Buổi nói chuyện của Đức Thánh Cha Phanxicô với các linh mục giáo phận
Caserta nam Italia
Chiều
Chúa Nhật 27-7-2014 Đức Thánh Cha Phanxicô đã viếng thăm giáo phận Caserta nam
Italia, nhân lễ thánh Anna bổn mạng giáo phận. Trước khi chủ sự thánh lễ cho
200.000 người tại quảng trường trước lâu đài hoàng gia, Đức Thánh Cha đã gặp gỡ
các linh mục trong nhà nguyện Palatina của lâu đài.
Ngỏ
lời chào mừng Đức Thánh Cha Đức Cha D'Alise Giám Mục Caserta nói: ”Thưa Đức
Thánh Cha, con đã không dọn bài viết nào hết, bởi vì con hiểu ngay rằng Đức
Thánh Cha muốn có tương quan thân tình và sâu đậm với các linh mục. Vì thế con
xin chào mừng Đức Thánh Cha. Đây là Giáo Hội của chúng con, các linh mục, rồi
sau đó chúng ta sẽ thấy phần còn lại của Giáo Hội, trong khi cử hành bí tích
Thánh Thể. Đối với con giây phút này thật quan trọng, bởi vì con có mặt ở đây mới
từ hai tháng nay thôi, và con bắt đầu sứ vụ giám mục với sự hiện diện và phép
lành của Đức thánh Cha, và đối với con đó là một ơn trong một ơn lớn. Giờ đây
chúng con chờ đợi lời của Đức Thánh Cha. Biết rằng Đức Thánh Cha ước mong có một
cuộc đối thoại, các linh mục cũng đã chuẩn bị các câu hỏi.
Ngỏ lời với mọi người Đức Thánh Cha nói: “Tôi đã chuẩn bị một bài diễn văn,
nhưng tôi sẽ trao cho Đức Giám Mục. Xin cám ơn rất nhiều về sự tiếp đón này.
Tôi hài lòng và tôi cảm thấy mình hơi có lỗi, vì đã tạo ra bao nhiêu vấn đề
trong ngày lễ thánh bổn mạng của giáo phận. Nhưng tôi đã không biết điều này.
Khi tôi điện thoại cho Đức Giám Mục để nói với ngài là tôi muốn đến thăm với tư
cách cá nhân một người bạn là mục sư Traettino, Đức Cha đã nói với tôi: “A,
chính trong ngày lễ bổn mạng”. Và tôi nghĩ ngay: “Ngày hôm sau báo chí sẽ nói:
“Trong ngày lễ bổn mạng giáo phận Caserta Đức Giáo Hoàng đã đến thăm các anh em
tin lành.” Tựa đề hay qúa có phải không? Và như thế chúng tôi đã sắp xếp câu
chuyện hơi vội vã một chút, nhưng Đức Giám Mục đã giúp tôi và cả các nhân viên Phủ
Quồc Vụ Khanh nữa. Tôi đã nói với vị phụ tá Quốc Vụ Khanh khi tôi gọi cho ngài:
“Xin làm ơn lấy cái dây ra khỏi cổ cho tội”. Và vị ấy đã làm tốt. Xin cám ơn
các cha về những câu hỏi các cha sẽ đưa ra, chúng ta có thể bắt đầu được rồi.
Các cha cứ hỏi rồi tôi sẽ xem, nếu chúng ta có thể dồn hai ba cầu vào một, nếu
không thì tôi sẽ trả lời từng câu hỏi một.
Hỏi:
Thưa Đức Thánh Cha, con xin cám ơn. Con là linh mục Pasquariello, cha chính
giáo phận Caserta. Xin hết lòng cám ơn Đức Thánh Cha đã đến thăm
Caserta. Con muốn hỏi thiện ích mà Đức Thánh Cha đang đem lại cho Giáo Hội với
các bài giảng thường ngày, các tài liệu chính thức, đặc biệt là Thông điệp ”Niềm
Vui Phúc Âm” đều mang dấu ấn sự hoán cải tinh thần, thân tình, cá nhân.
