Canh tân sự tin tưởng và hoàn toàn phó thác cho Chúa
Hãy canh tân sự tin
tưởng nơi Chúa, bằng cách hoàn toàn phó thác cho bàn tay quan phòng của Người.
Cả trên các con đường khó khăn của thời đại ngày nay luôn bước theo các đường
lối của Chúa như đoàn chiên ngoan ngoãn và vâng lời.
Đức Thánh Cha Biển
Đức XVI đã khích lệ hơn 20.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu như trên
trong buổi tiếp kiến chung tại quảng trường thánh Phêrô sáng thư tư hàng tuần
5-10-2011
Trong bài huấn dụ Đức
Thánh Cha đã tiếp tục loạt bài giáo lý về “trường cầu nguyện” và giải thích thánh
vịnh 23, là thánh vịnh rất quen thuộc và được tín hữu ưa thích. Hướng tới
Chúa trong lời cầu nguyện luôn luôn đòi buộc phải có sự tin tưởng triệt để, và
ý thức tín thác nơi Thiên Chúa là Đấng tốt lành, từ bi thương xót, chậm giận,
giầu tình thương và lòng thành tín (Xh 34,6-7; Tv 86,15; x. Ge 2,13; St 4,2; Tv
103, 8; 145,8; Nk 9, 17). Đức Thánh Cha nói:
“Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi
chẳng thiếu thốn gì”:
lời cầu nguyện đẹp này bắt đầu như trên, bằng cách gợi lại môi trường chăn nuôi
và kinh nghiệm hiểu biết giữa mục tử và các con chiên. Hình ảnh này nhắc nhớ
tới bầu khí tin tưởng, thân tình, dịu hiền: người mục tử biết từng con chiên
một, gọi tên chúng và chúng theo anh, vì biết anh nên tin tưởng nơi anh (x. Ga
10,2-4). Anh lo lắng cho chúng và giữ gìn chúng như kho báu của mình, sẵn sàng
bảo vệ chúng và bảo đảm hạnh phúc của chúng.
Tín hữu cầu nguyện
gọi Thiên Chúa là mục tử và để cho Người hướng dẫn tới đồng cỏ xanh tươi: “Người
đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường
ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (cc. 2-3).
Tiếp tục bài huấn dụ
Đức Thánh Cha nói: chúng ta đừng quên rằng quang cảnh được tác giả thánh vịnh
nhắc tới là bối cảnh của một vùng đất phần lớn là sa mạc, có ánh nắng mặt trời
nung nấu, nơi các người bán du mục sinh sống với các đoàn vật của họ. Nhưng mục
tử biết tìm ra nơi có cỏ và có nước mát, cần thiết cho sự sống, biết đem đoàn
vật tới ốc đảo, trong đó linh hồn được giải khát và có thể lấy lại sức và năng
lực mới để tiếp tục lên đường.
Nếu Chúa là Mục Tử,
thì cả trong sa mạc, nơi diễn tả sự vắng mặt và cái chết, xác tín sự hiện diện
của sự sống cũng không suy giảm, đến độ tác giả thánh vịnh có thể nói “tôi
không thiếu thốn gì”. Thật thế, mục tử lưu tâm đến thiện ích của
đoàn vật và thích ứng với nhịp đi và các nhu cầu của đoàn chiên, bước đi với
chúng và sống với chúng, chứ không chú ý tới các nhu cầu của chính mình. Ưu
tiên của anh là an ninh của đoàn chiên. Và Đức Thánh Cha giải thích điểm này
như sau:
Anh chị em thân mến,
cả chúng ta cũng thế, giống như tác giả thánh vịnh, nếu chúng ta bước theo “Mục
tử nhân lành”, thì cho dù các lộ trình cuộc sống chúng ta có quanh
co, hay dài mấy đi nữa, thường khi cả trong vùng sa mạc tinh thần không có nước
và có mặt trời của chủ thuyết duy lý nắng cháy, thì dưới sự hướng dẫn của Chúa
Kitô Mục Tử nhân lành, chúng ta cũng chắc chắn bước đi trên các con đường đúng
đắn; và Chúa hướng dẫn chúng ta, luôn luôn ở gần chúng ta và chúng ta sẽ không
thiếu thốn gì cả. Chính vì thế tác giả thánh vịnh có thể tuyên bố với sự an
lành và xác tín mà không sợ hãi rằng: “Lậy
Chúa, dầu qua thung lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn
trượng Ngài bảo vệ, con vững đạ an tâm” (c. 4).
