơi, mặc cho lòng người suốt ruột…
Từ đầu tháng đến giờ chưa
bán được cái gì. Người ta cứ vội vội vàng vàng băng qua cái lạnh buốt của những
cơn mưa mùa đông. Không bán được hàng thì không có tiền thưởng, thậm chí còn có
nguy cơ nợ lương. Triệu hai một tháng lương, đắt hàng thì được thêm vài trăm.
Em trai nó làm được triệu bảy một tháng. Cả hai chị em chỉ lo được chi phí ăn
uống tằn tiện hàng ngày cho gia đình, còn tiền mổ mắt Glocom của mẹ, Mười
triệu. . . tính sao đây? Chúa ơi…Nó thở dài…
Cứ miên man với những suy
nghĩ mông lung, nó chợt giật mình:
- Bộ này có size nhỏ hơn
không em?
Ồ, một anh thanh niên
trong dáng vẻ sang trọng, chắc vừa bước ra từ cái ôtô sáng bóng kia.
- Dạ, có đấy anh ạ! Bé bao
nhiêu cân hả anh? Nó vừa hỏi vừa lục tìm bộ bé hơn đưa cho anh.
- Mười một cân. Bộ này vừa
đấy. Nhặt cho anh vài bộ nữa cùng size nhưng kiểu khác!
- Vâng.
Nó mừng quá, ơn Chúa, bán
được hàng rồi.
- Bao nhiêu tiền hả em?
- Anh chờ chút để em tính
tiền.
Đầu óc nó đang tính toán
thật nhanh. Anh chỉ nhìn sản phẩm chứ không để ý đến giá tiền, thậm chí không
thèm cầm vào chất vải. Nó cứ cộng thêm tiền vào chắc anh cũng không biết. Tính
xong nó chỉ cần cắt mác đi là xong. Anh mua nhiều thế này, mỗi thứ nó cứ cộng
thêm hai mươi nghìn, thế là có năm trăm nghìn đút túi. À…, anh còn lấy cả mấy
cái mốt của năm ngoái, sổ sách năm ngoái đã đốt rồi, mấy cái này xếp xó lâu
ngày ai cũng tưởng hết hàng…Lạy Chúa, xin thông cảm tha thứ cho con, nhà con
đang rất cần tiền…
- Tất cả Bốn triệu hai anh
ạ!
Nó nói với anh mà mắt vẫn
không rời cái máy tính tiền. Bối rối, lúng túng…Nó cảm thấy xấu hổ như đang
trần truồng, mặc dù trên người nó là ba lớp quần áo chống chọi cái rét cuối đông.
- Tiền này em gái! Sao
thế…? Anh tròn mắt nhìn nó.
- Dạ không…Nó đưa trả anh
Ba trăm nghìn rồi cầm Bốn triệu rưỡi.
- Em bóc hết mác giá ra
rồi gói vào cho anh đi sinh nhật!
- Vâng.
Ồ, Chúa giúp con đấy mà.
Thế thì khách sẽ không có cơ hội đổi hàng hay trả lại hàng, sẽ không ai biết…
Nó giật mác giá ra, và cứ
giật một cái lại thấy mình nhỏ đi một chút. Cứ giật một cái mác lại thấy mình
nhỏ đi chút nữa. Giật xong chục tấm mác kia nó thấy mình chỉ bằng con kiến. Một
con kiến nhỏ xíu… trần truồng. Ôi…lạy Chúa con…! Nó lắc đầu, cố xua đi cảm giác
tội lỗi, cố nghĩ đến mẹ, đến những chi phí cho ca mổ. Để cứu mẹ, giá nào nó
cũng trả…
Nghĩ thế, nó cứ xếp gọn
mác vào và gói hàng cho khách. Xong, anh rời cửa hàng. Nó vào sổ những sản phẩm
của năm nay mà anh vừa mua, với mức giá đúng của cửa hàng. Còn tiền mấy bộ của
năm ngoái tồn kho nó giấu nhẹm, giấu cả mác, đút hết vào túi quần đem về cho
chắc ăn. Cứ cho là lộc Chúa ban, chắc tại nó cầu nguyện xin tiền tha thiết quá,
mà không chịu mua đề hay xổ số nên Chúa phải cho bằng cách này. Tốt quá, tạ ơn
Chúa. Cộng xong sổ, nó đút túi Một triệu rưỡi.
Được “lộc”, lẽ ra nó phải
mừng, vậy mà lòng cứ nặng trĩu…
Chín rưỡi tối, hết giờ bán
hàng. Nó khóa cửa hàng ra về với triệu rưỡi trong túi và núi rưỡi đá tảng trong
lòng. Từng giọt mưa lạnh buốt cứ đều đều bay vào mặt nó. Dự báo thời tiết bảo
hôm nay ấm hơn hôm qua, sao nó lại thấy rất lạnh…?
Về nhà, tắm rửa sạch sẽ, trùm
chăn bông, nằm mãi nó vẫn không sao ngủ được. Mưa vẫn rơi ngoài cửa sổ. Từng
giọt mưa cứ lách tách rơi xuống mặt đất, rơi thẳng vào lòng nó…tố cáo nó…
Trong ánh đèn ngủ vàng
vàng mờ mờ, ba tờ Năm trăm hiện lên thật rõ nét, rõ như cái cảm giác trần
truồng của tâm hồn nó…Nó chợt thấy mình bẩn thỉu, một sự “bẩn” không liên quan
gì đến việc tắm rửa vừa rồi của nó.
Số điện thoại của khách
đây, anh nhờ nó đến giao quà tận nhà cho con gái của bạn anh. Nó lấy số của anh
để hỏi đường. Nó làm ca chiều, sáng mai rảnh nó sẽ đi giao quà cho cô bé ấy.
Đó là một cô bé rất xinh
xắn, nhưng bị mù. Bé vô cùng vui sướng khi nhận được quà, mặc dù em không thể
nhìn thấy những bộ đồ đó đẹp xấu thế nào. Bé cứ hồn nhiên hỏi về chúng khi mở
quà. Bé coi nó như một Thiên thần đem niềm vui đến cho các em bé ngoan. Và,
thật bất ngờ, bé nhắm mắt chắp tay cầu nguyện ngay trước mặt nó:
- Lạy Chúa Hài Đồng, con
ngợi khen Tình Yêu của Chúa đã sai Thiên sứ đến tặng quà cho con. Con rất hạnh
phúc…Con cầu nguyện cho nhiều bạn nhỏ cũng được Thiên sứ tặng quà như con, để
các bạn ấy cũng được vui vẻ hạnh phúc… Amen. ”
Lời cầu nguyện hồn nhiên
ấy, gương mặt thánh thiện ấy, như hồi chuông dồn dập vang lên trong lòng nó.
Phải khó khăn lắm nó mới về được trước sự nồng nhiệt đáng yêu của cô bé. Đi
giữa phố phường quen thuộc mà lòng nó cứ thấy lạ lẫm. Bao giằng xé cứ thi nhau
co kéo… Nó lấy điện thoại, gọi cho anh khách…
Chiều. Bầu trời sáng bừng
trong ánh nắng dìu dịu của mùa đông. Nó đang lau dọn cửa hàng thì anh khách hôm
qua đến.
- Em gọi anh đến có gì
trục trặc về gói hàng hôm qua à? Chắc anh đưa thiếu tiền…?
- Dạ không…Nó ấp úng. Lấy
một hơi thật dài, nó ngập ngừng:
- Em xin lỗi hôm qua tính
tiền sai cho anh, số hàng anh mua không hết nhiều tiền đến thế…Tiền của anh
đây…
Nó trả anh Năm trăm nghìn,
không dám nhìn thẳng vào mắt anh…
- Ừm. . Vậy à…? Anh chưa
cầm tiền vội mà nhìn nó với một ánh mắt lạ lẫm.
- Cảm ơn em nhé…!
Anh nhận lại tiền rồi ra
đi với một thái độ tế nhị và hiểu biết xen lẫn sự cảm phục. Còn nó, lặng lẽ vào
sổ những sản phẩm nó đã giấu đi, may mà vẫn còn mác kí hiệu mã hàng. Trả nốt
Một triệu cho cửa hàng, nó thở phào nhẹ nhõm.
Thế là xong, tạm biệt
Triệu rưỡi, nó trở lại với nỗi lo lắng cũ. Tiền đâu mổ mắt cho mẹ đây? Nó có
đần không, khi bỏ qua cơ hội ấy…? Cứ lo cho mẹ xong, tổng kết lại tội rồi đi
xưng tội một thể, Chúa vẫn tha thứ cơ mà! Nhưng không ổn, mẹ mà biết sẽ rất xấu
hổ vì nó. Mọi người mà biết nó sẽ rất xấu hổ với mọi người. Còn nó thì biết bao
giờ mới tìm lại được sự bình an? Chẳng lẽ sự thanh thản của tâm hồn nó chỉ đáng
giá có Một triệu rưỡi thôi sao? Thôi sao…
Nó cứ miên man với những
suy nghĩ không lối thoát. Lòng đau thắt từng cơn khi nghĩ đến cảnh một ngày nào
đó dắt mẹ đi dạo mà cứ phải vận dụng hết khả năng ngôn từ để miêu tả cảnh vật
cho mẹ, nếu mẹ nó không còn nhìn thấy nữa…, nếu không có tiền mổ mắt… Tiền! Lại
tiền…! Nó vẫn hơi hơi tiếc cái khoản tiền Triệu rưỡi ấy.
Phó thác cho Chúa thật ra
không dễ tí nào. Vì cuộc sống luôn có những hoàn cảnh khiến đức tin ta phải
chọn lựa. Mỗi lần chọn Chúa, trái tim ta lại đau đớn như roi đòn mà Chúa Giê-
su phải chịu trong cuộc khổ nạn. Cuộc khổ nạn ấy… Chúa đau đớn hơn ngàn lần
những gì ta có thể hiểu được. Thôi, cố lên! “Hãy ký thác đường đời cho Chúa,
chính người sẽ ra tay” , nó nhẩm đi nhẩm lại câu Thánh vịnh mà nó rất thích.
Lại mưa…
Chiều qua khô ráo được một
chút mà giờ trời đã vội vàng mưa tiếp. Mưa như muốn làm nhũn ra những tảng bê-
tông cứng cỏi trong các công trình mà con người xây cất. Nó vẫn
ngồi bán hàng một mình. Một mình với cơn mưa giá lạnh… Một mình với
một niềm hy vọng mong manh mà thanh thản đến lạ kỳ…
Mã số: 14-093
CƠ HỘI HẠNH PHÚC
Cuộc sống như một cái vòng
lẩn quẩn, và chính chúng ta nằm trong cái vòng lẩn quẩn ấy…Hơ. . hơ. . Chúa ơi!
Sao Chúa lại bỏ con trong đó mà chính con không có lối thoát, đó là những câu
tôi hay rên rỉ mỗi khi có chuyện buồn.
- Bé! Cái con lạ nhỉ? Chỉ
biết rên rỉ .
Giọng ba tôi cười thản
nhiên rồi nói nhẹ hẳn đi.
- Con đừng buồn, hạnh
phúc ở ngay gần chúng ta, chúng ta có rất nhiều cơ hội để hạnh phúc, nhưng làm
sao để tìm thấy hạnh phúc vĩnh cửu thì do ở mỗi người thôi. Con à! Ngài đang
thử thách chúng ta đấy. Ngài trao cho chúng ta mỗi người một cây thánh giá, và
chính cây thánh giá đó mới làm cho chúng ta trổ sinh hoa trái và hạnh phúc bên
Ngài muôn đời được.
- Hùm…! tôi thở dài, “ủa!
Sao lạ vậy ba?” con không hiểu.
- Hi…hi. . đợi con lớn
thêm một chút nữa, ba cho con đi học giáo lý thì con sẽ yêu Chúa nhiều hơn và
con sẽ hiểu được ý Ngài ngay thôi mà.