Theo thiển ý con đó là một cuộc cải cách chỉ liên quan tới lãnh vực thần học,
chú giải Thánh Kinh và triết lý. Nhưng bên cạnh đó cũng cần phải lôi cuốn dân
Chúa vào cuộc nữa. Vấn đề là trong giáo phận của chúng con, là giáo phận đã
có từ 900 năm nay, các ranh giới thật vô lý. Vài phần đất của tỉnh bị chia
một nửa với giáo phận Capua và với giáo phận Acerra. Nhà ga xe lửa thành phố
Caserta, cách tòa thị sảnh gần một cây số, lại thuộc Capua. Con xin Đức
Thánh Cha một can thiệp với giải pháp để các cộng đoàn của chúng con khỏi phải
đau khổ vì các di chuyển vô ích và để cho sự hiệp nhất mục vụ của cộng
đoàn khỏi phải khó khăn. Rõ ràng là trong số 10 Thông điệp ”Niềm vui Phúc
Âm” Đức Thánh Cha khẳng định rằng đây là các chuyện thuộc tòa Giám Mục.
Nhưng con còn nhớ cách đây 47 năm khi con còn là linh mục trẻ, chúng
con đã cùng Đức ông Roberti, xuất thân từ Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa
Thánh, lên trình bầy vấnđề ở Phủ Quốc Vụ Khanh, thì được trả lời là: ”Các
cha sắp xếp với các Giám Mục đi, rồi chúng tôi sẽ ký”. Thật là hay,
nhưng mà khi nào các Giám Mục mới đồng ý với nhau, thưa Đức Thánh Cha?
Đáp: Có
vài sử gia của Giáo Hội nói rằng trong vài Công Đồng các Giám Mục cũng còn đánh
nhau nữa, nhưng rồi lại đồng ý với nhau. Và đây là môt dấu chỉ xấu. Thật là xấu,
khi các Giám Mục nói xấu nhau, hay vào hùa với nhau. Tôi không nói là phải có sự
hiệp nhất tư tưởng hay tu đức, bởi vì đây là điều tốt, nhưng tôi nói ”theo đuôi
nhau” trong nghĩa tiêu cực của từ này. Điều này xấu, vì nó bẻ gẫy sự hiệp nhất
trong Giáo Hội. Điều này không phải là của Thiên Chúa. Là Giám Mục chúng tôi phải
nêu gương hiệp nhất, mà Chúa Giêsu đã xin Thiên Chúa Cha ban cho Giáo Hôi.
Không thể đi nói xấu nhau được: “Ông này làm thế này, ông kia ở đó làm thế nọ”.
Hãy đi nói thẳng vào mặt nhau. Các cha ông của chúng ta trong các Công Đồng đánh
nhau, và tôi thích họ la hét nhau, rồi ôm nhau làm hòa hơn là đi nói xấu, nói
chùng nói lén nhau. Đó là nguyên tắc chung.
Trong sự hiệp nhất của Giáo Hội sự hiệp nhất giữa các Giám Mục là điều quan trọng.
Thế rồi, cha cũng nhấn mạnh một con đường mà Chúa đã muốn cho Giáo Hội. Sự hiệp
nhất này giữa các Giám Mục là sự hiệp nhất tạo thuận tiện cho việc thỏa thuận với
nhau trên các điều này điều nọ. Trong một nước kia, không phải tại Italia đâu,
nhưng ở một phần khác của thế giới, có một giáo phận có ranh giới được vạch lại,
nhưng vì lý do đặt kho tàng của nhà thờ chính tòa, thế là xảy ra tranh chấp kiện
tụng nhau lên tới các tòa án kéo dài hơn 40 năm trời. Chỉ vì tiền thôi: thật là
không hiểu nổi! Và điểm này là nơi ma qủy mừng lễ! Chính nó được lợi. Thật là đẹp,
khi cha nói rằng các Giám Mục phải luôn luôn đồng ý với nhau: nhưng đồng ý
trong sự hiệp nhất, không phải trong sự đồng nhất. Mỗi người có đặc sủng của
mình, mỗi người có kiểu suy tư, nhìn các sự vật: sự khác biệt đó đôi khi là kết
qủa của sai lầm, nhưng biết bao lần nó là hoa trái của chính Thần Khí. Chúa
Thánh Thần đã muốn rằng trong Giáo Hội có các đặc sủng khác nhau. Chính Thần
Khí làm ra sự khác biệt, rồi lại thành công làm ra sự hiệp nhất: một sự hiệp nhất
trong sự khác biệt của từng người, mà không ai phải mất đi bản vị của mính. Tôi
cầu mong rằng điều cha nói đó tiến tới. Thế rồi chúng ta tất cả đều tốt lành, bởi
vì chúng ta đều có nước Thánh Tẩy, chúng ta có Chúa Thánh Thần trợ giúp chúng
ta tiến tới.
