Dấu lạ (sêmeion) trong Tin Mừng Gio-an
Nội
dung
Dẫn nhập
I. Dấu lạ Đức Giê-su làm
1) Nước lã hoá thành rượu ngon ở
Ca-na (2,1-12)
2) Cứu sống con trai quan chức
nhà vua (4,43-54)
3) Chữa người đau ốm tại hồ
Bết-da-tha (5,1-18)
4) Hoá bánh ra nhiều (6,1-15)
5) Chữa lành người mù từ thuở mới
sinh (9,1-41)
6) Gọi La-da-rô ra khỏi mồ
(11,1-46)
7) Đức Giê-su đi trên mặt biển hồ
Ga-li-lê
(6,16-20)
8) Mẻ cá lạ lùng, 153 con
(21,1-14)
II. Nói về các dấu lạ của Đức Giê-su
1) Ni-cô-đê-mô nói về dấu lạ
(3,2)
2) Thượng Hội Đồng nói về dấu lạ (11,47)
3) Người thuật chuyện nói về dấu
lạ
III. Cách dùng khác của từ “dấu lạ”
1) Xin Đức Giê-su làm dấu lạ (2,18; 6,30)
2) Gio-an Tẩy Giả không làm dấu
lạ (10,41)
3) “Các dấu lạ và những điềm
thiêng” (4,48)
Kết
luận
***
Dẫn nhập
Danh từ Hy Lạp “sêmeion” có nghĩa là “dấu chỉ”, riêng
trong Tin Mừng Gio-an có thể dịch sang tiếng Việt: “dấu lạ” (tiếng Anh: sign;
Pháp: signe). Thông thường, “sêmeion” có nghĩa là “dấu chỉ” (signe, sign). Dựa
vào “dấu chỉ”, cho phép kết luận một điều gì đó mà dấu chỉ nhắm tới. Chẳng hạn,
hiện tượng sốt là dấu chỉ bị viêm nhiễm. Từ “dấu chỉ” (signe, sign) còn dùng
trong các ký hiệu ngôn ngữ hay toán học. Nói chung, “dấu chỉ” (signe, sign) chỉ
có ý nghĩa khi được đặt trong một hệ thống.
Trong Tin Mừng Nhất Lãm (Mát-thêu, Mác-cô, Lu-ca), các
trình thuật “phép lạ” Đức Giê-su thực hiện chiếm phần quan trọng và làm nên thể
văn đặc thù của Tin Mừng Nhất Lãm. Đức Giê-su thực hiện phép lạ chữa lành, phép
lạ trên thiên nhiên, phép lạ trừ quỷ, đặc biệt phép lạ làm cho người chết sống
lại. Đây là cách thức Đức Giê-su mặc khải quyền năng của Người trên bệnh tật,
trên thiên nhiên và trên sự chết. Tin Mừng Nhất Lãm dùng danh từ Hy Lạp
“dunamis” (quyền năng) để chỉ các phép lạ. Thông thường các bản dịch dùng từ
“phép lạ” để dịch danh từ “dunamis”. Trong Tin Mừng Mác-cô, Đức Giê-su nói với
các môn đệ ở Mc 9,39b: “Không ai làm phép lạ (dunamin) nhờ danh của Thầy và
ngay sau đó có thể nói xấu Thầy.” (Trích dẫn lấy trong Tin Mừng Mác-cô Hy Lạp – Việt, 2011). Người thuật chuyện cho biết cảm nhận của
dân chúng về Đức Giê-su ở Mc 6,2: “Đến ngày sa-bát, Người [Đức Giê-su] bắt đầu
giảng dạy trong hội đường, nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên nói rằng: “Bởi
đâu Ông ta được như thế? Sự khôn ngoan được ban cho Ông ấy và những phép
lạ (hai dunameis) như thế nhờ tay Ông ấy nghĩa là gì?”
Tin Mừng Gio-an thuật lại một số phép lạ có trong Tin
Mừng Nhất Lãm và một số phép lạ không có trong Tin Mừng Nhất Lãm. Điều đáng chú
ý là Tin Mừng Gio-an không dùng từ “phép lạ” (dunamis) mà dùng từ “dấu lạ”
(sêmeion) để nói đến “các phép lạ” Đức Giê-su thực hiện. Điều này có ý nghĩa
quan trọng trong thần học Tin Mừng Gio-an: Đức Giê-su là người thực hiện các
dấu lạ và chính Người cho biết ý nghĩa của dấu lạ. Chẳng hạn ý nghĩa của dấu lạ
bánh hoá nhiều (Ga 6,1-15) sẽ được Đức Giê-su giải thích trong diễn từ bánh sự
sống (Ga 6,25-59). Ở Ga 11, Đức Giê-su mặc khải cho Mác-ta ở 11,25a: “Chính
Thầy là sự sống lại và là sự sống” là trước khi gọi La-da-rô ra khỏi mồ
(11,43). Tin Mừng Gio-an thuật
lại bao nhiêu dấu lạ? Người thuật chuyện sử dụng từ “dấu lạ” (sêmeion) như thế nào? Các nhân vật trong câu chuyện
nhận định ra sao về “các dấu lạ” Đức Giê-su đã làm? Bài viết sẽ trả lời những
câu hỏi này.