Lúc ấy, thật sự tôi còn
rất nhỏ độ ba, bốn. . tuổi gì ấy. Nhưng mỗi lúc buồn, tôi lại nhớ đến cái câu
nói của ba, giọng nói chậm, gương mặt nở nụ cười hiền hậu, lại có cái răng rụng
mé bên, nhìn cứ nhí nhảnh làm sao í, nhưng ở ba lúc nào cũng làm cho người khác
có cảm giác an toàn. Chính người ba ấy đã làm cho tôi ngày càng gần Anh Hai
GieSu hơn, tin tưởng vào Anh hơn.
Cái ngày ở huyện Phù Cát
mất trộm chó, cũng chính là ngày nghề nghiệp của ba tôi gặp trục trặc.
- “Ai bán chó mua, mèo chó
bán mua…”. Giọng ba tôi rao to , vang xa. ”Ai bán…” Vừa mới ngập ngừng hạ
giọng. Hai thằng thanh niên nhào ra, vẻ mặt nhênh nháo. trạc tuổi hai mươi, rồi
xổng xểnh nói.
- “Ê cái thằng trộm chó
kia ! mầy đừng làm bộ làm tịch nữa, vừa ăn cắp vừa la làng hả mầy? Thằng này
láo. . ”
Vẻ mặt ba tôi buồn, cúi
gập xuống đất, rồi rẽ sang đường khác mà đi.
Tôi biết chuyện này qua
lời kể của mẹ tôi thôi, nhưng cái tính lắc xắc,
tò mò của tuổi tôi lúc ấy đâu có chịu dừng. Lúc nào cũng muốn biết “Vì
sao? Vì sao. . ? Ba lại không cho bọn chúng một trận ra trò?”Vẻ mặt đăm chiêu,
tôi chạy thẳng tới chỗ ba tôi:
- Ba! Mấy cái người hôm
bữa, sao ba không chửi, còn nhỏ mà sao lại vô lễ như vậy được?
- Con à! Ba có nói thì
cũng không được gì, người ta cũng có chịu tin đâu, vả lại cũng không bằng
chứng. Chẳng lẽ bài hát thường ngày con quên rồi sao. ”Một thương vui sống phúc
âm. . , hai thương…” Ủa? mà con quên rồi hả?
- Dạ! con quên rồi. Nhưng
thật sự trong lòng tôi lại nhớ rất rõ cái bài hát quen thuộc ba dạy tôi từng
chữ, từng nhịp ấy làm sao tôi quên được.
- Sao ba lại tin tưởng như
vậy? Vẻ mặt ba ngạc nhiên nhìn tôi.
- Sao con?
- Ý con nói Thiên Chúa của
chúng ta đó?
- Con gái của ba lớn rồi
nhỉ, con hiểu chuyện hơn rồi đó ta?
- Không! Con hỏi thiệt mà.
- Thật ra, hồi ấy ba rất
ham chơi, bị bà Nội đánh sưng cái mông ba lúc đó. Ôi! Cái mông của ba. . Mặt ba
tôi pha hề, làm tôi cười khì thành tiếng. . ôi! ba có lúc lại dễ thương thế
nhỉ?
- Rồi mặt ba tôi lại trở
nên đăm chiêu, khóe mắt cay, nhìn về một chân trời xa xăm như nghĩ về một điều
gì đó, cái vẻ mặt ấy tôi không bao giờ quên được.
- Ngày ông Nội con mất
sớm, cũng chính là lúc bà Nội con dần kiệt sức đi vì thương chồng lại chăm sóc
một lũ con nhỏ. Tính ba thì ham chơi, có chịu suy nghĩ gì đâu? Lại đua đòi theo
bạn bè, chơi hết mình để tỏ vẻ đàn ông.
- Lúc ấy, mọi thứ bà Nội
nói, khuyên nhủ ba đều cảm thấy bực mình.
- Thành! Sao con nghỉ lễ
Chủ Nhật vậy? Con có biết ngày này quan trọng sao không?
- Mệt mẹ quá! Cuộc đời con
không phải của mẹ, mẹ đừng càm ràm nữa, chát cái lỗ tai
- Một là con nghe lời mẹ:
chăm ngoan đi học, siêng năng đi lễ, học giáo lý. Hai là con bước ra khỏi cái
nhà này. Không do dự ba đã nói ngay.
- Dạ, con đi. Mẹ tưởng con
không dám làm à!
Thế là ba đã chạy bỏ đi
con à. Giọng bà Nội con lúc ấy kêu ba, giờ nghĩ lại nghe mà nhói lòng.
- Thành! Thành! . . .
- Rồi sau đó sao ba!
- Ba đi ngoài đường, lang
thang tìm đến nhà bạn bè, ai cũng tỏ vẻ thương ba, nhưng lại từ chối cho ba tá
túc. Đi làm thì bị ngược đãi. Chúa không bỏ ba, Ngài cho ba gặp bác sĩ cứu chữa
đời ba, đó chính là cha Sanh, cha quản xứ nhà thờ Phù Cát lúc bấy giờ.
- Thành ơi ! Con hãy quay
về nhà. Tất cả những lỗi lầm của con, ngoại trừ Thiên Chúa ra thì chỉ có một
người tha thứ cho con, đó chính là mẹ con, người mẹ ban ngày đi làm nuôi em
con, ban đêm đứng ngoài cửa đợi con quay về Thành à! .
Bạn bè có thể nuôi con
một, hai ngày được, nhưng có thể nuôi con tháng này sang năm nọ được không? Lúc
con đau yếu, chỉ có mẹ mới bên cạnh chăm sóc con thôi. Quay về đi con! .
Chính bà Nội con, đã cho
ba hiểu thế nào là con Chúa, thế nào là tình yêu. Bà Nội đã ôm ba vào lòng, bà
bị bệnh nặng chỉ vì nhớ thương ba. Chỉ chút nữa thôi, thì ba sẽ hối hận cả
những bước đường sau này, nếu ba không trở về.
Con đừng bao giờ làm
chuyện gì để rồi phải hối hận, Ngài sẽ không bao giờ bỏ con, khi còn sống ta có
rất nhiều cơ hội để yêu và hạnh phúc bên Ngài. Tại sao ta không biết tận dụng?.
Mới đấy, cứ nghĩ là chuyện
của hôm qua, giật mình nghĩ lại đã hai mươi năm trôi qua rồi. Buổi chiều dần
buông, một làn gió nhẹ khiến tôi đủ để cảm nhận cái lạnh của mùa mưa nắng thất
thường này. Như ba tôi, yêu Ngài không lý do. Càng gần lại càng có cảm giác lân
lân hạnh phúc bên Ngài.
Đối với mỗi người chúng ta
hạnh phúc là cái gì nhỏ nhoi trong cuộc sống nhưng có thể làm người ta cười và
vui vẻ mỗi khi làm và nghĩ đến nó, có người hạnh phúc khi ta yêu thương và được
yêu thương, cũng có người hạnh phúc khi trao nhau lời chúc vào mỗi buổi sáng. Nhưng
cũng có người không bao giờ tìm thấy hạnh phúc trong cuộc sống này. Còn bạn thì
sao? Đừng chần chừ bạn nhé, hãy tận dụng cơ hội để được hạnh phúc thiêng liêng
cao quý nhất là hạnh phúc bên Ngài mãi mãi.
Cũng giống như trên bàn cờ
tướng. Ngài là tướng, ta là quân tốp. Ngài đã dọn sẵn đường cho chúng ta đi,
con đường hạnh phúc, tốp thì đừng đi lạc hướng nha bạn nhé!
Mã số: 14-097
ĐỨA CON CỦA CHÚA
Trời đã về chiều, mặt trời
dần khuất sau bức tường cao ở xa xa, nhưng những tia nắng yếu ớt vẫn cố nén lại
để chiếu sáng căn phòng giam chật chội và ẩm thấp. Anh ngồi đó, u uẩn, suy nghĩ
về quảng đời ngắn ngủi của mình, ngắn thật, bởi anh mới tròn 29 tuổi.
Ngày anh bị tuyên án tử
hình, anh quỵ xuống nền gạch, gục đầu đau đớn mà không khóc thành tiếng. Anh
không ngờ cuộc đời của mình lại kết thúc như vậy. Khi bị áp giải ra xe, anh rảo
mắt nhìn quanh như cố tìm một sự an ủi từ người thân nhưng đều thấy xa lạ bởi
anh chẳng còn ai là người thân cả, chẳng ai đồng cảm thấu hiểu cho số phận của
anh. Có chăng là vui mừng với bản án anh phải chịu, vì có lẽ nếu anh còn sống
thì sẽ có nhiều tội ác nữa xảy ra. Đúng, anh đáng chết nhưng họ không thể cho
anh cái nhìn khoan dung được sao? Anh thầm khóc thương cho số phận bạc bẽo của
mình. Anh muốn hét thật lớn để quên đi tất cả, quên đi những khổ nhục ê chề mà
anh phải chịu trong suốt thời thơ ấu, quên đi những lần bị đánh đập nhừ tử,
quên đi những ánh mắt khinh dễ của mọi người, quên nỗi xấu hổ vì thiếu ba, … và
anh hận người đã sinh ra anh rồi lại bỏ anh bơ vơ. Anh nín lặng, cúi gầm mặt
xuống, kéo lê xèng xẹc từng bước với sợi xích ở chân, nghe thật chua xót.
Ngồi bệt dưới nền nhìn bầy
kiến cố sức tha một con sâu róm đang ngo ngoe dưới ánh sáng le lói của nắng
chiều. Con sâu gợi anh liên tưởng đến phận mình, anh sợ hãi khi nghĩ đến điều
đó. Mấy câu hỏi vớ vẩn cứ xuất hiện trong đầu anh. Tiếng la hét điên loạn vang
vọng của một tử tù nào đó phá tan bầu không khí yên tĩnh.
“Thằng quỷ này! Dám làm
thì dám chịu chứ, khóc chó gì nữa”. Anh buột miệng nói vậy chứ trong thâm tâm
anh cũng muốn khóc, muốn điên lên khi biết ít hôm nữa là đến lượt mình.
Mặt trời vừa khuất bóng
thì thay vào đó là ánh sáng leo nheo của bóng đèn điện trên nóc phòng giam. Ánh
sáng của nó thật dễ ghét, sáng cũng không sáng mà tối cũng không tối, nó như
muốn anh nhớ lại những tội ác mình đã gây ra.
“ Ăn cơm, tới giờ rồi! ”
tiếng nói của viên cai tù vang lên ngoài cửa thì tô cơm cũng theo đó được đưa
vào cái khoảng trống nho nhỏ trên cánh cửa phòng giam.
“Vậy là vẫn còn có người
nhớ tới mình”. Anh nói mà lòng cảm thấy được an ủi phần nào.