Hỏi:
Thưa Đức Thánh Cha, con là linh mục Angelo Piscopo, cha sở giáo xứ Thánh Phêrô
Tông Đồ và giáo xứ Ngai tòa thánh Phêrô. Câu hỏi của con là: trong
Thông điệp ”Niềm vui Phúc Âm” Đức Thánh Cha đã mời gọi khích lệ và củng cố
lòng đạo đức bình dân, là kho tàng của Giáo Hội công giáo. Đồng thời
Đức Thánh Cha cũng cho thấy nguy cơ có thật của việc phổ biến một thứ kitô giáo
cá nhân chủ nghĩa và tình cảm, chú ý nhiều hơn tới các hình thức truyền thống
và mạc khải, mà lại thiếu các khíacạnh nền tảng của đức tin và thiếu ăn sâu vào
cuộc sống xã hội. Đức Thánh Cha có thể gợi lên cho chúng con một kiểu mục
vụ, thế nào để đừng gây thiệt hại cho lòng đạo đức bình dân, mà lại có thể
tái trao ban quyền tối thượng cho Tin Mừng hay không? Con xin cám ơn Đức Thánh
Cha.
Đáp: Người ta nghe nói rằng đây là thời điểm, trong đó lòng đạo hạnh đã xuống
dốc, nhưng tôi không tin lắm. Bởi vì có các trào lưu, các trường đạo hạnh duy
tâm tình, kiểu ngộ đạo thực thi một loại mục vục giống một lời cầu nguyện tiền
kitô, một lời cầu tiền kinh thánh, và thuyết ngộ đạo đã bước vào trong Giáo Hội
qua các nhóm đạo đức duy tâm tình ấy: tôi gọi điều này là chủ thuyết duy tâm
tình. Chủ thuyết duy tâm tình không tốt, nó là một điều cho tôi, tôi an tâm,
tôi cảm thấy mình tràn đầy Thiên Chúa. Nó cũng giống phong trào Thời Mới. Có
lòng đạo hạnh, đúng, nhưng là một thứ đạo hạnh ngoại giáo, hay cả lạc giáo nữa.
Chúng ta không được sợ hãi nói lên từ này, bởi vì thuyết ngộ đạo là một lac
giáo, nó đã là lạc giáo thứ nhất trong Giáo Hội. Khi tôi nói tới lòng đạo hạnh,
tôi nói về kho tàng đạo đức, với biết bao nhiêu giá trị, mà Đức Giáo Hoàng
Phaolô VI đã miêu tả trong Tông huấn ”Loan báo Tin Mừng”. Các cha hãy nghĩ tới
tài liệu Aparecida của Hội nghị lần thứ V của Liên Hội Đồng Giám Mục châu Mỹ
Latinh, trong đó ở đoạn cuối cùng, phải lui lại đàng sau 40 năm để lấy lại một
đoạn của Tông huấn, là tài liệu mục vụ thời hậu công đồng vẫn còn rất thời sự.
Trong tài liệu này, Đức Phaolô VI miêu tả lòng đạo đức bình dân bằng cách khẳng
định rằng đôi khi cần phải phúc âm hóa nó. Vâng, bởi vì cũng như mọi lòng đạo đức,
nó có nguy cơ sai lạc, và không diễn tả đức tin mạnh mẽ.
Nhưng
lòng đạo đức mà người dân có, lòng đạo đức đi sâu vào trong con tim với bí tích
Rửa Tội là một sức mạnh khổng lồ, tới độ dân Chúa có lòng đạo đức này, nói
chung, không thể sai lầm, nó chắc chắn, như khẳng định trong số 12 của Hiến chế
về Giáo Hội. Lòng đạo đức bình dân nảy sinh từ ý thức của đức tin, mà tài liệu
công đồng nói tới và hướng dẫn trong việc sùng kính các Thánh, Đức Mẹ, cả qua
các kiểu diễn tả dân ca vũ, trong nghĩa tốt của từ này. Vì thế lòng đạo đức
bình dân một cách nền tảng được hội nhập văn hóa, không thể là một lòng đạo đức
được làm trong phòng thí nghiệm, nhưng luôn luôn nảy sinh từ cuộc sống. Người
ta có thể phạm các lỗi nhỏ, vì thế cần phải tỉnh thức, nhưng lòng đạo hạnh bình
dân là một dụng cụ rao truyền Tin Mừng.