Từ “dấu lạ” (sêmeion) xuất hiện 17 lần trong Tin Mừng Gio-an
ở các nơi: 2,11.18.23; 3,2; 4,48.54; 6,2.14.26.30; 7,31; 9,16; 10,41; 11,47;
12,18.37; 20,30. Trong đó, có 11 lần ở số nhiều: “sêmeia” (những dấu lạ) ở
2,11.23; 3,2; 4,48; 6,2.26; 7,31; 9,16; 11,47; 12,37; 20,30; và 6 lần ở số ít:
“sêmeion” (dấu lạ) ở 2,18; 4,54; 6,14.30; 10,41; 12,18. Phần sau sẽ tìm hiểu từ
“sêmeion” (dấu lạ) trong Tin Mừng Gio-an qua ba mục: (I) Dấu lạ Đức Giê-su làm;
(II) Nói về các dấu lạ của Đức Giê-su; (III) Cách dùng khác của từ “dấu lạ”.
I. Dấu lạ Đức Giê-su làm
Từ “sêmeion” (dấu lạ) xuất hiện 7 lần để xác định những
dấu lạ Đức Giê-su làm (2,11; 4,54; 7,31; 6,14.26; 9,16; 12,18). Trong mạch văn,
có thể nói đến 8 dấu lạ. Trong đó, sáu dấu lạ được xác định bằng từ “sêmeion”
(dấu lạ): (1) Nước hoá thành rượu ở Ca-na (2,1-12); (2) Cứu sống con trai quan
chức nhà vua (4,43-54); (3) Chữa người 38 năm đau ốm tại hồ Bết-da-tha
(5,1-18); (4) Bánh hoá nhiều (6,1-15); (5) Chữa lành người mù từ thuở mới sinh
(9,1-41); (6) Gọi La-da-rô ra khỏi mồ (11,1-46). Hai dấu lạ không được xác định
bằng từ “sêmeion” (dấu lạ) nhưng có những chi tiết lạ lùng nên có thể gọi là
dấu lạ: Dấu lạ thứ 7 là Đức Giê-su đi trên mặt biển hồ Ti-bê-ri-a (6,16-20) và
dấu lạ thứ 8 là mẻ cá lạ lùng ở Ga 21,1-14. Sau đây là chi tiết 8 dấu lạ trong
Tin Mừng Gio-an.
1) Nước lã hoá thành
rượu ngon ở Ca-na (2,1-12)
Sau khi Đức Giê-su hoá nước thành rượu ngon trong tiệc
cưới ở Ca-na (2,1-10), người thuật chuyện cho biết: “Đức Giê-su đã làm dấu lạ
đầu tiên này tại Ca-na, miền Ga-li-lê, Người đã tỏ vinh quang của Người, và các
môn đệ của Người đã tin vào Người”
(2,11). (Các trích dẫn lấy trong: Bản văn Gio-an, Tin Mừng và Ba thư, Hy Lạp – Việt, 2011). Câu
“Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này” (2,11a) dịch sát tiếng Hy Lạp: “Đây là lần đầu
tiên của các dấu lạ (tôn sêmeiôn) Đức Giê-su đã làm” (2,11a). Từ “tôn sêmeiôn”
là danh từ sêmeion ở thuộc cách (genitive) số nhiều (sêmeiôn) có mạo từ (tôn).
Như thế, dấu lạ đầu tiên Đức Giê-su làm tại Ca-na là dấu lạ thứ nhất trong một
chuỗi các dấu lạ (số nhiều) Đức Giê-su thực hiện. Dấu lạ đầu tiên đã gợi đến
những dấu lạ khác kế tiếp trong trình thuật Tin Mừng.
2)
Cứu sống con trai quan chức nhà vua (4,43-54)
Dấu lạ thứ hai được nói rõ trong Tin Mừng Gio-an là trình
thuật Đức Giê-su cứu sống con trai một quan chức nhà vua (4,43-54). Trình thuật
này kết luận như sau: “Đó là dấu lạ (sêmeion) thứ hai Đức Giê-su đã làm, khi
Người từ Giu-đê đến Ga-li-lê” (4,54). Dấu lạ thứ hai xảy ra ở Ca-na (4,46), gợi
lại dấu lạ thứ nhất ở Ca-na: Nước lã hoá thành rượu ngon (2,1-12).