Mấy ngày qua anh không nhớ
mình đã ăn gì, cứ nghĩ đến số phận đã được định đoạt là anh không còn cảm nhận
được sự gì đang diễn ra nữa nhưng giờ anh cảm thấy đói thực sự. Anh với tay cầm
tô cơm lên trước mặt, những vết sẹo lồi lõm hằn ngang dọc trên đôi tay sần sùi,
một vài vết trầy xước vẫn còn rỉ máu nhưng anh không thấy đau. Anh nâng niu
nhìn tô cơm được xới đầy ắp, bất chợt anh thấy ngờ ngợ, cái cảm giác này hình
như. . . . “À! ” anh cất lên một tiếng rồi kéo ngân ra như vừa nhận ra điều gì
đó. Anh nhớ có lần mẹ anh đã từng xới cho anh tô cơm đầy như thế vào ngày anh
được đến trường. Một thằng bé ngây ngô không biết mọi thứ nhục nhã đang chờ
mình ở trường, nó nghĩ nó sẽ có nhiều bạn và thầy cô yêu thương như lời mẹ nó
kể. Nó được đám bạn gọi là Tội, cái tên này có lẽ xuất hiện vào ngày đầu tiên
đến lớp vì trông cái điệu bộ rụt rè, quê mùa của nó khiến cho cả lớp cười phá
lên. Mặt mày nó đen thui, đã thế còn mặc cái áo như của ba nó, rộng thùng
thình, lại ố vàng. Dù lớn hơn mấy tuổi nhưng nó bị suy dinh dưỡng còi cọc, toàn
da bọc xương. Nó tủi thân vì bạn bè gọi nó thế, nó cũng giận và thầm trách mẹ
nó đã không sắm cho nó cái áo mới mà lại xin cái áo cũ của con nhà bà Bảy, nơi
mẹ nó thường đến lau dọn. Nó biết mình nghèo và quen dần sự miệt thị, khinh dễ
của bạn bè, nhưng điều làm nóxấu hổ hơn cả là nó không có ba. Nó sống với mẹ
trong một cái chòi tranh gần bờ sông cuối làng. Ngày nào nó cũng theo mẹ ra chợ
phụ lau chùi các sạp bán thịt cá của người ta, ai sai gì thì làm nấy, nó chạy
loay hoay khắp chợ, ai cho gì thì cứ thế cho vào miệng. Nhưng nơi nó thích đến
nhất là nhà thờ vì ở đó có ông mà nó gọi là cha, cha thường cho nó kẹo bánh và
quan tâm nó. Nó thường đến đó với mẹ vào sáng Chủ nhật để dự lễ. Chủ nhật nào
nó cũng đi dù rất xa, lễ xong là mẹ nó phải về liền để kịp ra chợ nên nó chẳng
biết đến lớp giáo lý là gì. Cái tuổi thơ êm đềm, vui vẻ đó kéo dài đến năm nó
bước vào lớp bảy, mẹ nó đi bước nữa với
bác Hai kéo xe ở chợ. Nó mừng thầm trong lòng vì từ nay đã có ba và tự hứa sẽ
cố gắng học tập, vâng lời và yêu quý ba như yêu mẹ vậy.
Mẹ nó nghèo, ba nó cũng
không có gì ngoài chiếc xe kéo, thôi thì rổ rá cạp chung vậy. Sống chung không
lâu, nó mới biết ba yêu rượu hơn yêu mẹ và nó, mỗi lần say rượi là mỗi lần đánh
đập mẹ và chửi mắng. Cũng vì mẹ không chịu theo ý ba đòi nó nghĩ học để phụ kéo
xe, mà mẹ bị đánh phải nằm bệnh viện mấy ngày liền, trận đó nó cũng bị gãy tay
vì đỡ một đòn cho mẹ nó. Đầu năm lớp 9 cũng là lúc mẹ nó để nó lại một mình với
ba vì căn bệnh suy thận quái ác. Trước khi chết mẹ nó không quên trối lại cho
nó đủ điều nhưng nó chẳng nghe được gì ngoài việc ôm chầm lấy mẹ mà khóc. Mẹ nó
chết, nó cũng trở nên lầm lỳ, ai hỏi han gì nó cũng chẳng nói, nó chỉ khóc rồi
chạy vụt một lèo ra tận bờ suối và ngồi luôn ở đó cả buổi. Nó vừa thương vừa
giận mẹ nó vì đến lúc chết mà cũng không nói cho nó biết về ba đẻ của nó. Nó
không hiểu tạ sao mỗi lần nó hỏi về ba là mẹ nó lại giận sôi lên, gạt phắt
ngay.
Thời gian cũng dần mang
theo nỗi đau mất mẹ, nó quay trở lại cuộc sống thường ngày. Sáng ra chợ kiếm
tiền, đến trưa ăn vội chén cơm rồi đi học, thế mà lực học của nó vẫn thuộc vào
top 10 của lớp.
Cuối năm đó, việc kéo xe
trở nên khó khăn hơn vì có thêm vài người làm nghề này. Ba nó đòi nó nghỉ học
với lý do không đủ tiền trang trải điện nước sinh hoạt, khi nào có tiền rồi đi
học tiếp. Ban đầu nó không chịu nhưng sau ba nó làm gắt quá nên nó phải nghe
theo.
Mới mấy tháng bươn trải mà
nó đã thay đổi hẳn, ba nó thường kéo nó vào những cuộc cải vã, đánh lộn của ba.
Lời nó bắt đầu có thêm những từ lạ lạ, tục tĩu mà nó chẳng hay biết. Bình
thường ba nó cũng đối xử tốt với nó, nhưng khi say rượu hay có chuyện gì bực
mình lại trút lên đầu nó, đánh đập nó.
Cuộc đời nó rẽ sang hướng
khác vào một sáng Chúa nhật đầu mùa hè, mới sáng sớm mà trời đã nóng nực dễ
khiến người khác bực mình, sau khi tham dự thánh lễ là nó vội vàng chạy ra chợ.
Tới nơi, nó đã thấy ba nó đang cãi lộn gay gắt với mấy ông chở cá nhưng có lẽ
thấy mình yếu thế nên ba đành ấm ức trở về xe. Nó chưa kịp hiểu chuyện gì thì
ba nó tiến đến gần cầm dép đánh túi bụi vào mặt nó. Bị đánh bất ngờ nên nó
không kịp trở tay, vừa đau vừa nhục trước mặt mọi người, đây không phải lần đầu
bị đánh như vậy nhưng đánh trước mặt mọi người kiểu như vậy thì trước đây chưa
từng. Tiếng mọi người xung quanh bàn tán, một vài người chạy vội đến can ngăn
ba nó, một vài lời hỏi han nhưng nó không biết họ đang hỏi gì, tai nó ù đi, nó
như muốn chui xuống đất ngay lúc đó. Dường như sự nhẫn nhục của nó đã tới mức
có thể, trong cơn quẫn trí, nó với lấy khúc gỗ để chèn hàng trên xe kéo nhảy
thẳng vào ba giáng một đòn chí mạng vào đầu khiến ba nó gục ngay xuống đất. Thả
khúc gỗ xuống đất, nó sợ hãi lao đầu chạy, cắm cúi chạy về hướng cánh rừng, để
lại đằng sau những tiếng la hét, í ới.
“Ăn đi, sắp hết giờ ăn rùi! ” tiếng viên quản
tù làm anh giật cả mình.
“Chậc, cái thứ khốn nạn,
dám làm ông mất mặt, cho mày chết” Vừa nói anh vừa nhếch mép khinh dễ. Nhìn tô
cơm, ngắm nghía hồi lâu, anh lại đờ người ra… Dòng ký ức lại ùa về trong tâm
trí anh như để tiếp tục những gì đang dang dở.
Sau gần một đêm chạy bạt
mạng, cơn khát khiết anh mờ cả mắt, môi và cổ họng khô rang khô róc như đất
ruộng mùa hạn. May mắn thay, anh gặp một nhóm người đang ngồi sưởi quanh đống
lửa trước mặt. Như cá gặp nước, anh dồn chút sức lực yếu ớt chạy đến để xin ít
nước uống. Vừa thấy anh chạy đến, cả nhóm đứng bật dậy trên tay lăm lăm con
dao. Sau một hồi đề phòng kiểm tra và thấy bộ dạng tả tơi của anh, họ mới để
yên. Chiếc áo sơ mi sờn cũ anh mặc trông tệ hơn miếng giẻ lau nhà, rách từng
mảng để lộ những vết xước còn rỉ máu bởi các nhánh cây rừng, gương mặt phờ phạc
không còn sức sống. Cuối cùng, anh được họ cưu mang cho đi theo để khuân vác
hàng.
Từ đây, anh bắt đầu biết
thế nào là tội ác, thế nào là tranh giành lãnh thổ và sức mạnh của đồng tiền.
Với sự khôn khéo vốn có cộng một chút tinh ranh, anh sớm trở thành một kẻ có
tiếng nói trong băng nhóm và trở thành anh cả không lâu sau đó. Hoàn cảnh sống
khiến anh quên lãng những gì mà mẹ anh và cha nhà thờ thường khuyên dạy. Anh lao
vào cuộc sống hỗn độn như con thiêu thân. Tuy dáng người nhỏ nhắn và tuổi đời
chỉ đáng con cháu các anh chị nhưng, anh đã nổi tiếng là “chịu chơi” và có máu
lạnh. Anh được mọi người trong giới “hàng trắng” gọi là Cóc “cụt” vì anh bị cụt
mất ba ngón tay trong một lần tranh giành địa bàn với nhóm Tâm “hắc”. Cũng vì
thế mà anh thường xử với những ai dám “qua mặt” mình với cách thức tương tự.
“Đặt tô lên kệ, hết giờ ăn
rồi! ”. Viên quản trại hét lớn vào phòng khiến anh giật mình rơi tô cơm úp
ngược xuống nền. Theo phản xạ, anh nhặt vội cái tô, rồi như một đứa trẻ, anh
quơ tay bốc cơm cho vào miệng vì tiếc nuối điều gì đó. Anh không biết vì sao
mình lại làm như thế, càng ăn nước mắt anh lại càng trào ra. Tự dưng anh nghĩ
về mẹ, nghĩ về những bữa cơm được cùng ăn với mẹ sau một ngày vùi thân giữa
chợ. Bây giờ anh chỉ ước ao được gặp và cùng ngồi ăn với mẹ. Anh ngồi bệt dưới
nền khóc nức nở như muốn vơi đi nỗi nhớ và những khổ cực mà mẹ anh phải chịu.
Anh thương mẹ cả đời phải quần quật làm lụng, chắt chiu từng đồng để cho anh đỡ
tủi với bạn bè. Anh thấy mình vô tâm và bất hiếu với mẹ quá, nhiều lần thấy mẹ
bỏ bữa vì mệt, thâm quầng cả mắt nằm li bì trên giường, vậy mà anh tin lời mẹ
nói là chỉ muốn ngủ thêm, tay chân mẹ sưng phù lên vì suy thận thì tin mẹ là bị
dị ứng.
Đêm về khuya, không khí
trong phòng như loãng ra khiến anh cảm thấy lạnh hơn. Thoảng cơn gió nhẹ thổi
qua ô song sắt nhỏ cuối phòng, tạt vào má làm anh tê tái. Anh vẫn ngồi bệt trên
nền gạch. Bên ngoài, trăng đã lên cao sáng vằng vặc từ hồi nào. Ánh trăng dọi
qua ô song sắt hắt bóng xuống nền tạo nên một luồng ánh sáng huyền ảo. Trong
ánh sáng đó, anh thấy gương mặt hốc hác, dáng đi loắt thoắt vội vã của mẹ, anh
thấy rõ đôi bàn tay nhăn nheo, bạc chợt vì cả ngày phải dầm nước lau chà sạp
cá, sạp thịt. Anh nhớ những lần đi đến nhà thờ cùng mẹ, nhớ những lần được cha
nhà thờ hỏi thăm, động viên. Chính ánh mắt nhân từ và cử chỉ yêu thương của cha đã không ít lần
giúp anh lạc quan hơn để sống.
“Ồ, lâu rồi chưa gặp lại
cha”. Anh thốt lên khi nhớ đến cha, ngưng một quảng, anh lại hằn một tiếng rồi
tiếp: “cũng không đi lễ cầu nguyện cho mẹ, tệ quá! ”. Lâu rồi anh không rước
Chúa, không xưng tội, có lẽ từ lúc anh bỏ nhà ra đi.
“Đúng là lâu quá rồi! ”.
Anh nói như khẳng định. Mẹ anh thường nói về Chúa cho anh nghe trên quảng đường
đến nhà thờ. Hiểu hoàn cảnh của anh nên cha đã tạo điều kiện để dạy thêm vài
điểm giáo lý và cho anh xưng tội rước lễ lần đầu như các bạn cùng trang lứa.