Chúng
ta hãy nghĩ tới các người trẻ ngày nay. Người trẻ, ít nhất là trong kinh nghiệm
tôi đã có trong giáo phận, giới trẻ, các phong trào giới trẻ tại Buenos Aires
đã không hoạt động. Tại sao vậy? Người ta đã nói với họ rằng chúng ta hãy họp
nhau để nói chuyện... và sau cùng thì giới trẻ buồn chán. Nhưng khi các cha xứ
tìm ra con đường lôi cuốn giới trẻ trong các cuộc truyền giáo nhỏ, đi truyền
giáo trong kỳ hè, dậy giáo lý cho những người cần, trong các vùng hẻo lánh xa
xôi không có linh mục, khi đó giới trẻ tham gia. Người trẻ muốn kiểu tác nhân
truyền giáo này và từ đó họ học sống một hình thức đạo có thể gọi là đạo đức đức
bình dân: việc tông đồ truyền giáo của người trẻ cũng có thể nói là đạo đức
bình dân. Đức Phaolô VI nói: lòng đạo đức bình dân tích cực nó là một ý thức của
đức tin sâu đậm, mà chỉ những người đơn sơ và khiêm tốn mới có khả năng có. Và
điều này thật là lớn lao! Chẳng hạn trong các đền thánh người ta thấy xảy ra
các phép lạ.
Ngày 27 tháng 7 hằng năm tôi đều đến Đền thánh Pantaleone ở Buenos Aires và giải
tội từ sáng. Nhưng khi trở về nhà tôi được đổi mới nhờ kinh nghiệm này, tÔi trở
về nhà xấu hổ vì sự thánh thiện mà tôi đã tìm thấy nơi các tín hữu sơn đơn sơ
này, có tội nhưng thánh thiện, bởi vì họ nói lên các tội của họ và kể lại họ sống
ra sao, con trai con gái họ có vấn đề gì, hay người này người kia có khó khăn
nào, họ đi thăm các bệnh nhân làm sao. Tỏa sáng ra một ý thức tin mừng. Người
ta tìm thấy các điều này trong các Đền thánh. Các tòa giải tội tại các Đền
thánh là một nơi canh tân cho chúng ta là các linh mục giám mục: nó là một khóa
học canh tân tinh thần vì tiếp xúc với lòng đạo đức bình dân. Khi họ đến xưng tội,
các tín hữu kể cho bạn nghe các bần cùng của họ, nhưng bạn thấy đàng sau các bần
cùng ấy ơn thánh Chúa hướng dẫn họ tới thời điểm này. Việc tiếp xúc này với dân
Chúa cầu nguyện, hành hương biểu lộ đức tin của họ trong hình thức đạo đức này,
giúp chúng ta biết bao nhiêu trong cuộc sống linh mục của chúng ta.
Hỏi:
Thưa Đức Thánh Cha, con đã là học sinh được các cha dòng Tên đào tạo
văn hóa và linh mục. Căn tính của linh mục trong thiên niên kỷ thứ ba là quân
bình nhân bản và tinh thần, ý thức truyền giáo, rộng mở đối thoại với các tôn
giáo khác cũng như đối với những người không có tôn giáo. Đức Thánh Cha đã làm
một cuộc cách mạng về ngôn ngữ, kiểu sống, thái độ hành xử và chứng tá
liên quan tới các đề tài quan trọng nhất trên bình diện quốc tế, cả đối với những
người vô thần và những người sống xa Giáo Hội công giáo. Con xin phép hỏi Đức
Thánh Cha: trong xã hội tiến triển sinh động và xung khắc và thường xa
cách các giá trị tin mừng này, làm sao Giáo Hội cầu mong lớn lên và phát triển
lại thường chậm chạp như vậy? Cuộc cách mạng ngôn từ, ý nghĩa, văn hóa và
chứng tá tin mừng của Đức Thánh CHa đang khơi dậy trong các lương tâm một cuộc
khủng hoảng hiện sinh đối với các linh mục chúng con. Xin Đức Thánh Cha gợi lên
cho chúng con các con đường sáng tạo giúp thắng vươt hay ít ra làm giảm
thiểu cuộc khủng hoảng mà chúng con cảm thấy này.