3) Chữa người đau ốm tại
hồ Bết-da-tha (5,1-18)
Trong trình thuật (5,1-18) Đức Giê-su chữa lành người 38
năm đau ốm (5,5) không xuất hiện từ “dấu lạ”. Tuy nhiên, những tranh luận giữa
Đức Giê-su với những người Do Thái ở 7,14-29 có nhắc đến việc Đức Giê-su chữa
lành một bệnh nhân vào ngày sa-bát. Đức Giê-su nói với những người Do Thái ở
7,23: “Nếu người ta chịu phép cắt bì trong ngày sa-bát để luật Mô-sê không bị
vi phạm, sao các ông nổi giận với tôi, vì tôi đã làm cho toàn thân một người
được khoẻ mạnh trong ngày sa-bát?” Chi tiết: “Làm cho toàn thân một người được
khoẻ mạnh trong ngày sa-bát?” (7,23b) gợi lại trình thuật chữa lành người 38
năm đau ốm vào ngày sa-bát ở 5,1-18.
Khi tóm kết tranh luận trong phần 7,14-29, người thuật
chuyện kể lại lời đám đông nói đến các dấu lạ Đức Giê-su làm ở 7,31: “Trong đám
đông, nhiều người đã tin vào Người (Đức Giê-su), họ nói: ‘Khi Đấng Ki-tô đến,
Người sẽ làm nhiều dấu lạ hơn dấu lạ Ông này đã làm không?’” Mạch văn
(7,14-36) cho phép hiểu từ “các dấu lạ” (số nhiều) trong câu nói trên của đám
đông (7,31b), bao gồm cả dấu lạ Đức Giê-su chữa lành người đau ốm ở 5,1-18.
4) Hoá bánh ra nhiều
(6,1-15)
Dấu lạ thứ tư là bánh hoá nhiều (6,1-15). Người thuật
chuyện kể ở 6,14: “Khi thấy dấu lạ (sêmeion) Người (Đức Giê-su) làm, người ta
nói: ‘Ông này thực sự là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian.’” Sau đó, dân
chúng đi tìm và gặp Đức Giê-su vào ngày hôm sau (6,22) ở bên kia Biển Hồ
(6,25a), họ nói với Người ở 6,25b: “Thưa Ráp-bi, Thầy đến đây bao giờ?” Đức
Giê-su trả lời họ: “A-men, a-men, Tôi nói cho các ông: Các ông tìm Tôi không
phải vì đã thấy những dấu lạ (sêmeia), nhưng vì các ông đã ăn bánh và đã được
no nê” (6,26). Trong câu này, Đức Giê-su dùng từ “dấu lạ” ở số nhiều, Người nói
về dấu lạ bánh hoá nhiều và những dấu lạ khác Người đã làm. Điều trớ trêu là
đám đông chỉ thấy sự kiện lạ lùng qua việc bánh hoá nhiều chứ không thấy dấu
lạ, nghĩa là không hiểu điều dấu lạ muốn nhắm tới. Ý nghĩa của dấu lạ bánh hoá
nhiều sẽ được Đức Giê-su mặc khải trong diễn từ bánh sự sống (6,25-59).
5) Chữa lành người mù từ
thuở mới sinh (9,1-41)
Dấu lạ thứ năm là Đức Giê-su cho người mù từ thuở mới sinh
được thấy (9,1-41). Trình thuật chữa lành (9,6-7) không nói rõ đây là dấu lạ,
nhưng trong phần tranh luận (9,8-34), nhận định của những người Pha-ri-sêu ở
9,16 cho thấy việc “người mù từ thuở mới sinh được thấy” là một dấu lạ. Người
thuật chuyện kể ở 9,16: “Vậy một số người trong nhóm Pha-ri-sêu nói: ‘Ông ta
(Đức Giê-su) không phải là người đến từ Thiên Chúa, vì Ông ta không giữ
ngày sa-bát.’ Những người khác nói: ‘Làm sao một người tội lỗi có thể làm được
những dấu lạ (sêmeia) như thế?’ Và đã có sự chia rẽ giữa họ.” Danh từ “dấu lạ”
ở số nhiều “những dấu lạ” (9,16), vừa nói đến dấu lạ ngay trước đó (người mù từ
thuở mới sinh được thấy), vừa gợi đến các dấu lạ khác Đức Giê-su đã làm.
6) Gọi La-da-rô ra khỏi mồ (11,1-46)
Dấu lạ thứ sáu là Đức Giê-su gọi La-da-rô ra khỏi mồ
(11,1-46). Câu chuyện này được bản văn xác định là “dấu lạ” trong trình thuật
Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem (12,12-19). Trong đoạn văn này đám đông cầm
nhành lá thiên tuế đón Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem và làm chứng về dấu lạ La-da-rô
sống lại (x. 11,41-45). Người thuật chuyện kể ở 12,17-18: “17 Vậy đám đông làm
chứng, họ là những người đã có mặt với Người (Đức Giê-su), khi Người gọi
La-da-rô ra khỏi mồ và làm cho anh ấy trỗi dậy từ giữa những kẻ chết. 18 Vì lẽ
đó, đám đông đến đón Người, bởi họ nghe biết Người làm dấu lạ (sêmeion) đó.”