Bây giờ ngẫm nghĩ lại, anh mới thấy đó là lần anh hạnh phúc nhất, không ai chì
chiết, không ai khinh chê, ai cũng vui cười chào nhau. Ở đó, họ không nhìn anh
như những nơi khác.
“Nhà Chúa phải khác chứ,
đúng rồi! ” Anh ngẫm nghĩ thế và tự thưởng cho mình một nụ cười. Tự dưng anh
nghĩ đến Chúa, chỉ có Chúa mới yêu thương anh. Anh nhớ đến những lời mẹ anh hay
nói cho anh nghe về Chúa: “Chúa luôn yêu thương và tha thứ cho những người tội
lỗi biết sám hối ăn năn”. . . “Dù trên đời này không ai yêu thì Chúa cũng sẽ
yêu con và luôn ở bên con. Khi nào con buồn cứ nói vớiChúa, mẹ tin là Chúa sẽ
giúp con”. Anh không thấy Chúa nhưng anh tin có Chúa. Anh ước bây giờ có thể
đến nhà thờ tham dự thánh lễ, nơi mà một tử tù như anh vẫn được đón tiếp, nơi
đó anh cảm thấy được bình an.
Anh biết hoàn cảnh đã thay
đổi anh, từ một học sinh chăm ngoan, học giỏi, thành một tên tội phạm mang án
tử, nhưng điều đó không còn làm anh bận tâm nữa. Bây giờ,
anh chỉ còn trông chờ vào Chúa, anh muốn trở về với Chúa. Anh thấy như có điều
gì đó thôi thúc anh phải gặp cha để xưng thú tội lỗi. Tiếng gà gáy ở đâu vọng đến
du dương cả căn phòng khiến anh bừng tỉnh hẳn, anh đứng phắt dậy chạy ngay đến
cửa phòng gọi lớn: “Quản trại, quản trại ơi, xin cho tôi gặp cha nhà thờ, tôi
muốn gặp cha nhà thờ, xin giúp tôi”.
Trời cũng tờ mờ sáng,
tiếng gà gáy mỗi lúc một nhiều và dồn dập. Anh không biết Linh mục là gì, trong
ký ức anh, người đó gọi là cha và sống một mình ở nhà thờ, anh quen gọi ngài
như thế để phân biệt với từ “cha nội” mà dân chợ búa thường dùng.
Tiếng kêu la của anh làm
viên quản trại thức giấc, bực mình quát: “Gặp gì giờ này, để người ta ngủ nữa
chứ. Có chi sáng rồi nói, ồn ào quá đi! ”.
“Xin anh giúp tôi, tôi cần
gặp cha nhà thờ, xin giúp tôi” Anh cố nài nỉ đến khàn cả họng mà chẳng có ai
đáp thêm lời nào.
Sáng hôm đó, lời khẩn cầu
của anh được viên quản trại chấp nhận. Một Linh mục gần đó đã đồng ý vào gặp
anh, anh quỳ xuống bên ngài và trãi hết lòng mình với những giọt nước mắt muộn
màng, nhưng chắc chắn là sự thống hối đích thực. Anh được lãnh nhận các bí tích
cuối cùng để can đảm đón nhận bản án của mình ít ngày sau đó. Với anh, đó là
niềm an ủi lớn lao nhất.
Mã số: 14-098
TÌNH CHÚA BAO LA!
Trời về khuya và những
ngôi nhà đã chìm sâu vào giấc ngủ. Có những hạt mưa nhẹ rơi lất phất, như thể
ông trời muốn vắt hết những gì còn sót lại sau trận mưa lớn vừa rồi. Con đường
giờ đây như trở thành một tấm gương lớn, nó phản chiếu lại ánh đèn đường đang
hắt xuống làm cho khu phố sáng rực hơn bao giờ hết. Nhưng có kẻ thích bóng tối
hơn, càng tối càng thuận lợi cho công việc làm ăn của hắn. Đã đúng thời điểm
định sẵn, hắn đang đi tới mục tiêu của nình. Mới thoạt nhìn thì hắn giống như
một ông lão già nua với cái lưng bị gù, nhưng nhìn kỹ khuôn mặt hắn thì lại
không quá ba mươi. Trông hắn xơ xác gầy ốm, trông rất tội nghiệp. Nhưng đâu ai
biết rằng trong lòng hắn đang dự tính một việc làm xấu xa, và hắn rất phấn khởi
mỗi khi nghĩ đến điều ấy. Hắn cúi đầu khi đi ngang qua một quán nhậu đang còn
mở cửa. Chẳng là hôm nay có trận bóng đá Cúp C1 tường thuật vào đêm khuya, nên
các quán bia hơi mở cửa khuya để đón những quý ông đam mê bóng đá. Thấy hắn lầm
lụi đi ngang qua, có kẻ trong quán nhậu quăng một lon bia không về phía hắn và
nói lớn:
- Này ông lão! ông vào đây
lấy mấy lon không về bán, có tiền ăn cơm.
Hắn chửi thầm: “Láo thật,
tụi bây nghĩ tao là đồ ăn xin à”. Mà nếu nghĩ thế cũng đúng, vì trên tay hắn
đang cầm một cái bọc đen, còn quần áo hắn mặc thì cũ kỹ sờn rách, áo khoác đầy
chỗ chấp vá. Nhưng sau khi nghĩ lại một hồi, bổng hắn khoái chí lắm, hắn thầm
thì: “Vậy là ta đã hoá trang thành công, có người kêu ta đến cả chức ông…”,
chưa nói dứt câu hắn khựng lại, người hắn bần thần. Đôi mắt hắn liếc xuống mặt
đường, cùng lúc ấy tiếng lon bia đang lăn phát ra tiếng loảng xoảng. Không gian
như dồn dập thúc ép tâm trí hắn nhớ đến một người, một người mà hắn rất muốn
gặp lại để chỉ thưa hai tiếng yêu thương: “ông ơi! ”
Cái
bóng của hắn đang in trên đường hiện giờ thâm nhập vào tâm tưởng hắn. Hắn nhớ
lại những nụ cười, ánh mắt yêu thương của một ông lão hiền từ dành cho hắn.
Tiếp đến là những ngày tháng hạnh phúc nhất trong đời hắn ùa về. Hắn thấy một
hình ảnh của một căn nhà nghèo nàn, rách nát, nhưng đối với hắn chỉ có nơi đấy
hắn mới cảm thấy mình được sống những ngày hạnh phúc. Trong nhà chỉ có hai ông
cháu nương tựa nhau mà sống. Ông hắn chỉ làm công việc thu lượm và bán ve chai
chỉ đủ sống qua ngày. Nhưng ông cũng muốn cho hắn đi học nên ông cố gắng làm
thêm các việc khác, tuổi đã cao và làm nhiều việc nặng nên lưng ông bị còng
xuống. Hắn không biết vì cớ gì mà hắn
không có cha lẫn mẹ. Có vài lần hắn hỏi ông điều đó và ông chỉ nói: “Con mất
cha mẹ lúc mới sinh ra”. Hắn không hiểu từ “mất” ở đây theo kiểu gì? Ông không
giải thích gì thêm, ông là dạng người không thích nói dối. Đôi khi ông còn hài
hước bế hắn lên mà nói đùa: “Ôi! Cái thứ quý giá nhất mà ta lượm được”.
Lúc rãnh rỗi, ông dạy hắn
nhiều điều hay và ý nghĩa, ông còn dạy hắn làm dấu Thánh Giá, đọc vài kinh Lạy
Cha, Kính Mừng, Sáng Danh. Khi hắn lên mười tuổi, ông thường dẫn hắn đi tham dự
Thánh lễ vào mỗi buổi sáng sớm. Cũng vì thường dậy trước lúc gà gáy, nên hắn chỉ
sốt sắng bắt chước ông đứng quỳ nghiêm trang được vài buổi đầu. Sau đó, hắn
ngồi ngủ gà ngủ gật suốt buổi lễ. Lúc lễ về, ông nói với hắn:
Mỗi lần con ngủ khi đi lễ,
là do con quỷ, nó đè lên mắt con đấy.
Con quỷ là con luôn làm
điều ác, con ghét nó! – hắn nói.
Ừ! Có nhiều lúc ông đi lễ cũng bị con quỷ cám
dỗ, nó đè lên mắt làm ông buồn ngủ. Ông liền vẽ hình thánh giá lên mắt như vậy
nè. - Ông vừa nói vừa dùng ngón tay cái vẽ lên mí mắt hình thánh giá - Như thế,
con quỷ sẽ sợ chạy mất dép. Và ông tỉnh hẳn, mở mắt dự lễ sốt sắng.
Những buổi lễ sau đó, hắn
thử làm như lời ông chỉ, hắn vẽ xong thì thấy tỉnh ngủ hẳn và hắn thấy vui lắm.
Nhưng được vài phút sau thì hắn mắt nhắm mắt mở. Lễ về, hắn mới hỏi ông:
Con làm sai cái gì mà vẫn
còn buồn ngủ vậy ông?
Có lẽ ông nói ra con sẽ
khó hiểu nhưng con còn thiếu niềm tin vào ơn Chúa.
Con thiếu “ niềm. . tin”
gì gì đó hở ông, ông cho con đi - Hắn nài nỉ.
Ông nhìn đứa cháu bé bỏng,
ngây ngô. Ông nghĩ ngợi vài giây rồi nói:
Ông sẽ luôn cầu xin Chúa
giúp sức cho con. Nhưng con nên biết rằng, lúc nào, Chúa luôn giúp con vì Chúa
luôn yêu con. Và con nên biết cảm nhận . . . chỉ đơn giản. . .
Những ký ức dường như bị đứt quãng, hắn cố nặn
óc nhưng chẳng nhớ được câu nói đó của ông. Hình như là “vui…”, “giữ niềm vui…”
gì gì nữa mà hắn không tài nào nhớ ra. Nhưng tiếp đến, hắn nhớ lại cái ngày ra
đi vĩnh viễn của ông hắn, cái ngày mà hắn cảm thấy đau đớn nhất. Cũng vào năm
hắn đang học lớp bốn, ông hắn bị tai nạn, những kẻ say rượu chạy xe máy quá tốc
độ đã đâm vào ông lão yếu ớt. Khi nghe được tin ấy, hắn khóc bù lu bù loa lên
hắn chạy nhanh đến bệnh viện. Hắn đi lại lạch bạch nhìn quanh các phòng bệnh
xem ông đang ở đâu, hắn cứ la “Ông ơi! Ông ơi! ”. Có cô nào đó nắm tay hắn mà
kéo đi. Cô ấy dẫn hắn vào phòng ông hắn đang nằm. Hắn thấy thân mình ông đầy
vết băng bó, tức thì hắn khóc nấc lên chạy đến lay cánh tay gầy nhom của ông mà
hỏi:
- Ông bị sao vậy ông? ông
có bị đau không? Có người nói ông sẽ xa con, phải không ông?
- Nín khóc đi con - ông
mỉn cười và nói - Ông được gặp con là ông vui rồi. Ông có mua bánh cho con nè.
Con mở ra ăn đi, con ăn hết đi. Ông không ăn đâu.
Ông vừa nhét vào tay hắn
một bị bánh mì ngọt. Ông tính đem về làm quà cho hắn nhìn hắn cách vui vẻ mà
không được nữa. Bị bánh đã bị bóp xẹp lép, ông đã giữ nó rất chặt từ lúc mới
mua cho đến giờ vì dường như ông không muốn cho ai lấy bị bánh này ra khỏi tay
ông . Hắn thấy ông cười với mình lại còn cho mình bánh thì thôi khóc mà hút hít
hỏi:
- Vậy là ông không có sao,
phải không ông? Người ta chỉ nói dối thôi. Bánh cho con à, Con ăn hết hở ông.