Đáp: Làm
sao Giáo Hội đang lớn lên và phát triển có thể tiến tới? Cha đã đưa ra vài điều
rồi: sự quân bình, thái độ rộng mở đối thoại. Cha đã nói một điều tôi rất
thích: đó là óc sáng tạo: một từ thiên linh và nếu nó là nhân bản thì đó là một
ơn của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã ra lệnh cho Adam ”Hãy đi và làm cho trái đất lớn
lên. Hãy có óc sáng tạo. Đó cũng là giới răn mà Chúa Giêsu đã ban cho các môn đệ
trong các tương quan với Do thái giáo: thánh Phaolô đã là một người có óc sáng
tạo; thánh Phêrô đã làm một điều mới mẻ, sáng tạo. Lời nói là sự sáng tạo. Làm
sao tìm được sự sáng tạo này? Đây là điều kiện nếu chúng ta muốn sáng tạo trong
Thần Khí, nghĩa là trong Thần Khí của Chúa Giêsu. Không có con đường nào khác
ngoài con đường cầu nguyện.
Một
Giám Mục mà không cầu nguyện, một linh mục mà không cầu nguyện thì đã đóng cửa,
thì đã đóng con đường của óc sáng tạo. Chính trong lời cầu nguyện khi Chúa
Thánh Thần làm cho bạn nghe được một điều, thì ma qủy tới làm cho bạn nghe thấy
một điều khác. Nhưng cầu nguyện là điều kiện để tiến tới. Cả khi nhiều lúc xem
ra lời cầu có buồn chán đi nữa. Lời cầu quan trọng biết bao. Không phải chỉ là
lời cầu nguyện của kinh thần vụ và phụng vụ Thánh Lễ, thanh thản, sốt mến, lời
cầu cá nhân với Chúa. Nếu chúng ta không cầu nguyện có lẽ chúng ta sẽ là các
doanh nhân mục vụ và tinh thần, nhưng Giáo Hội mà không có lời cầu nguyện thì
trở thánh một tổ chức phi chính quyền, mà không được xức dầu của Thần Khí. Lời
cầu nguyện là bước đầu tiên bởi vì đó là rộng mở cho Thiên Chúa để có thể rộng
mở cho tha nhân. Chính Chúa nói cho bạn phải đi đây đi kia, làm cái này cái nọ
và dấy lên óc sáng tạo, khiến cho nhiều vị Thánh phải trả giá mắc mỏ. Hãy nghĩ
tới chân pưhớc Antonio Rosmini, người đã viết tác phẫm ”Năm vết thương của Giáo
Hội”. Ngài đã là một người có óc phê bình sáng tạo, bởi vì đã cầu nguyện và đã
viết những gì Chúa Thánh Thần đã cho cảm thấy. Nhưng chính vì thế mà ngài đã phải
vào tù tinh thần, nghĩa là nhà của ngài: không thể nói, không thể dậy dỗ, không
thể viết, các sách của ngài bị xếp vào danh sách các sách cấm đọc. Nhưng ngày
nay ngài là chân phước.
Biết bao nhiêu lần sự sáng tạo đem theo thập giá, nhưng khi phát xuất từ lời cầu
nguyện, nó đem lại hoa trái. Đây không phải sự sáng tạo kiểu ”cách mạng” thời
thượng ngày nay không phải là của Thần Khí, nhưng là óc sáng tạo đến từ Thần
Khí và nảy sinh từ lời cầu nguyện. Nó có thể tạo ra các vấn đề cho bạn. Sự sáng
tạo đến từ lời cầu nguyện có một chiều kích nhân chủng của sự siêu việt, bởi vì
qua lời cầu nguyện bạn rộng mở cho sự siêu việt, cho Thiên Chúa. Nhưng cũng có
sự siêu việt rộng mở cho tha nhân. Không cần phải là một Giáo Hội đóng kín
trong chính mình, chỉ nhìn lỗ rốn của mình, một Giáo Hội tự quy chiếu về mình,
nhìn chính mình và không có khả năng siêu việt. Sự siêu việt hai chiều rất quan
trọng: hướng tới Thiên Chúa và hướng tới tha nhân. Ra khỏi chính mình không phải
là một cuộc phiêu lưu mạo hiểm, nhưng là một lộ trình mà Thiên Chúa đã chỉ cho
con người ngay từ đầu khi Thiên Chúa nói với tổ phụ Abraham: ”Hãy rời bỏ đất của
ngươi”. Ra khỏi mình. Khi tôi ra khỏi mình, tôi gặp gỡ Thiên Chúa và tha nhân.