Dấu lạ này có tầm quan trọng đặc biệt, vì là dấu lạ cuối cùng trong sứ vụ công
khai của Đức Giê-su. Người thực hiện dấu lạ này để mặc khải về ý nghĩa “sự
chết” và “sự sống lại” của Người cũng như “sự chết” và “sự sống” của người tin
qua mọi thời đại. Thật vậy, Đức Giê-su mặc khải cho Mác-ta ở 11,25-26a: “25
Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, dù đã chết cũng sẽ
được sống, 26a và tất cả những ai sống và tin vào Thầy, muôn đời sẽ không
chết.”
7) Đức Giê-su đi trên
mặt biển hồ Ga-li-lê (6,16-20)
Trình thuật Đức Giê-su đi trên mặt biển hồ Ga-li-lê (6,16-20)
tiếp nối dấu lạ bánh hoá nhiều (6,1-15) và chỉ có các môn đệ được chứng kiến.
Bản văn không nói rõ biến cố này là dấu lạ. Tuy nhiên trình thuật có hai chi
tiết lạ lùng: (1) Đức Giê-su đi trên Biển Hồ và đến với các môn đệ. Người thuật
chuyện kể ở 6,19-20: “19 Khi đã chèo được khoảng 25 đến 30 dặm, các ông (các
môn đệ) thấy Đức Giê-su đi trên Biển Hồ và đang tới gần thuyền, các ông sợ hãi.
20 Nhưng Người nói với các ông: ‘Chính là Thầy, đừng sợ!’” (2) Chi tiết lạ lùng
thứ hai là cách thức thuyền được đưa vào bờ. Người thuật chuyện kể ở 6,21: “Các
ông (các môn đệ) muốn đưa Người (Đức Giê-su) lên thuyền, và ngay lúc đó thuyền đã
tới đất liền nơi các ông đi đến.” Qua hai chi tiết lạ lùng này, có thể xem
trình thuật Đức Giê-su đi trên mặt biển hồ Ti-bê-ri-a (6,16-20) như một dấu lạ.
8) Mẻ cá lạ lùng, 153
con (21,1-14)
Tương tự như trình thuật Đức Giê-su đi trên mặt Biển Hồ
(6,16-20), trình thuật mẻ cá lạ lùng ở ch. 21, cuối sách Tin Mừng (21,1-14),
cũng ở biển hồ Ti-bê-ri-a, không được bản văn nói rõ là dấu lạ. Tuy nhiên câu
chuyện xảy ra cách lạ lùng như sau: Các môn đệ đánh cá suốt đêm mà không bắt
được gì (21,3d). Khi trời sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển và nói với họ:
“Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền, và anh em sẽ tìm thấy” (21,6a). Sự lạ lùng
đã xảy ra qua lời kể của người thuật chuyện ở 21,6b: “Vậy các ông thả lưới,
và rồi không sao kéo lên nổi vì đầy cá.” Có thể xem trình thuật này là dấu lạ
thứ 8 trong Tin Mừng Gio-an.
Tóm lại, Tin Mừng dùng 7 lần từ “sêmeion” (2,11; 4,54;
7,31; 6,14.26; 9,16; 12,18), ở số ít và số nhiều, để nói đến 6 dấu lạ Đức
Giê-su đã thực hiện. Trong đó bốn trình thuật được xác định rõ ràng là “dấu
lạ”: (1) Nước hoá thành rượu ngon (2,11); (2) Chữa lành con trai viên quan chức
nhà vua (4,54); (3) Bánh hoá nhiều (6,14) (4) Gọi La-da-rô ra khỏi mồ (12,18).
Hai dấu lạ được nói đến gián tiếp chứ không xác định rõ: (5) Chữa lành người 38
năm đau ốm (7,31); (6) Chữa người mù từ thuở mới sinh (9,16). Riêng hai dấu lạ
cuối cùng: (7) Đức Giê-su đi trên mặt biển hồ Ti-bê-ri-a (6,16-20) và (8) Mẻ cá
lạ lùng (21,1-14) có thể gọi là dấu lạ vì sự lạ lùng của sự kiện.
II. Nói về các dấu lạ của Đức Giê-su
Từ “sêmeion” (dấu lạ) xuất hiện 6 lần trong Tin Mừng
Gio-an để nói về các dấu lạ Đức Giê-su đã làm (3,2; 11,47; 2,23; 6,2; 12,37;
20,30). Cụ thể là (1) Ni-cô-đê-mô nói về dấu lạ của Đức Giê-su (3,2); (2)
Thượng Hội Đồng Do Thái nói về dấu lạ (11,47); (3) Người thuật chuyện nói về
dấu lạ 4 lần ở 2,23; 6,2; 12,37; 20,30.