Hắn mở bịch bánh ra và ăn
ngon lành. Ông cười hạnh phúc và thều thào nói:
- Sau này con phải sống cho thật tốt, yêu
thương hết mọi người. Con sẽ mãi hạnh phúc khi tin vào tình Chúa yêu con. Nên
cho dù ông không còn sống với con nữa, con luôn có Chúa bảo vệ chăm lo cho con.
Con nhớ chưa?
Nghe đến câu “ông không
còn sống nữa”, tim hắn như bị ai nắm lấy mà giật bứt ra khỏi lồng ngực. Nước
mắt hắn trào ra, miệng hắn đầy bánh mếu máo nói không thành tiếng:
- Vậy là sao hả ông, ông
không còn sống nữa sao?
Ông nhìn đứa cháu còn quá
non dại, ông không đành xa hắn chút nào cả. Nghĩ đến đấy thì đôi mắt ông không
ngăn được dòng nước mắt chảy ra, dù ông không muốn khóc trước mặt đứa cháu thân
yêu. Hắn không nghe ông trả lời mà lại khóc nữa. Hắn ôm choàng lấy ông gào lên:
- Ông đừng đi, ông đừng xa
cháu mà.
Ông vuốt tóc hắn mà nói:
- Ngoan nào! Con phải sống
sao cho tốt, học chăm chỉ, yêu thương hết mọi người. Con phải biết rằng ông
hoặc ai cũng vậy, không thể sống và yêu thương con mãi được. Ai rồi cũng sẽ
chết thôi. Nhưng con hãy vui lên vì có Chúa luôn ở bên con đến suốt đời…. - Ông
ho mấy tiếng và gượng nói - Con có thể
nghèo về tiền bạc nhưng con không được nghèo lòng tin yêu vào Chúa và lòng yêu
người. . .
Hắn cứ mãi nức nở khóc,
bất giác hắn trừng mắt lên khi cảm nhận bàn tay ông tuột dần khỏi mái tóc của
hắn. Hắn cảm thấy sợ và lay mạnh cánh tay đang lạnh dần của ông, hắn cảm giác
như bị ai đó vừa giật đi của hắn một điều quý giá mà hắn không biết phải làm cách
nào để có lại. Hắn gào lên cùng những tiếng nấc liên hồi :
- Ông ơi, ông nói gì đi
ông ơi! Ông mở mắt ra đi, ông đừng làm con sợ chớ ông ơi!
Có cô nào đến vỗ vai hắn
và nói:
- Thôi con đừng khóc nữa,
để ông con yên tâm mà nhắm mắt xuôi tay.
Hắn khựng lại như vừa nhớ
ra điều gì. Hắn leo lên giường và dùng ngón tay cái mình mà vẽ hình thánh giá
lên đôi mắt của ông hắn. Hắn vẽ liên hồi, qua lại mấy chục lần, càng vẽ hắn
càng ấm ức hơn. Nhìn hắn như nghẹn gì trong cổ, và hắn bật khóc mà hét lên: “Mở
mắt ra đi ông ơi! Con quỷ, mày cút đi, không được đè mắt ông tao nữa. Chúa ơi!
Chúa làm cho ông con mở mắt ra đi. Chúa ơi! . ” - hắn không cho ai lôi hắn ra,
hắn ôm chặt lấy ông mà gào: “ông ơi! Ông ơi. . . ! ”.
“VÀO”- tiếng hô trong quán
nhậu đã át đi tiếng gào thét trong tâm trí hắn. Hắn đã ngồi bệch xuống lề đường
từ bao giờ. Hắn lấy hai ngón tay ấn chặt vào đôi mắt hình như muốn ngăn cản hai
dòng nước mắt cứ chảy ra. “Và có một cô ngoại đạo nhận nuôi hắn. Mẹ nuôi rất
thương hắn nhưng bố nuôi thì ngược lại”- những dòng ký ức tiếp theo của cuộc
đời cứ dắt tay nhau đi tâm trí hắn, dù hắn không muốn- “ Vài năm sau mẹ nuôi
chết vì ung thư. Bố nuôi nguyền rủa hắn là “đồ gây họa”. Ông đánh đập hắn, bắt
hắn làm việc cực nhọc. Bán vé số” - hắn lắc đầu như muốn xua đi điều ấy - “Ở
vậy không chịu được, hắn đi theo bạn xấu, hắn vào băng nhóm giang hồ. Trộm
cướp. Đánh nhau. Vào tù. Ra tù. Nghèo nàn, rồi trộm cướp” - hắn càng lắc đầu
lịa lìa hơn. Hắn đấm mạnh vào bức tường như muốn phá tan những đau thương ấy.
Hắn nhìn lại cái bọc của mình và tưởng tượng ra trong đó toàn là vàng bạc. Hắn
nghĩ tới một tương lai tươi hắn hơn. Và Hắn cất tiếng cười quái ác và bước đi.
Hành động! Hắn bịt mặt
lại. Bẻ khóa cửa. Hắn nói với Camera đang quay hắn: “Có giỏi thì nhận ra tao
nữa đi. Ha ha”. Hắn mở khóa tủ và lấy hết nữ trang bỏ vào túi. Nhìn quanh, hắn
thấy có một cây thánh giá láng loáng. Hắn nhảy lên với lấy, vô tình hắn đụng
phải bình hoa rơi xuống nền, phát ra một tiếng thật lớn. Có tiếng bước chân
chạy trên lầu. Hắn vội vàng quơ lấy cái bọc và chạy nhanh ra cửa trên tay vẫn
còn giữ cây thánh giá. Xui thay, có một chiếc xe hình sự đang chạy tới, trên xe
có bốn cảnh sát đang bắt giữ những tay nhậu say, mặt mày toàn máu me. Tiệm vàng
sáng đèn và có tiếng hét ra: “có cướp! có cướp! đồ ăn cướp! đồ giết người! ”.
Xe hình sự dừng lại ngay, và hai cảnh sát nhảy ra khỏi xe rượt theo kẻ bịt mặt
đang trốn chạy. Hắn đã thông thuộc địa bàn nơi đây, hắn nhanh chân lách vào một
cái hẻm, bỏ lại đằng sau mình tiếng hét “ Đứng lại! ” và phát súng chỉ thiên. Hắn
chạy luồn qua hẻm này lách qua hẻm kia và nhắm đường thoát của mình là con
sông. Các cảnh sát vẫn bám theo sau lần này là những phát súng nhắm vào chân
hắn. Hắn đành vứt lại bao vàng bạc để chạy nhanh hơn may ra mới thoát. Con sông
chỉ còn cách hắn vài mét thì một cảnh sát trẻ nhanh chân chạy từ hướng bên trái
hắn nhắm tới: “Đứng yên”. Hắn nhún chân nhảy xuống sông, một tiếng súng vang
lên, hắn cảm thấy ngực trái mình bị chấn động mạnh. Nhưng hắn cố hết sức bình
sinh lộn nhảy vòng và ngụp xuống dòng sông đục ngầu. Hắn còn nghe vài tiếng hét
vang vẳng: “Nó đâu rồi. Chia ra tìm mau. Hắn trốn đâu mất rồi. Chết tiệt! . . .
”
Ở một khúc sông tối, Hắn
lê lết thân mình đè lên đám cỏ mọc ven sông. Hắn nằm ngửa ra đó và nhìn lên bầu
trời đen ngòm. Hắn nghĩ mình đã thoát mạng nhưng tim hắn giờ vẫn còn đập mạnh
vì sợ. Hắn rờ tay lên ngực, móc trong túi ra vật gì đó. Vật này đã cản dùm hắn
viên đạn chí mạng lúc nãy, hắn nói thầm: “ thì là cây Thánh giá hồi nãy”. Hắn
không nhớ ra mình đã bỏ cây thánh giá vào túi lúc nào. “May mắn ư?” hắn tự hỏi
hay hắn đang hỏi với cây thánh giá đang giơ trước mặt.
Bất thần, lòng hắn trổi
dậy một cảm giác, “Cảm giác này là sao?” hắn hỏi. Hắn đặt cây thánh giá lên
ngực, tim hắn đập rộn ràng trong dòng cảm xúc ấy. “Đúng rồi! ”, mặt hắn rạng
rỡ, từng đợt ký ức lại trổi về trong tâm trí hắn, “cảm giác này là lúc mình
được sống chung với ông”.
Từng lời của ông hắn khi
xưa hiện ra cách rõ ràng mà đôi lúc hắn cố nhớ lại mà không được: “Ông sẽ luôn
cầu xin Chúa giúp sức cho con. Nhưng con nên biết rằng, lúc nào, Chúa luôn giúp
con vì Chúa luôn yêu con. Và con nên biết cảm nhận tình yêu của Chúa qua mọi
người, qua những điều tốt trong đời sống, đôi khi chỉ đơn giản thôi. Như khi
con vẽ dấu thánh giá lên mắt và con thấy mình tỉnh ngủ. Lúc ấy con có cảm thấy
Chúa đang giúp mình không? và con có vui vì điều đó không? Nhưng vì con không biết giữ niềm vui ấy nên
con lại bị buồn ngủ. Nên, mỗi ngày, con phải luôn thấy tình yêu Chúa và tin vào
điều đó, và tình yêu Chúa đôi khi rất dễ thấy”. Hắn hiểu ra tất cả những lời
dặn dò đó, mắt hắn ngấn lệ như đứa trẻ đi lạc nay được gặp lại mẹ mình. Hắn
thưa “Chúa ơi! Chúa đã quá yêu con, Chúa luôn giúp con dù con đáng tội”. Bỗng
có tiếng chuông nhà thờ vang lên, hắn cảm thấy âm thanh thật êm dịu. Hắn đứng
lên, và bước đi về phía tiếng chuông đang mời gọi hắn. Hắn không quên vẽ vào
bàn tay trái mình một hình thánh giá và hắn nắm chặt bàn tay lại, hắn như nắm
chắc một điều gì đó hay lòng hắn đang quyết tâm mà chỉ có hắn hiểu rõ nhất. Và
hắn nở một nụ cười hạnh phúc.
Mã số: 14-099
CHÍ PHÈO THỜI @
Tiếng chuông báo tử của
nhà thờ Kim Châu vang lên thê thiết trong cơn mưa phùn ảm đạm. Dòng người tập
hợp về nhà thờ với những tâm tình khác nhau, nhưng tất cả đều thấm đẫm một nỗi
buồn, tiếng khóc thảm thiết, tiếng nấc nghẹn ngào, tiếng người bàn tán, tiếng
gõ chiêng trống…Sao thế nhỉ? Tôi cũng vậy sao? Có cái gì đó lăn dài trên đôi gò
má, làm nặng trĩu đôi hàng mi ướt nhèm và tôi đang khóc. Cái cảnh tượng ấy đã
qua lâu rồi. Thế nhưng, nỗi ám ảnh ấy còn vẹn nguyên như ngày hôm qua đối với
một đứa nhóc như tôi. Nó là một nợ vươn của gia đình chị Mến. Một gia đình
nghèo trong cái làng nhỏ bé, nhưng rất đỗi thân thương của tôi.
Ngày ấy, chị Mến nổi tiếng
là hoa khôi trong làng; thanh niên trong và ngoài làng say mê, theo đuổi chị.
Nhưng không biết từ lúc nào, chị đã phải lòng anh Dũng, người làng bên, tướng
người cao to, làn da rám nắng, chắc nịch giống như một người nông dân thực thụ.
Chắc vì thế mà chị ấn tượng anh ngay từ cái nhìn đầu tiên. Khổ nỗi ngay từ lúc
sinh ra anh chưa biết Chúa và giờ cũng thế. Liệu chị có thể làm anh từ bỏ tất
cả để theo Chúa không? Chắc trong tâm trí chị luôn loay hoay với những câu hỏi
như thế? Còn phần tôi, tôi tin chị, người chị luôn làm người hướng dẫn đời sống
tâm linh cho tôi và là người tôi có thể dễ dàng ngả vào lòng chị mỗi khi tôi bế
tắc.