Ai bước đi cùng Chúa,
thì cả trong các thung lũng tối tăm của khổ đau, của bất ổn của các vấn đề của
con người, cũng vẫn cảm thấy chắc chắn. Đây cũng là xác tín của chúng ta. Bóng
tôi của đêm đen làm sợ hãi, với các bóng tối nhiều như vậy khó mà phân biệt
được các hiểm nguy, sự thinh lặng của nó tràn đầy các tiếng động không thể hiểu
được. Nếu đoàn chiên di chuyển sau khi mặt trời lặn, khi không còn trông thấy
rõ nữa, thì các con chiên lo lắng, vì có nguy cơ vấp ngã, hay lìa xa hoặc lạc
đàn, và cũng có nỗi sợ hãi gặp các kẻ tấn công ấn nấp trong bóng tối. Khi nói
về thung lũng “tối”, tác giả thánh vịnh dùng một kiểu nói do thái gợi lên bóng
tối của cái chết, vì thế thung lũng phải đi qua là một nơi đầy lo âu và đe dọa
khủng khiếp, đầy nguy hiểm chết chóc. Thế nhưng tín hữu cầu nguyện tiến bước
vững vàng không sợ hãi, vì có Chúa ở cùng ông. Câu “Chúa ở cùng con” là một
công bố tràn đầy tin tưởng không lay chuyển và cô đọng một kinh nghiệm đức tin
triệt để. Sự gần gũi của Chúa biến đổi thực tại, thung lũng tối tăm mất đi mọi
tính cách nguy hiểm và đe dọa của nó.
Phần hai của thánh
vịnh mở ra một quang cảnh mới. Tuy vẫn còn trong sa mạc nhưng giờ đây chúng ta
được đem vào dưới lều của sự tiếp đón: “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt
quân thù. Đầu con Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa”
(c. 5). Giờ đây Chúa được giới thiệu như Đấng tiếp đón tín hữu cầu nguyện
với các dấu chỉ của lòng hiếu khách quảng đại và tràn đầy chú ý. Chúa dọn “bàn”. Đây là một từ Do Thái ám chỉ việc trải một tấm da trên đất để dọn
đồ ăn thức uống trên đó để dùng bữa chung với nhau. Đây là một cử chỉ chia sẻ,
không phải chỉ chia sẻ thực phẩm, mà chia sẻ cả cuộc sống nữa, trong một hiến
lễ của sự hiệp thông và tình bạn, tạo ra các mối dây liên đới. Thế rồi có món
qùa là dầu thơm xức trên đầu nữa, trao ban êm dịu, chữa cái nóng chói chang của
mặt trời sa mạc, trao ban mát mẻ và êm dịu cho làn da, và làm phấn chấn tinh
thần với hương thơm tỏa lan của nó. Sau cùng là chén đầy rượu ngon chia sẻ với
lòng quảng đại đầy tràn.
Thực phẩm, dầu ô liu,
và rượu là các món qùa trao ban sự sống và niềm vui; chúng vượt qúa sự cần
thiết, và diễn tả sự nhưng không và phong phú tràn đầy của tình yêu... Và người
ta thấy khách đi đường ở trong lều, trong khi các kẻ thù của ông phải đứng
ngoài nhìn vào mà không thể can thiệp, bởi vì người mà họ coi là mồi ngon của
họ đang an ninh ở trong lều tiếp khách, đã trở thành khách thánh thiêng và
không thể đụng tới được. Khi Thiên Chúa mở cửa lều của Ngài ra để tiếp đón
chúng ta, thì không có gì có thể làm hại chúng ta.