1) Ni-cô-đê-mô nói về
dấu lạ (3,2)
Trong trình thuật 3,1-12, Ni-cô-đê-mô đến gặp Đức Giê-su
ban đêm, ông ấy đã nói với Đức Giê-su về các dấu lạ Người đã làm. Ni-cô-đê-mô
nói với Đức Giê-su ở 3,2: “Thưa Ráp-bi, chúng tôi biết rằng: Ngài là một
vị Thầy đến từ Thiên Chúa, vì không ai có thể làm được những dấu lạ (sêmeia)
Ngài làm, nếu Thiên Chúa không ở với người ấy.” Ngay từ đầu sách Tin Mừng (ch.
3), Ni-cô-đê-mô là một người trong những người Pha-ri-sêu và là một thủ lãnh
của những người Do Thái, đã biết đến Đức Giê-su như là “Người thực hiện các dấu
lạ.” Dấu lạ là đề tài quan trọng trong Tin Mừng Gio-an, trong sứ vụ công khai,
Đức Giê-su làm nhiều dấu lạ, và cũng vì các dấu lạ mà Người bị kết án chết
(11,47-53).
2) Thượng Hội Đồng nói
về dấu lạ (11,47)
Nhóm nhân vật “các thượng tế và những người Pha-ri-sêu”
xác nhận Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ. Sau khi Đức Giê-su thực hiện dấu lạ
làm cho La-da-rô sống lại (11,1-46), nhóm này đã triệu tập Thượng Hội Đồng và
nói với nhau về Đức Giê-su ở 11,47b-48: “47b Chúng ta làm gì đây vì người này
(Đức Giê-su) làm nhiều dấu lạ (polla sêmeia)? 48 Nếu chúng ta cứ để Ông ấy như
thế tất cả sẽ tin vào Ông ấy, và người Rô-ma sẽ đến, họ sẽ huỷ diệt nơi thánh và
dân tộc chúng ta.” Sau đó họ đã theo lời đề nghị của Cai-pha ở 11,49b-50: “49b
Các ông không biết gì cả, 50 các ông cũng chẳng nghĩ rằng: Điều lợi cho các ông
là một người chết cho dân và toàn thể dân tộc không bị tiêu diệt.” Người thuật
chuyện cho biết quyết định cuối cùng của Thượng Hội Đồng Do Thái ở 11,53: “Vậy
từ ngày đó, họ quyết định giết Người (Đức Giê-su).” Như thế, Đức Giê-su đã bị
kết án chết vì những dấu lạ Người đã thực hiện và dấu lạ Người vừa làm ngay
trước quyết định trên đây (11,53) là gọi La-da-rô ra khỏi mồ (11,1-46).
3) Người thuật chuyện
nói về dấu lạ
Người thuật chuyện dùng từ “sêmeion” (dấu lạ) bốn lần
(2,23; 6,2; 12,37; 20,30) để nói về các dấu lạ Đức Giê-su làm. Lần thứ nhất ở phần
tóm kết cuối ch. 2 (2,23-25). Người thuật chuyện kể ở 2,23-25: “23 Trong lúc
Người (Đức Giê-su) ở Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, nhiều kẻ đã tin vào
danh của Người khi thấy các dấu lạ mà Người đã làm. 24 Nhưng Đức Giê-su, chính
Người không tin họ, vì Người biết tất cả, 25 và Người không cần có ai làm chứng
về con người, vì chính Người biết có gì nơi con người.” Nhiều người đã tin vào
Đức Giê-su khi thấy những dấu lạ (sêmeia) Người làm, nhưng Đức Giê-su đã không
tin vào niềm tin của họ. Đây là trường hợp tin nhờ dấu lạ nhưng chưa phải là
lòng tin đích thực. Niềm tin được củng cố thêm qua việc lắng nghe và đón nhận
giáo huấn của Đức Giê-su. (Xem bài viết: “Tin (pisteuô) trong Tin Mừng Gio-an”).
Lần thứ hai xuất hiện ở đầu ch. 6. Đây là chương từ “dấu
lạ” xuất hiện nhiều nhất (4 lần: 6,2.14.26.30) trong Tin Mừng Gio-an. Dấu
lạ bánh hoá nhiều (6,4-15) mở đầu bằng việc nhắc lại “những dấu lạ Đức Giê-su
đã làm” (6,2). Người thuật chuyện kể ở 6,1-3: “1 Sau những điều đó, Đức Giê-su
đi qua bên kia biển hồ Ga-li-lê, gọi là Ti-bê-ri-a. 2 Một đám đông lớn
đi theo Người, vì họ đã thấy những dấu lạ (sêmeia) Người làm cho những kẻ đau
ốm. 3 Đức Giê-su lên núi và ngồi ở đó với các môn đệ của Người.” Như thế, dấu
lạ bánh hoá nhiều Đức Giê-su sắp thực hiện được nối kết với các dấu lạ khác,
đặc biệt là hai dấu lạ chữa lành trước đó: Cứu sống con trai quan chức nhà vua
(4,43-54) và chữa người đau ốm tại hồ Bết-da-tha (5,1-18).