Thời gian thấm thoát trôi,
tình cảm của hai anh chị ngày càng mặn nồng, đó là lúc anh Dũng hay tham dự
thánh lễ, học biết Chúa, dự lớp giáo lý hôn nhân, hăng hái trong mọi hoạt động
của giáo xứ. Nhưng tất cả bi kịch chỉ như mới bắt đầu.
- Tao không đồng ý!
Cha của anh Dũng không
muốn anh theo Đạo, theo chị Mến, chắc đây là lẽ tự nhiên của một đứa con nối
dõi là thế. Giọng ba anh gắt gỏng, đôi mắt phừng phừng nảy lửa, đôi chân mày co
quáu lại rồi ông nói tiếp.
- Một là mày bỏ con Mến,
không đạo hạnh gì hết, hai là mày theo Đạo cũng được, nhưng mày phải sinh con
trai nối dõi cho tao, mày làm được không?
Không chần chừ, Dũng đáp
ngay.
- Dạ! thưa cha, con sẽ
sinh cháu trai cho cha.
Ngày mong đợi đã đến, đám
cưới tuy không lớn nhưng có lời chúc phúc của Chúa, của bà con hai bên, cái mâm
cỗ nhỏ cũng đủ làm ấm lòng người tham dự.
Năm này qua tháng nọ, hai
vợ chồng lấy nhau cũng đã ba năm, nhưng nay mới kiếm cho mình được một mụn con.
Gia đình ai cũng mừng rỡ, anh Dũng thì hớn hở đi khoe làng xóm, còn ông bà Nội
thì chăm cho Mến từng chút một.
- Con à! Có con cháu trong
nhà nó vui nhà vui cửa, vì vậy con phải ngồi yên, mọi việc cứ để mẹ lo, nhà
nghèo nhưng đủ sức nuôi cháu. Để mẹ, để mẹ làm cho con.
Dáng vẻ tất bật lo lắng
của mẹ chồng, Mến vui lắm. Nhưng lại lo nhỡ sinh con gái thì sao. ”Chúa ơi! con
nguyện làm theo ý Ngài muốn”, giọng chị lẩm bẩm cầu nguyện da diết trong tâm
tình xin vâng. ” Thôi mọi việc cứ theo như ý Chúa muốn. ”
Nỗi lo như đè lên vai
Dũng, người chồng chu đáo chăm cho mến từng miếng ăn.
- Để anh mớm cho em ăn
nha!
- Thôi anh, để em tự ăn.
- Để anh, anh mớm cho con
chúng ta chớ có mớm cho em đâu, coi em bẻm kìa!
Hai người tự nhiên cười
phá lên, làm nhộn cái căn nhà ộp ẹp bấy lâu nay vắng bóng tiếng cười.
- Anh muốn nghe tiếng chân
con đạp!
- Không thích.
- Anh muốn nghe mà. .
Và cứ thế, cái hạnh phúc
cứ như mỉm cười cho cái gia đình nhỏ bé này.
Chín tháng mười ngày rồi
cũng đến, cái giờ phút đón thành viên mới đã gần kề.
- Oa…oa. . Chúc mừng anh,
chị nhà đã sinh được một thiên thần giống chị ấy.
- Ôi không!
Dũng đứng sững người và
thốt lên có vẻ ngạc nhiên.
- Là con gái ư! Vậy nó là
con gái.
Anh bỏ chạy thất thần, anh
muốn chạy để thoát khỏi cái ý nghĩ là con gái, nó là con gái.
Ngay từ lúc bé Nam chào
đời, công việc ai nấy lo, mạnh ai nấy làm. Mẹ chồng thường xuyên gắt gỏng, cha
chồng thì lơ hẳn Mến. Còn chồng thì la cà suốt ngày…tất cả như muốn tẩy chay
hai mẹ con Mến. Cuộc sống dần trôi, chẳng ai để ý đến Nam. Ngoại trừ mẹ nó ra, ai
cũng bỏ mặc nó. Mười năm trôi qua, cái công việc bán vé số hàng đêm mẹ Mến
không bỏ bữa nào, dù có mệt mỏi hay đau yếu. Chính cái thời điểm không ai làm
việc thì mẹ Mến lại bận tất bật lo công việc của mình, lúc nào Mến cũng cười.
Nhưng đằng sau nụ cười hiền hậu ấy là sự cực nhọc, bởi ban ngày lo cho chồng,
ban đêm lo cho con của Mến, nó làm Mến lộ rõ những vết chân chim, những nếp
nhăn, thâm quầng sau đuôi mắt mệt mỏi, nhưng tràn đầy hạnh phúc ấy
Không làm thất vọng mẹ, bé
Nam càng lớn càng ngoan ngoãn, lại chăm học. Nam không những giống mẹ về tính
tình, nó còn trội cả về nhan sắc. Bé có đôi mắt tròn, mái tóc dài ngang lưng,
miệng cười chúm chím hình trái tim, gương mặt thanh tú và kèm theo một làn da
trắng nõn nà. Ai cũng bảo nhau :”Hoa khôi trong làng này, tiếp theo chắc chắn
là con Nam. Đi đâu cũng được người ta khen, Nam vui lắm. .
Buổi tối hôm ấy, mới tập
hát ca đoàn về, nó thấy mẹ dắt chiếc xe đạp cũ kĩ đi ra ngoài ngõ chuẩn bị đi
bán. Nó chạy theo chúc mẹ bán được thật nhiều vé số và dặn mẹ nhớ về sớm nha.
Đứa bé thơ dại lại ngâp ngừng hỏi mẹ nó:
- Mẹ ơi! Ai cũng bảo con
của mẹ xinh, học giỏi. Mẹ cũng thấy thế phải không? Nhưng mẹ ơi! Tại sao ba và
ông bà Nội không thích con?
Như có cái sấm sét ngang
tai. Mến sửng sốt trước câu hỏi của con. Đôi mắt đỏ hoe của Mến như sắp rơi
nước mắt. Mến dựng xe đạp và nhào tới ôm con.
- Không phải đâu, con yêu.
Sao con lại nghĩ thế. Con biết cả nhà đều yêu con mà.
Cái ôm thật chặt làm Mến
thấy đau, “mẹ xin lỗi vì làm con tổn thương”. Trong tâm trí Mến rất muốn nói
nhưng lại nghẹn ứ ở cổ họng thốt ra không nên lời.
Làn gió thoang thoảng, ánh
trăng sáng giữa đêm khuya như chứng kiến bà mẹ rao từng tờ giấy số, để nuôi
giấc mơ hoài bão của đứa con, . . ”Mẹ ơi! con muốn làm bác sĩ chữa bệnh thận
cho mẹ”. Mẹ nhớ rồi con. Cái câu ấy chính là động lực để người mẹ ấy tần tảo
cày giữa cuộc đời này vì con, con à!
Lần đầu tiên cả gia đình
ấy ăn chung, kể từ khi Nam chào đời, ừ mười năm rồi nhỉ, nó vui lắm.
- Một cái chén cho ông,
một cái chén cho bà, một cái cho cha yêu, một cái cho mẹ và một cái cho Nam…rồi
đũa nữa nè. Dạ! con mời ông bà, cha mẹ ăn cơm ạ! hi…hi. .
- Rầm. . ôi không! Nam….
con thật sự xin lỗi, con…con…lỡ làm rớt cái chén cơm, con xin lỗi. Nó thút thít
lên, nước mắt chảy dài, con không cố ý ạ! .
Vừa khóc tay nó vừa hốt
những hạt cơm trên sàn. Nó quên cái nóng của cơm mà nó nắm trên tay, nhưng cái
nóng của tim nó đã làm hầm đỏ mặt nó. Đây là bữa cơm chung đầu tiên mà.
- Tao bảo rồi mà! Mày sinh
con trai có phải tốt hơn không? Con gái con lứa chẳng làm được chuyện gì cả.
Cũng tại mày, tại mày hứa với tao sao? mày nói mày đẻ con trai. Cái thằng mất
dạy, cút đi đi, cả gia đình mày cút đi, biến hết đi…
Ông nội vừa la, vừa chỉ
tay thẳng vào ba nó, nó đau lắm, ông nội nghiến răng, khuôn mặt co lại, mắt mở
to, giọng hằn học ba nó. Ông vơ tay lật cả mâm cơm lên. Trên sàn toàn cơm và
thức ăn. Ba đã bỏ chạy rồi, bà Nội thì bỏ đi ra sau vườn, ông Nội ngồi thở hổn
hển vì quá tức. Giờ chỉ còn lại nó và mẹ nó. Chính hai đôi bàn tay này đã dọn
tàn cuộc và dọn cả những giọt nước mắt chảy ướt đẫm từ trái tim nhói đau của
hai mẹ con nó.
- Chúa ơi! nếu con sinh ra
giống cái tên của con thì có tốt hơn không? Giờ đây con bực Ngài nhiều lắm đó.
Ngài nói ai xin thì sẽ được mà. Nhưng ngần ấy thời gian, sao gia đình không
chấp nhận con hả Chúa? Con sai ở chỗ nào vậy Ngài ơi! Ngài chỉ con đi, con thật
sự muốn biết.
Trong đầu nó thầm nghĩ và
muốn hét lên cho cái tim bớt đau, cái đầu bớt nhức hơn. Bọng mắt của nó sưng
tấy lên và làm híp cả đôi mắt nó.
Lè nhè, say xỉn. Ba nó lê
thê bước loạng choạng tới nhà, vừa đi hắn vừa thét to:
- Tổ cha tụi bay dám quýnh
tao, sao tụi bay chế giễu tao, tụi bay tưởng tao muốn sinh con gái hả? “Cái đồ
mấy năm trời không sinh được con trai”. sao tụi bay nói thế hả, tao quýnh nè
con.
Hắn vừa đi vừa lè nhè, cái
tay cầm chai của lão vừa trỏ vừa chỉ tứ phía.
Ba nó là như thế sao? nó
hốt hoảng khi nghe ba nó nói ở đầu ngõ. Nó nghĩ là lỗi của nó.
- Con có thể làm gì cho ba
bớt đau hả ba? Con xin lỗi. Con có thể nghỉ học , đi bán vé số như lời ba.
Nhưng ba cho con đi lễ và học giáo lý nha ba.
Nó vừa nói, nó vừa lấy hết
can đảm chạy tới ôm chầm ba nó.
- Con yêu ba, ba ơi !
Và ngày nào cũng thế, cứ
sáng đi tối về, ba nó ngày nào cũng say xỉn. Chuyện đi lễ, đọc kinh đối với ba
nó là chuyện xa xỉ không thể nào.
Dáng người nhanh nhẹn,
nhảy nhót trên con đường đến trường của nó đã không còn. Giờ đây là Nam lờ đờ,
bạn bè chọc nó như thế cũng phải thôi, nó nghĩ cũng giống nó mà. Nó không còn
cảm giác xấu hổ, nhưng thay vào đó là cảm giác chai lì, già dặn của một người
lớn. Nó trốn học, nó đi bán vé số, nó giấu mẹ nó, vì thế con đường từ nhà đến
bến xe An Nhơn, người ta ai cũng thấy cái con bé xinh xinh luôn cầm lốc vé số
trên tay. Cái kim lâu ngày cũng lòi ra, mẹ nó phát hiện.
- Ai cho con bán vé số, con không còn nghe lời mẹ phải không?
- Mẹ ơi! Giờ con phải làm
sao hả mẹ? Làm sao để gia đình mình hạnh phúc hả mẹ? Nếu có thể, con muốn giúp
mẹ và làm ba thấy thoải mái hơn. Con không muốn làm gánh nặng cho mẹ. Mẹ đã vác
con và chịu từng ấy tủi thân chưa đủ hả mẹ. Giờ sao mẹ không để con gái yêu
gánh cùng mẹ.