Đức Thánh Cha nói
tiếp trong bài huấn dụ: Và khi người khách ra đi, sự chở che của Thiên Chúa
tiếp tục đồng hành với ông trên con đường cuộc sống: “Lòng nhân hậu và tình thương
Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng những
năm dài triền miền” (c. 6).
Lộ trình của ông có
một ý nghĩa mới, và trở thành cuộc hành hương lên Đền Thờ Chúa, là nơi thánh,
trong đó người cầu nguyện muốn ở luôn mãi và cũng muốn trở lại. Động từ do thái
dùng ở đây có nghĩa là “trở lại” nhưng với một thay đổi
phụ âm nhỏ có thể hiểu là “ở”: đây là bản dịch của đa số sách Thánh
Kinh hiện nay. Có thể giữ lại cả hai nghĩa: trở lại Đền Thờ và ở trong đó là
ước muốn của mọi tín hữu do thái, ở gần Thiên Chúa trong sự tốt lành của Ngài;
khát vọng và ước mong của mọi tín hữu là có thể thực sự ở nơi có Thiên Chúa,
gần Thiên Chúa. Việc bước theo Mục Tử đưa tới nhà của Người là đích điểm ở của
mọi lộ trình, là ốc đảo ước mong trong sa mạc, là lều trú ẩn trong lúc chạy
trốn thù địch, là chốn an bình, nơi sống kinh nghiệm lòng lành và tình yêu
thương tín trung của Thiên Chúa, mọi ngày trong suốt cuộc đời.
Các hình ảnh phong
phú sâu sắc của thánh vịnh diễn tả kinh nghiệm tôn giáo của dân Do Thái dọc dài
lịch sử của họ. Hình ảnh mục tử gợi lại thời Xuất Hành, con đường lữ hành trong
sa mạc như đoàn chiên được Thiên Chúa hướng dẫn (x. Is 63,11-14; Tv 77,20-21;
78,52-54). Trong Đất hứa, nhà vua có nhiệm vụ chăn dắt dân Chúa, như vua Đavít
mục tử được Thiên Chúa tuyển chọn và là gương mặt của Vua Cứu Thế (x. 2 Sm
5,1-2; 7,8; Tv 78,70-72). Rồi sau thời Lưu đầy bên Babilonia, như trong một
cuộc xuất hành mới, Israel
được đưa về quê cha đất tổ (x. Is 40,3-5.9-11; 43,16-21). Họ như đoàn chiên tản
lạc được Thiên Chúa tìm thấy và dẫn tới các đồng cỏ xanh tươi và nơi yên nghỉ
(x. Ed 34,11-16.23-31). Nhưng chính nơi Chúa Giêsu tất cả sức mạnh gợi ý của
Thánh vịnh mới đạt được ý nghĩa toàn vẹn của nó: Chúa Giêsu là Muc tử nhân lành
đi tìm con chiên lạc, biết các chiên của mình, và ban sự sống Người cho chúng
(x. Mt 18,12-14; Lc 15,4-7; Ga 10,2-4.11-18). Người là đường dẫn đưa tới sự
sống (Ga 14,6) là ánh sáng chiếu soi thung lũng tối tăm, và chiến thắng mọi sợ
hãi (Ga Ga 1,9; 8,12; 9,5; 12,46). Người là khách quảng đại tiếp đón chúng ta
và cứu chúng ta khỏi các thù địch bằng cách dọn bàn tiệc Mình và Máu Ngừơi cho
chúng ta (x. Mt 26,26-29; Mc 14,22-25; Lc 22,19-20), và tiệc cứu thế vĩnh viễn
trên trời (x. Lc 14,15 tt.; Kh 3,20; 19,9). Người là Mục tử, là vua trong sự
hiền dịu và tha thứ ngự trên ngai gỗ vinh quang của thập giá (x. Ga 3,13-15;
12,32; 17,4-5).
Đức Thánh Cha đã chào
tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau rồi cất kinh Lậy Cha và ban phép lành
tòa thánh cho mọi người.
Linh Tiến Khải