Lần thứ ba người thuật chuyện dùng từ “dấu lạ” là ở
12,37. Những dấu lạ Đức Giê-su làm không nhất thiết làm cho người chứng kiến
tin vào Người. Người thuật chuyện tóm kết sứ vụ công khai của Đức Giê-su ở
12,37: “Người (Đức Giê-su) đã làm quá nhiều dấu lạ (sêmeia) trước mặt họ, mà họ
không tin vào Người.” Nhận xét này vừa đề cao sự xung đột trong Tin Mừng
Gio-an, vì Tin Mừng Gio-an được trình bày như một vụ kiện giữa ánh sáng và bóng
tối; vừa hướng về biến cố Giờ của Đức Giê-su: Biến cố Thương Khó – Phục Sinh,
vì biến cố này giúp nhận ra Đức Giê-su thực sự là ai. Vì không đón nhận, không
tin vào Đức Giê-su mà những kẻ chống đối đã tìm cách giết Người. Tuy nhiên giờ
Thương Khó của Đức Giê-su theo thần học Tin Mừng Gio-an là giờ Người được tôn
vinh (12,23; 13,31-32; 17,1).
Lần thứ tư, người thuật chuyện kết luận sách Tin Mừng
bằng “những dấu lạ Đức Giê-su đã làm” ở 20,30-31: “30 Đức Giê-su đã làm nhiều
dấu lạ (sêmeia) khác trước mặt các môn đệ [của Người]; chúng không được
ghi chép trong sách này. 31 Còn những điều đã được ghi chép là để anh em tin
rằng: Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa; và nhờ tin, anh em có sự sống
trong danh của Người.”
Tóm lại, sách Tin Mừng Gio-an mở đầu bằng dấu lạ (2,11),
nội dung Tin Mừng thuật lại các dấu lạ (ch 4–9), sứ vụ công khai của Đức Giê-su
kết thúc bằng dấu lạ (ch. 11) và cuối cùng, kết luận sách Tin Mừng nói đến dấu
lạ (20,30). Như thế, “dấu lạ” là một trong những đề tài chính của Tin Mừng
Gio-an. Ngoài ra còn có một số cách dùng khác của từ “dấu lạ”.
III. Cách dùng khác của từ “dấu lạ”
Từ “sêmeion” (dấu lạ) trong Tin Mừng Gio-an còn được nói
đến theo quan điểm của người khác và theo nghĩa khác. Phần sau sẽ tìm hiểu ba
ý: (1) Hai lần người ta xin Đức Giê-su làm dấu lạ (2,18; 6,30); (2) Một lần Tin
Mừng cho biết Gio-an Tẩy Giả không làm dấu lạ (10,41). (3) Một lần, Đức Giê-su
dùng kiểu nói: “Các dấu lạ và những điềm thiêng (sêmaia kai terata)” ở 4,48a.
1) Xin Đức Giê-su làm
dấu lạ (2,18; 6,30)
Hai lần từ “dấu lạ” (ở số ít) ở 2,18 và 6,30 cho biết các
khán thính giả đòi Đức Giê-su làm dấu lạ. Sau khi Đức Giê-su đuổi những kẻ buôn
bán khỏi Đền Thờ (2,13-17), những người Do Thái chất vấn Đức Giê-su ở 2,18:
“Bằng dấu lạ (sêmeion) nào Ông chứng tỏ cho chúng tôi là Ông có quyền
làm những điều đó?” Lần thứ hai được thuật lại trong diễn từ bánh sự sống
(6,25-59). Sau khi đám đông chứng kiến dấu lạ bánh hoá nhiều ở 6,1-15, họ gặp
lại Đức Giê-su ngày hôm sau (6,25) và tiếp theo là diễn từ bánh sự sống
(6,25-59). Trong phần đối thoại, đám đông hỏi Đức Giê-su ở 6,30: “Vậy chính
Ông, Ông làm dấu lạ (sêmeion) nào để chúng tôi thấy và chúng tôi tin Ông? Ông
sẽ làm việc gì?” Cả hai trường hợp xin Đức Giê-su làm dấu lạ trên đây (2,18;
6,30) đều đặt trong bối cảnh thách thức và xung đột, vì thế Đức Giê-su đã không
thực hiện dấu lạ nào cho họ.