- Mẹ thật sự xin lỗi con.
Mẹ là người có lỗi với con. Nhưng con hãy nghe lời mẹ. Con muốn chữa thận cho
mẹ mà, sao con có thể bỏ ước mơ của mình.
Mẹ nó vừa nói vừa lấy tay
quýnh nhẹ vào người nó.
“Giờ sao đây, thật sự mỗi
đêm mẹ nó đi làm về, mồ hôi nhễ nhãi, vừa đi vừa khóc vì quá đau. Mẹ không muốn
con nhìn thấy, mẹ đã khóc nấc thành tiếng. Nhưng con hiểu hết mẹ à, con đã nhìn
thấy”
Nó nghĩ và cắn răng, thét
gào và lấy tay đập vào tim, mà lòng nhói đau.
Đúng thế, mọi chuyện cũng
sẽ ổn thôi, ban ngày nó đi học, ban đêm nó muốn ngồi trên xe đạp được mẹ chở đi
bán vé số, đó là yêu cầu của nó, và là điều kiện để nó đi học.
- Ừ ! Mẹ chịu thua con
rồi, nhưng con phải học tập chăm chỉ và giỏi thì mẹ mới chịu.
- Dạ con đồng ý.
Đây là lần đầu tiên nó
cười nhẹ kể từ khi nhà nó xảy ra chuyện.
Nó lân la bắt chuyện mẹ
nó:
- Mẹ ơi! Nếu con là con
trai thì tốt hả mẹ?
- Không con à! Mẹ thích
con vẫn thế.
Mến thật sự cô đơn, nghẹn
lòng và cảm thấy có lỗi. Vì muốn có con trai nên ngay cả bản thân Mến cũng đặt
tên con mình là Nam. Thật ra, Mến đã cắt buồng trứng cách đây sáu năm vì bệnh u
nang buồng trứng, lại cộng thêm bệnh suy thận, mẹ Mến thường phải lên thành phố
chạy thận. Nhà nghèo lại cộng thêm bệnh của mẹ, nó thật sự rất mệt mỏi. Nó
ngước mắt lên trời và ngây ngô mà hỏi Chúa rằng:
“Con phải làm sao, thật
con rất mệt mỏi quá Chúa ơi! ”.
Nước mắt và sự đau đớn của
nó đã làm mọi thứ xung quanh cũng ủ rũ theo nó. Làn gió nhẹ khẽ làm rung cành
cây ngọn cỏ, tiếng mũi vo ve, tiếng ếch nhái kêu ngoài đồng. Giờ thì nó chỉ
muốn buông xuôi.
Mặt trời dần buông, khép
nhẹ những tia nắng cuối cùng. Chân nó nặng trĩu bước về nhà.
- Ôi ba!
Nó thốt lên đầy bất ngờ,
hôm nay ba về bảy giờ không còn là nửa đêm khuya nữa. Nó thấy ba nó ngồi lếch
trước ngõ nhà. Nó rụt rè bước tới hỏi ba nó:
- Ba ơi! Có chuyện gì vậy
ba, sao ba khóc vậy?
- Tại mày, tại mày làm tao
bẽ mặt, mày là con trai có phải tốt hơn không, vào đây tao cắt tóc mày thành
con trai.
Vừa nói hắn vừa túm lấy
đầu nó giật giật rùi nói tiếp:
- Do mày và con mẹ mày
quyến rũ tao. Con gái, con gái nè…Chúa nè, bà nè, tao gọt hết, hết đi lễ với
chả nghĩa. Tao biểu đi bán vé số sao giờ này còn chưa đi. Tao đập phá hết.
- Ông làm gì vậy?Thả con
bé ra. Làm ơn, tôi van ông, tôi lạy ông…Ông có thể cứ đánh tôi như ông vẫn làm
, ông có thể lấy hết đồ đạc trong nhà, nhưng xin ông đừng đánh nó.
Cái gì ướt ướt trên tay
hắn, chảy lên đầu con hắn.
- Trời! màu đỏ, máu…
Hắn, hắn chết sững người
thả ra.
Con đau quá ba ơi!
Nó nằm bẹp xuống sàn. Cái
kéo đã đâm vào đầu con hắn, hắn không hề cố ý.
- Con ! Con ơi!
Mến la toáng lên.
- Con ơi!
Hơi thở Nam yếu ớt dần,
nhưng nó vẫn gượng nói từng tiếng bằng giọng hụt hụt, nghẹn nghẹn của nó.
- Mẹ ơi! Con yêu mẹ. Con
không trách mẹ đã sinh con ra. Nhưng con muốn cảm ơn Chúa đã cho con làm con
của mẹ. Nếu được xin, con nguyện Chúa cho mẹ khỏi bệnh và mẹ cũng không cực
nhọc sống như thế nữa. Nếu không có con thì mẹ sẽ chăm chút cho bản thân mẹ
hơn, mẹ đừng để dành tiền cho con, mẹ hãy để tiền chạy thận cho mẹ. Con xin lỗi
vì không thể làm bác sĩ chữa bệnh cho mẹ được. Con cảm ơn mẹ! Mẹ của con.
Ba oi! Con không trách ba
đâu, nhưng sao giờ con không thể nhích nổi cái tay để ôm ba vào lòng vậy. Ba có
thể tới gần va chủ động ôm con, một việc mà ba chưa từng làm với một đứa con
gái như con không?. Giá như con làm con trai thì tốt hả ba? Lúc đó con có thể
làm cho ba vui và hạnh phúc hơn. Con cảm ơn ba. Nhưng ba ơi! Con muốn sống và
được sống. Con muốn làm những chuyện giữa người ba và một đứa con như bao gia đình khác. Con muốn
chơi xích đu, con muốn ba cõng con. Và con muốn ba nắm tay con bước vào nhà thờ
cùng đi lễ ngày Chủ Nhật. Ba đừng cấm con nha ba. Con thật sự thương Ngài biết
bao. Cảm ơn Ngài đã cho con một cuộc đời, để sống và cảm nhận tình yêu của
Ngài. Cảm ơn Ngài đã vác đỡ cây thánh giá cho con và cho con được đến bên Ngài,
làm tôi tớ của Ngài. Con thật sư muốn sống như hạt lúa mì Chúa ơi! .
- “ Chúa ơi! Thân con là
thân lúa miến, gieo vào lòng đời và mục nát theo thời gian. . í…a. Và thân con
trở thành hiến vật, nguyện dâng cha như lễ toàn thiêu…
Và hơi thở thoi thóp cuối
cùng của nó cũng dần tắt và giọt nước mắt cuối cùng của nó cũng đã rơi.
Nó đã đi rồi, nhưng liệu
chí phèo ấy có thực hiện được ước mơ cuối cùng của con hắn không? Tất cả đều là
nghi vấn theo thời gian chưa có câu trả lời. Nhưng tôi chắc một điều rằng: hắn
đã thật sự hối hận về tất cả.
Ai sinh ra cũng chỉ một
kiếp người
Chỉ là mỗi người chọn cho
mình mỗi cách sống
Nhanh cũng được, từ tốn
cũng xong
Đẹp, tốt cũng một kiếp; mà
xấu, bẩn cũng một đời
Đến và đi cũng chỉ là kiếp
nhân sinh
Ấy thế mà lòng người chẳng
đặng chấp nhận đến một ngày ly biệt nhân gian
………
Ngàn lần nhớ thương và cảm
tạ Người đã đến để làm sáng một góc Đạo- Đời.
Và thay đổi những kiếp người nên đẹp xinh.
(Trích thơ của chị AnNa
Hồng Trinh)
Mã số: 14-101
NGƯỜI SAMARI NHÂN HẬU
Đồng hồ đã điểm 14 giờ
chiều, tiếng ông Hoan từ trong nhà vọng ra:
- Mấy đứa bay lo liệu tắm
rửa mà đi lễ. Hôm nay, lễ sớm hơn đó.
Ánh nắng chói chang, hắt
vào trong nhà, xuyên qua cánh cửa đã được khép hờ. Năm nay, mùa hè oi bức hơn
mọi năm. Nắng như muốn thiêu đốt mọi thứ mà nó dọi vào. Mấy cây rau ở ngoài
vườn héo hắt, đang oằn mình dưới nắng. Ông Hoan đang ở trong nhà, ngồi uống
nước, áo quần đã chỉnh tề, chỉ chờ mấy đứa con chuẩn bị xong xuôi là lên đường.
Nhà ông Hoan thuộc một
Giáo họ nhỏ. Nhà thờ Giáo họ ở xa nhà xứ lắm đến chừng 20 cây số gì đó, điều
kiện đi lại rất khó khăn. Ngoài những dịp lễ lớn, mỗi tuần Giáo dân hai Giáo họ
nhỏ này luân phiên đi lễ ở nhà thờ mỗi Giáo họ, tuần chẵn thì lễ ở Giáo họ ông
Hoan còn tuần lẻ thì lễ ở Giáo họ bên cạnh. Cha chánh xứ rất quan tâm ưu ái đến
đời sống đạo của “con chiên”, mỗi tuần, dù đường sá xa xôi cách trở, trời nắng
cũng như trời mưa Ngài đều tạo điều kiện cho Giáo dân được có cơ hội tham dự
Thánh Lễ.
Cũng như các gia đình Công
Giáo khác, gia đình ông Hoan luôn mong ngóng đến ngày Chúa Nhật để được tham dự
Thánh Lễ. Hình như cha xứ có việc đột xuất nên Ngài cho lễ sớm hơn mọi ngày,
bởi vậy từ sáng, ông Hoan đã nhắc nhở luôn miệng để các con chuẩn bị đi cho kịp
lễ. Hôm nay, lễ ở Họ bên cạnh, nói là bên cạnh nhưng cũng xa đến bảy tám cây
số, đường khó đi, nhất là những hôm trời mưa thì thật vất vả. Dầu vậy, giáo dân
ở hai Giáo họ này đều rất sốt sắng tham dự Thánh Lễ.
- Thằng Hồng thằng Ân đâu?
Mau tắm rửa mà đi lễ. Con Thương, con Mến nữa. Nhanh lên! – Tiếng ông Hoan lại
vọng ra.
- Dạ chúng con đã xong
xuôi cả rồi. – Cái Mến lễ phép trả lời.
Vợ chồng ông Hoan có bốn
người con: đứa đầu - Hồng đã có việc làm, thằng thứ hai - Ân vừa mới tốt nghiệp
đại học mấy tháng trước, cái Thương đang học trung cấp Y còn Mến đứa con út
đang học lớp mười. Vợ chồng ông làm ruộng, ông còn mở một xưởng mộc nho nhỏ, kể
cũng có đống ra đồng vào nuôi con ăn học. Những đứa con của ông luôn đi lễ từ
rất sớm. Tuy thế ông Hoan vẫn luôn nhắc nhở. Cậu Hồng chở ông Hoan, đi riêng
một xe. Cái Thương chở mẹ, chiếc xe đạp thì thằng Ân và cái Mến đã chở nhau đi
trước đó mười lăm phút.
- Trời hôm nay nắng quá!
Anh Ân mệt không? – Mến vừa hỏi vừa lấy tay quệt mồ hôi ở trán.
- Không sao! Mình sắp đến
nơi rồi.
Ân thở cách mệt nhọc,
chiếc áo trắng đã ướt đẫm mồ hôi. Đi được một đoạn, một cô bé độ tám tuổi, đạp
xe phía đằng sau hai anh em, nó bị một chiếc xe máy chạy qua tông phải. Nó ngã
xuống đất, rồi lổm ngổm ngồi dậy, khóc hu hu. Thấy vậy, cậu thanh niên phóng xe
chạy đi mất. Ân nhìn chàng thanh niên ấy, lắc đầu. - Đáng ghét! Làm con bé ngã
rồi còn bỏ chạy, thanh niên gì mà…
- Em có sao không? - Ân
vội vàng đỡ con bé đứng dậy và hỏi.