Nhưng phải gặp tha nhân làm sao từ xa hay từ gần. Cần phải gặp họ từ gần. Sự
sáng tạo, sự siêu việt và sự gần gũi. Sự gần gũi là một từ chìa khóa. Gần gũi
không hoảng sợ. Khi thấy các ngẫu tượng tại Athènes thánh Phaolô đã không hoảng
sợ, nhưng đến gần và trích cả các thi sĩ Hy lạp nữa. Mgài tới gần một nền văn
hóa, gần con người gần kiểu suy tư, các khổ đau và các thù hận của họ. Biết bao
lần sự gần gũi là một việc hãm mình, bởi vì chúng ta phải nghe các điều nhàm
chán, các điều xúc phạm.
Cách
đây hai năm có một linh mục thuộc tổng giáo phận Buenos Aires đi truyền giáo tại
một giáo phận miền nam trong vùng từ nhiều năm nay không có linh mục công giáo,
nhưng có các người tin lành. Cha ấy kể cho tôi nghe rằng cha đến thăm một phụ nữ,
hiệu trưởng trường học vùng đó. Bà mời cha ngồi rồi bắt đầu chửi cha rất dữ:
”Các cha đã bỏ rơi chúng tôi một mình, tôi cần Lời Chúa nên tôi đã phải tham dự
phụng tự tin lành và tôi đã theo tin lành”. Vị linh mục này trẻ tuổi, cầu nguyện
nhiều và rất hiền dịu. Khi bà nọ đã ngưng chửi bới cha liến nói: ”Thưa bà tôi
chỉ xin nói một lời thôi: ”Xin lỗi. Xin bà tha lỗi cho chúng tôi. Chúng tôi đã
bỏ đàn chiên”. Và bà nọ đổi giọng ngay. Bà mời cha uống cà phê. Vị linh mục
cũng không đề cập tởi vấn đề tôn giáo thật. Và khi ngài chuẩn bị ra về bà ta
nói: ”Xin cha dừng lại và đến đây”. Bà đưa cha vào phòng ngủ và kéo hộc tủ ra,
bên trong có hình Đức Mẹ và nói: ”Tôi đã không bao giớ bỏ Mẹ. Tôi đã dấu vào đây
vì ông mục sư, nhưng trong nhà có Đức Mẹ”. Câu chuyện dậy cho chúng ta biết rằng
sự gần gũi sự dịu hiền đã khiến cho phụ nữ đó giao hòa với Giáo Hội. Nhưng tôi
đã hỏi cha ấy câu chuyện kết thúc ra sao, mà đáng lý ra không bao giờ được hỏi.
Cha cho biết ngài đã không hỏi gì cả cũng không mời bà trở lại vớ Giáo Hội công
giáo. Bà ta tiếp tục tham dự các buổi phụng tự tin lành. Nhưng cha nói: ”Bà là
một người cầu nguyện, xin Chúa Giêsu làm”.
Gần gũi cũng có nghĩa là đối thoại. Cần đọc Thông điệp ”Giáo Hội Người” của Đức
Phaolô VI nói về đối thoại. Đối thoại thật là quan trọng. Nhưng để đối thoại cần
phải có hai điều: khởi hành từ căn tính của mình và hiểu người khác, không lên
án tiên thiên. Nếu tôi không chắc chắn về căn tính của mình mà đi đối thoại,
tôi sẽ lẫn lộn niềm tin của tôi. Mỗi một người đều có cái gì đó để cho chúng
ta, lich sử, hoàn cảnh sống của họ, chúng ta phải lắng nghe nó. Rồi sự thận trọng
cảu Chúa Thánh Thần sẽ cho chúng ta biết phải trả lời thế nào. Đối thoại không
phải là hộ giáo. Đối thoại là nhân bản, các con tim và các linh hồn nói chuyện
với nhau. Đừng sợ hãi đối thoại với bất cứ ai. Có người nói chơi rằng thánh
Philippo Neri, tôi không nhó rõ vị thánh nào, có khả năng đối thoại với cả ma qủy.
Tại sao vậy? Bởi vì người có sự tự do lắng nghe tất cả mọi người, nhưng khởi
hành từ căn tính riêng. Ngài rất chắc chắn. Nhưng chăc chắn về căn tính của
mình không có nghĩa là chiêu dụ tín đồ. Chiêu dụ tín đồ là một cái bẫy mà Chúa
Giêsu cũng lên án. Giáo Hôi không lớn lên vì chiêu dụ tín đồ, nhưng vì lôi kéo.