2) Gio-an Tẩy Giả không làm dấu lạ (10,41)
Trong lần tranh luận cuối cùng giữa Đức Giê-su và những
người Do Thái ở 10,22-38, họ tìm cách bắt Đức Giê-su, nhưng người thuật chuyện
cho biết ở 10,39b-40: “39b Người (Đức Giê-su) đã thoát khỏi tay họ. 40 Người
lại ra đi, sang bên kia Gio-đan, đến chỗ trước kia Gio-an đã làm phép rửa, và
Người ở lại đó.” Người thuật chuyện kể tiếp về thái độ của dân chúng ở 10,41-42:
“41 Nhiều người đến với Người (Đức Giê-su) và họ nói rằng: ‘Gio-an đã không làm
một dấu lạ (sêmeion) nào cả, nhưng mọi điều Gio-an nói về người này là thật.’
42 Ở đó, nhiều người đã tin vào Người.” Nhận định này gợi đến những dấu lạ Đức
Giê-su đã làm theo nghĩa là Gio-an Tẩy Giả không làm dấu lạ, nhưng Đức Giê-su
thì làm nhiều dấu lạ. Điều này được minh chứng qua sáu dấu lạ Đức Giê-su đã
thực hiện trước đó (từ ch. 2 đến ch. 9).
3) “Các dấu lạ và những
điềm thiêng” (4,48)
Trong Tin Mừng Gio-an, từ “dấu lạ” (sêmeion) xuất hiện 1
lần trong cụm từ “Các dấu lạ và những điềm thiêng” (sêmeia kai terata) ở 4,48.
Khi viên quan chức nhà vua xin Đức Giê-su chữa bệnh cho đứa con trai ở
Ca-phác-na-um (4,46-47), Đức Giê-su nói với ông ấy ở 4,48: “Nếu các ông không thấy
dấu lạ, điềm thiêng (sêmeia kai terata), chắc chắn các ông không tin.” Tuy
nhiên, sau đó Đức Giê-su đã chữa lành con trai của viên quan chức nhà vua bằng
một lời nói. Người thuật chuyện kể ở 4,50: “Đức
Giê-su nói với ông ấy: ‘Ông hãy đi về, con ông sống.’ Người này tin vào
lời Đức Giê-su nói với mình và đi về.”
Trong Tin Mừng Nhất Lãm, cụm từ “Các dấu lạ và những điềm
thiêng” (sêmeia kai terata) xuất hiện trong diễn từ cánh chung ở Mc 13,22 // Mt
24,24. Đức Giê-su nói với các môn đệ ở Mc 13,22: “Vì sẽ có những Ki-tô giả và
ngôn sứ giả xuất hiện, làm những dấu lạ và những điềm thiêng (sêmeia kai
terata) để lừa gạt những người được tuyển chọn, nếu có thể.” Từ “dấu lạ”
(sêmeion) trong cụm từ “Các dấu lạ và những điềm thiêng” (sêmeia kai terata) có
nghĩa khác với từ “dấu lạ” (sêmeion) theo thần học Tin Mừng Gio-an để nói về
những hành động quyền năng Đức Giê-su đã thực hiện.
Kết luận
Tóm lại, 17 lần từ “sêmeion” trong Tin Mừng Gio-an xuất
hiện trong ba trường hợp sau:
(1) Các dấu lạ Đức Giê-su thực hiện (7 lần)
- Dấu lạ nước hoá thành rượu ngon, 1 lần 2,11.
- Dấu lạ cứu sống con trai một viên quan chức, 1 lần:
4,54.
- Dấu lạ chữa người 38 năm đau ốm, 1 lần: 7,31.
- Dấu lạ bánh hoá nhiều, 2 lần: 6,14.26.
- Dấu lạ chữa người mù từ thuở mới sinh, 1 lần: 9,16.
- Dấu lạ gọi La-da-rô ra khỏi mồ, 1 lần: 12,18.
(2) Người khác nói về dấu lạ của Đức Giê-su (6 lần)
- Ni-cô-đê-mô nói về các dấu lạ Đức Giê-su làm, 1 lần:
3,2.
- Thượng Hội Đồng Do Thái nói về các dấu lạ Đức Giê-su
làm, 1 lần: 11,47.
- Người thuật chuyện nói về các dấu lạ Đức Giê-su làm, 4
lần: 2,23; 6,2; 12,37; 20,30.
(3) Cách dùng khác của từ “sêmeion” (4 lần)
- Xin Đức Giê-su làm dấu lạ, 2 lần: 2,18; 6,30.
- Gio-an Tẩy giả không làm dấu lạ, 1 lần: 10,41.
- Kiểu nói: “Các dấu lạ và những điềm thiêng”, 1 lần:
4,48.