- Ôi cái chân! Chảy máu
rồi kìa! – Mến hốt hoảng. Nó nhìn cái đầu gối đã trầy xước của con bé rồi rùng
mình. Nó chạy qua bên đường, hái vội mấy ngọn thuốc mang qua cầm máu cho con
bé.
Con bé mếu xệch mặt, nước
mắt giàn giụa nói: - Em cám ơn anh chị!
Hình như nó đau lắm, nó cố
gắng đạp xe đi về, nhưng nó không sao đạp nổi.
- Em đi đâu giữa trưa nắng
thế này? Nhà em có xa không để anh chị chở về?
- Dạ không xa lắm ạ! Để em
tự về cũng được. Anh chị cứ đi đi… em không sao. Nó nói trong tiếng nấc.
Ân nhìn con bé, nó cứ lóng
ngóng mãi mà vẫn không sao ngồi lên xe được, máu rỉ ra từ chỗ vết thương mỗi
lúc một nhiều. Trán nó đẫm mồ hôi, chiếc quần nó mặc đã rách toạc ở đầu gối,
bụi đất lấm hết áo quần. Trông nó thật tội nghiệp!
- Thôi, để tụi anh đưa em
về. - Ân ái ngại nhìn nó.
- Anh Ân, mình muộn lễ
mất! - Mến nhìn đồng hồ và giục.
- Nhưng mình không thể để
em ấy một mình. Em ấy không thể tự về được đâu.
- Nhưng chỉ còn 15 phút
nữa là Thánh Lễ bắt đầu. - Mến rối cả lên. Nó sợ cha lắm. Cha không thích đi
muộn, đi muộn cha mắng chết.
- Thật khó quá! - Ân chần
chừ mãi, lắc lắc cái đầu, lại vò đầu, mớ tóc đã ướt như thể mới gội.
- Chậm lễ là cha mắng đó!
– Mến thúc giục.
- Thôi kệ! Cha mắng để anh
chịu. Em đạp xe em ấy để anh chở em ấy. Mình không thể để em một mình được. Nói
rồi An quay xe chở cô bé, Mến đạp theo sau. Nắng vẫn chói chang và chiếc áo Ân
giờ đã ướt sũng như là vừa mới hụp nước ở ao.
“Nhân danh Cha và Con và
Thánh Thần”, Thánh Lễ đã bắt đầu mà thằng Ân và con Mến vẫn chưa đến. Ông Hoan
nhìn sang bên những chiếc ghế quỳ bên nữ. Ông nhìn từ dưới lên trên, vẫn chưa
thấy con Mến đâu cả, nhìn lên mấy chiếc ghế ở trên thì chỉ có thằng Hồng, không
thấy thằng Ân đâu, ông bắt đầu sốt ruột. Chắc là mình mắt kém, mới đi nắng vào
cơ mà. Đầu ông bát đầu hiện lên bao nhiêu là giả thiết: Hai đứa này la cà ở đâu
mà giờ này chưa đến? Hay là bị tai nạn. Không đâu, đường ở đây đâu có mấy xe
chạy đâu, giả như có thì cũng chỉ là một hai chiếc xe 81 chạy là cùng. Ông nghĩ
thế và cố yên trí. Lạy Chúa! Hy vọng hai đứa con của con bình an. Ông cố giữ sự
sốt sắng để tham dự Thánh Lễ cho trọn vẹn. Bài đọc một được đọc xong thì con
ông mới vừa tới. Thằng Ân bước vội vào bàn quì, mồ hôi nhễ nhại. Bên phía nữ,
con Mến cũng đang làm dấu. Khi cha xứ giảng lễ, ông nhìn qua, ánh mắt tỏ ý
không bằng lòng với con. Mến chỉ lặng nhìn xuống và tiếp tục nghe giảng. Thánh
Lễ kết thúc, ông Hoan bước ra, Ân và Mến đã tiến đến bên, lắp bắp xin lỗi. Ông
bảo: “ Về nhà rồi tính”. Tuy là người khó tính nhưng ông cũng rất tế nhị, chẳng
bao giờ chửi mắng các con nhất là ở những nơi đông người.
Ân và Mến đi ra bãi xe,
lấy xe chở nhau về. Trời về chiều càng im mát hơn. Ánh nắng đã dịu lại, gió
thổi mát rượi. Cái thú được đạp xe đi về trên con đường này thật tuyệt, hai anh
em vừa đạp xe vừa nói chuyện mà quên hết cả mệt nhọc. Dạo trước, thiếu niên
trong Giáo họ cũng thích được đạp xe đi lễ, nhưng dạo gần đây, trời nắng gắt
quá nên tụi nó đi xe máy cả. Anh em Ân thì vẫn thích cái thú ấy hơn nữa nếu
không đi xe đạp thì cũng chẳng còn xe, mà dành xe với anh Hồng con Thương thì
không nên, không lẽ lại bỏ lễ. Thế là hai anh em vẫn đi xe đạp, đi mệt thì tìm
bóng im mà nghỉ, đỡ mệt lại đi tiếp. Đi được nửa đường, Mến như nhớ ra việc đi
lễ muộn, nó kéo áo Ân hỏi:
- Anh Ân! Liệu cha có đánh
anh em mình không nhỉ? Cha khó tính lắm à! Nhất là đi Lễ muộn nữa chứ.
- Chắc không đâu, mình cứ
nói sự thật cho cha em ạ. Anh nghĩ cha sẽ hiểu.
Hai anh em chơi với nhau
suốt ngày mà không biết chán. Ân luôn tỏ ra là một người anh mẫu mực. Câu nói
của Ân làm Mến đỡ lo hơn. Vừa về đến nhà, hai anh em đã thấy cha ngồi ở nhà
khách, chờ. Người mẹ đang thái cây chuối ở sân, bà thả dao xuống ngước mắt nhìn
và dịu dàng nói:
- Các con liệu vào nhà,
khiêm tốn xin lỗi cha. Cha đang bực mình đó.
Bà mẹ đưa mắt nhìn con.
Vệt máu sót lại trên tay áo Ân làm bà hốt hoảng:
- Mày làm sao thế? Con với
cái! Lại đây mẹ xem.
- Không sao đâu mẹ ạ! Đây
là dấu máu của cô bé mà con và em đã chở về lúc chiều.
- Thật không? Mày nói dối
mẹ, mẹ cho ăn đòn.
- Thật mà! Trước giờ con
có dối mẹ bao giờ đâu.
- Phải không Mến?
- Dạ phải ạ!
Bà mẹ dúi Ân một cái lên
trán. Bà tỏ ra yên tâm hơn.
- Thôi các con vào nhà đi,
cha đang đợi. Có gì trình bày với cha nghe, đừng để cha nóng.
- Dạ! - Hai anh em cùng
thưa, rồi bước vào nhà.
Ông Hoan hãy còn ngồi ở ghế, đang uống ngụm
chè xanh. Thấy con vào, ông đặt cái li nước xuống:
- Tụi bay làm gì mà đi lễ muộn? Tuần có một
Thánh Lễ thôi mà cũng để muộn.
Thấy cha giận, Ân kéo áo
Mến, Mến kéo áo Ân:
- Em nói đi!
- Anh nói đi!
Sự dùng dằng của hai anh
em khiến ông bực mình. Thấy cha toan đứng dậy, Ân mới lễ phép thưa:
- Chúng con xin lỗi cha! Hôm nay chúng con đi
lễ muộn ạ!
Ông Hoan đưa mắt nhìn hai đứa con, mồ hôi đang
nhễ nhại. Ông dịu dọng:
- Lí do sao, nói cha nghe:
- Dạ! Thưa cha, lúc chiều,
anh em con đạp xe đến ngã ba, chỉ còn độ mươi phút là đến nơi. Bỗng có một đứa
bé, chắc là bảy tám tuổi gì đó, đạp xe cùng chiều với chúng con. Một chiếc xe
máy chạy cùng chiều đã tông vào nó khiến nó ngã, nhưng người ấy lại bỏ đi mất.
Nó bị thương ở chân, không nặng lắm nhưng nó không tự đạp xe về nhà được.
Ông Hoan lắng nghe con kể,
hình như ông chú ý lắm. Ông nhấp thêm ngụm chè xanh rồi hỏi tiếp:
- Thế rồi sao?
- Dạ, anh em con thấy
thương nó quá nên đến xem sao. Nó khóc sướt mướt. Chúng con không đành lòng để
nó một mình. Trời lúc ấy nắng và nóng lắm, nếu cứ để nó một mình ở giữa đường
con sợ nó xỉu mất. Thế là con chở nó về nhà, còn Mến thì đi xe con bé ạ!
- Thế có bố mẹ con bé ở nhà chứ? - Ông Hoan
hỏi:
Biết bố đã hết giận nên
hai anh em cũng nhẹ lòng:
- Dạ, may là có mẹ nó ở
nhà. Mẹ nó hốt hoảng lắm. Cô mời chúng con vào nhà uống nước. Chợt nghĩ đến
Thánh Lễ, nhìn đồng hồ đã trễ nên chúng con xin phép đi luôn. Ngôi nhà nhỏ chỉ
có vẻn vẹn một cái giường, chắc là cũng nghèo lắm. Chúng con xin phép về thì cô
vội đút vào túi áo hai trăm nghìn, nói là cám ơn anh em con. Nhưng chúng con
không nhận và xin cô cứ để tiền mà mua thuốc cho em uống! Cô cảm động lắm.
Ông Hoan nhìn hai con, vẻ
bằng lòng lắm:
- Ừ! Các con cư xử phải lắm. Nhà họ nghèo mình
lấy làm gì, để tiền cho họ còn lo thuốc thang cho con, chỉ tội không có ít tiền
cho họ nữa. Người ta gặp nạn mình phải giúp, huống gì chúng ta là con của Chúa.
Thôi các con đi tắm rửa rồi vào ăn cơm, nhìn xem áo quần nhơ nhớp hết cả, ăn
sớm để còn đi nhà thờ đọc kinh.
Ông Hoan luôn dạy dỗ con
cái rất cẩn thận, nhất là đời sống đạo. Nhờ đó mà các con ông đều ngoan và học
giỏi. Anh em Ân vừa không bị đánh đòn lại được cha khen nữa. Ân tỏ ra đắc chí:
- Anh đã bảo mà, cha sẽ
hiểu và thông cảm cho anh em mình. Nếu gặp trường hợp đó chắc cha cũng xử sự
như anh em mình à. Thôi đi tắm đi!
- Ông Hoan bước ra sân,
vươn vai mấy cái liền. Mặt ông tươi tỉnh lắm. Biết chồng không còn giận các con
nữa, bà Hân hỏi chồng:
- Sao rồi ông nó?
- À! Chúng nó thật không
uổng công tôi với bà nuôi nấng dạy dỗ. Tại ơn Chúa! Chiều hôm nay, hai đứa nó
dâng Chúa “của lễ” to lắm. Tôi nghĩ Chúa rất hài lòng.
Bà Hân chưa hiểu rõ lắm,
bà nhăn trán. Ông Hoan mỉn cười, ngước mắt lên trời cao.
Bầu trời hôm nay trong và xanh quá, và kìa ông
thấy hình ảnh người Samari nhân hậu trong Tin Mừng theo Thánh Luca lại hiện
lên: “ Nhưng một người Samari kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy
và chạnh lòng thương. ” (Luca 10, 33). Ông tạ ơn Chúa vì các con của ông cư xử
như người Samari nhân hậu, hơn nữa chúng làm đẹp lòng Thiên Chúa. Ông cảm tạ
Chúa, lòng ngập tràn niềm vui và một tình thương con đến lạ…