Lôi cuốn là sự thấu hiểu được Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
Như
thế gương mặt của linh mục trong thế kỷ tục hóa này là một người có óc sáng tạo
thực thi lệnh truyền của Thiên Chúa là ”tạo dựng các sự vật” một người của sự
siêu việt với Thiên Chúa qua lời cầu nguyện và với tha nhân, một con người của
sự gần gũi dân chúng. Một linh mục không làm cho người ta xa lánh.
Hỏi:
Thưa Đức Thánh Cha, câu hỏi của con liên quan tới nơi sống là giáo phận, với
các Giám Mục và trong tương quan với các anh em linh mục. Ngày nay dân chúng chờ
đợi nơi các linh mục một chứng tá rõ ràng, cởi mở và tươi vui. Như vậy theo Đức
Thánh Cha đâu là nét chuyên biệt và nền tảng của một nền tu đức của linh mục
giáo phận? Xem ra con nhớ đã đọc ở đâu lời Đức Thánh Cha nói rằng: ”linh mục
không phải là người chiêm niệm”. Đức Thánh Cha đã mời gọi cho ”các sự mới mẻ của
Chúa Thánh Thần”. Con không biết Đức Thánh Cha có thể cho chúng con một
hình ảnh cần chú ý cho sự tái sinh và sự gia tăng hiệp thông của giáo phận
chúng con không. Điều con chú ý là làm sao các linh mục chúng con có thể trung
thành với con người ngày nay, chứ không cho lắm với Thiên Chúa?
Đáp: Cha
đã nói ”các sự mới mẻ của Chúa Thánh Thần”. Đúng thế. Nhưng Thiên Chúa là Thiên
Chúa của các ngạc nhiên, Ngài luôn luôn khiến cho chúng ta ngạc nhiên. Khi đọc
Phúc Âm chúng ta đi từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác. Chúa Giêsu luôn đi
trước, tìm kiếm và chờ đợi chúng ta. Tôi không nhớ tiên tri Isaia hay tiên tri
Giêrêmia nói Thiên Chúa giống như hoa hạnh nhân, là cây đầu tiên nở hoa vào mùa
xuân. Thiên Chúa luôn luôn là Đấng đầu tiên.
Liên
quan tới tu đức của linh mục giáo phận, Linh mục chiêm niệm, nhưng không phải
như một đan sĩ chiêm niệm tại đan viện Certosa. Vị linh mục phải có một sự
chiêm niệm, một khả năng chiêm niệm đối với Thiên Chúa cũng như đối với con người.
Linh mục là một người nhìn, làm đầy đôi mắt và con tim của mình với sự chiêm niệm
này: với Tin Mừng trước mặt Thiên Chúa, và với các vấn đề của con người trước
con người. Linh mục chiêm niệm trong nghĩa đó. Nhưng không nên lẫn lộn với đan
sĩ chiêm niệm.
Thế thì trung tâm nền tu đức của linh mục giáo phận ở đâu? Theo tôi đó là nơi
tính cách giáo phận. Nghĩa là có khả năng rộng mở cho tính cách giáo phận. Tu đức
của một tu sĩ là rộng mở cho Thiên Cháu và cho tha nhân trong cộng đoàn cho dù
có nhỏ mấy đi nữa. Trái lại tu đức của linh mục giáo phận là rộng mở cho giáo
phận tính. Còn các tu sĩ làm việc trong các giáo xứ thì phải có cả hai sự tùy
thuộc, vì thế Bộ các dòng tu đang duyệt xét lại tài liệu ”Mutuae relationes”.
Giáo
phận tính có nghĩa là có một tương quan với Giám Mục bản quyền và các anh em
linh mục khác trong giáo phận. Linh mục giáo phận không thể tách rời khỏi Giám
Mục. Vị Giám Mục dù có tính xấu đi nữa cũng là Giám Mục, và bạn phải tìm cách
duy trì tương quan với ngài, cả trong thái độ không tích cực. Nhưng đây là luật
trừ. Là linh mục giáo phận tôi có tương quan với Giám Mục, một tương quan cần
thiết. Thật là rất ý nghĩa trong lễ truyền chức vị linh mục hứa vâng lời Đức
Giám Mục và các người kế vị. Giáo phận tính có nghĩa là có một tương quan với
Giám Mục cần phải thực thi và làm cho nó lớn lên. Trong đa số các trường hợp,
nó không phải là một vấn đề tai họa mà là chuyện bình thường.