Những cách dùng khác nhau của từ “dấu lạ” (sêmeion) trong
Tin Mừng Gio-an như trên cho thấy ý nghĩa của đề tài “dấu lạ” khá phức tạp. Cần
đặt từ “dấu lạ” trong bối cảnh của từng đoạn văn để hiểu ý nghĩa của chúng. Các
nhân vật trong Tin Mừng nói đến “dấu lạ” với cách hiểu khác nhau. Các thượng tế
và những người Pha-ri-sêu nói về dấu lạ (11,47), nhưng họ không hiểu dấu lạ
theo nghĩa như Đức Giê-su muốn. Vì nếu họ thực sự hiểu ý nghĩa của dấu lạ Đức Giê-su
làm thì họ đã tin vào Người.
Trong kết luận thứ nhất (20,30-31), tác giả muốn người
đọc nhận ra tầm quan trọng của các dấu lạ Đức Giê-su đã làm. Cách thức tác giả
Tin Mừng thuật lại các dấu lạ kèm với diễn từ giải thích của Đức Giê-su, giúp
độc giả lĩnh hội ý nghĩa của dấu lạ để tin vào Người. Chẳng hạn, diễn từ sau
dấu lạ chữa lành người 38 năm đau ốm (ch. 5), diễn từ sau dấu lạ bánh hoá nhiều
(ch. 6), tranh luận sau dấu lạ chữa lành người mù từ thuở mới sinh (ch. 9). Ở
ch. 11, Đức Giê-su mặc khải ý nghĩa dấu lạ ở 11,25-26 trước khi gọi La-da-rô ra
khỏi mồ (11,43). Với cách trình bày “dấu lạ – diễn từ” như trên, cần xác
định rõ: “dấu lạ trong Tin Mừng Gio-an” (les signes johanniques) để phân biệt
với nghĩa khác của từ “sêmeion” (signe) trong Tin Mừng Nhất lãm hay trong các
bản văn khác của Tân Ước.
Tin Mừng Gio-an thuật lại bảy dấu lạ trong 12 chương đầu
(Ga 1–12) và một dấu lạ trong chương cuối (ch. 21). Dựa vào đặc điểm này, người
ta thường gọi 12 chương đầu của sách Tin Mừng (Ga 1–12) là “Sách Các Dấu Lạ”,
phần còn lại: Ga 13–21 là “Sách Giờ Tôn Vinh”, bởi vì Ga 13–21 cho biết ý
nghĩa (ch. 13–17) và diễn tiến (ch. 18–21) của biến cố Thương Khó – Phục Sinh.
Hai phần này liên kết chặt chẽ với nhau và soi sáng cho nhau. Một số tác giả
xem hai trình thuật Đức Giê-su thanh tẩy đền thờ (2,13-22) và Đức Giê-su rửa
chân cho các môn đệ (13,1-19) là dấu chỉ (sêmeion). Tuy nhiên, hai đoạn văn này
không nói rõ các biến cố thuật lại là “sêmeion” (dấu lạ). Tin Mừng Gio-an dùng
từ “sêmeion” để nói về những hành động quyền năng Đức Giê-su thực hiện, và chỉ
một mình Đức Giê-su là Đấng mặc khải mới có thể cho biết ý nghĩa của dấu lạ.
Mỗi dấu lạ mặc khải một số khía cạnh liên quan đến ba câu
hỏi quan trọng: Đức Giê-su từ đâu tới? Người là ai? Sứ vụ của Người là gì? Các
dấu lạ của Đức Giê-su liên hệ mật thiết với biến cố thập giá, vì chính vì những
dấu lạ Đức Giê-su đã thực hiện mà Thượng Hội Đồng Do Thái đã quyết định giết
Đức Giê-su (11,47-53). Nói cách khác, các dấu lạ trong Tin Mừng dẫn Đức Giê-su
đến biến cố “Giờ của Người” và ngược lại biến cố nghịch lý: “Giờ tôn vinh trên
thập giá” giúp các môn đệ và độc giả hiểu ý nghĩa đích thực các dấu lạ Đức
Giê-su đã làm trong sứ vụ công khai. Biến cố thập giá là biến cố nền tảng giúp
hiểu căn tính của Đức Giê-su và nhờ dấu lạ, độc giả có thể tin vào Người, đây
là mục đích của sách Tin Mừng, được nói đến trong kết luận thứ nhất ở 20,30-31.
Về phương diện ý nghĩa thần học, có thể nói trong Tin
Mừng Gio-an chỉ có “dấu lạ”, chứ không có “phép lạ”. Người thuật chuyện cố ý
không dùng từ “phép lạ” (dunamis) mà chỉ dùng từ “dấu lạ” (sêmeion), vì thế nếu
dùng từ “phép lạ” để nói về các “dấu lạ” trong Tin Mừng Gio-an là chưa cảm nhận
được nét độc đáo của thần học Gio-an về “dấu lạ”./.
Tác
giả: Giu-se LÊ MINH THÔNG, O.P.
Blog:
http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/
Email:
josleminhthong@gmail.com
Ngày 05 tháng 08 năm 2014.
Nguồn:
http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2013/01/tin-mung-gio-chi-co-dau-la-khong-co.html