Thứ
hai là tương quan với các linh mục khác với toàn linh mục đoàn. Không có tu đức
linh mục giáo phân nào mà không có hai tương quan này. Chúng cần thiết. Có cha
nói: ”với Giám Mục thì tôi không có vấn đề, nhưng tôi không đi họp với các linh
mục vì họ nói các chuyện tầm phào”. Nhưng với thái độ này là bạn thiếu tinh thần
tu đức thực sự của linh mục giáo phận. Tất cả là ở đó: đơn sơ nhưng không dễ
dàng. Bởi vi mỗi người có một kiểu suy nghĩ riêng nhưng có thể thảo luận với
nhau. Nếu cần to tiếng thì cứ to tiếng. Nhưng khi ngoại giao bước vào trong hai
tương quan này thì không có Thần Khí Chúa, bởi vì thiếu tinh thần tự do. Cần phải
có can đảm nói: ”Tôi không nghĩ như thế, tôi nghĩ khác” và cũng cần phải có sự
khiêm tốn nhận một sửa lỗi. Đây là điều rất quan trọng. Và Ai là kẻ thù lớn nhất
của hai tương quan này? Các bép xép. Biết bao nhiêu lần chúng ta có cám dỗ này
trong mình, và ma qủy biết là hạt giống đó đem lại bộng hạt và nó gieo tốt. Và
tôi nghĩ không biết nó có phải là một hậu qủa của một cuộc sống độc thân cằn cỗi,
không phong phú không. Một người cay đắng không phong phú và bép xép, nói xấu
nói hành người khác. Đó là một không khí không tốt. Chính nó ngăn cản tương
quan với Giám Mục và với linh mục đoàn. Các bép xép là kẻ thủ mạnh nhất của
giáo phận tính, nghĩa là nền tu đức linh mục giáo phận. Nếu bạn là người trưởng
thành và thấy nơi người anh em linh mục điều bạn không thích hay tin rằng sai,
hãy đi nói với anh ấy, hay nều thấy anh ấy không chịu được sự sửa lỗi thì trình
với Giám Mục hay một người bạn thân ơn của linh mục đó để họ có thể giúp cha ấy
sửa mình. Nhưng đừng nói với các người khác: bởi vì điều đó làm hại nhau. Ma qủy
hạnh phúc với “bữa tiệc đó”, vì chính như thế mà nó tấn công trung tâm tu đức của
hàng giáo sĩ giáo phận. Đối với tôi các bép đép gây ra biết bao nhiệu là thiệt
hai. Chúng đã là một thực tại hiện diện trong thời Giáo Hội khai sinh, chứ
không phải là điều mới lạ sau Công Đồng, bởi vì ma qủy không muốn rằng Giáo Hội
là một người mẹ phong phú, hiệp nhất và tươi vui. Khi các tương quan giữa linh
mục và Giám Mục, giữa linh mục và linh mục đoàn tốt đẹp, thì hoa trái là niềm
vui, là dấu chỉ mọi sự hoạt động tốt đẹp. Trong khi sự cay đắng là đấu chỉ
không có tinh thần tu đức giáo phận đích thực. Có một lần nọ một linh mục nói với
tôi: ”Con thấy biết bao lần chúng ta là một Giáo Hội của những người giận dữ,
luôn luôn giận dữ người này chống lại người kia. Chúng ta luôn có chuyện để giận
dữ”.
Điều
này đem lại buồn sầu và cay đắng: không có niềm vui. Khi trong giáo phận chúng
ta thấy một linh mục sống giận dữ căng thẳng như thế chúng ta nghĩ: vị này ăn
sáng với giấm chua, buổi trưa ăn rau với giấm chua và ban chiều uống chanh
chua”. Linh mục đó là hình ảnh Giáo Hội của những người giận dữ. Người ta có thể
giận dữ và cũng cần giận dữ một lần. Nhưng tình trạng giận dữ không phải là của
Chúa và nó đem lại sự buốn sầu và không hiệp nhất.
Sau
cùng là trung thành với Thiên Chúa và với con người đó là hai chiều kích cửa sự
siêu việt mà chúng ta đã đề cập tới trên kia. Trung thành với Thiên Chúa, tìm
kiếm Người, rộng mở cho Người trong lời cầu nguyện, để rồi rộng mở cho con người
với sự tôn trọng, phục vụ con người và kiên nhẫn có lời nói đúng đắn với con
người.
(SD
27-7-2014)
Linh
Tiến Khải