Ga 19,35; 21,24. Lời chứng của môn đệ Đức
Giê-su yêu mến trong Tin Mừng Gio-an
Nội
dung
I.
Dẫn nhập
II.
“Người đã xem thấy, đã làm chứng” (19,35a)
1. Bản văn Ga 19,31-37
2. Bối cảnh văn chương 19,31-37
3. Máu và nước chảy ra từ cạnh sườn (19,34)
4. Lời chứng của ai?
5. Thấy thể lý và thấy
bằng con mắt đức tin
6. Nội dung lời chứng
a) Ống chân không bị đánh gãy (19,33 // 19,36)
b) Cạnh sườn bị đâm thâu (19,34 // 19,37)
c) Lời chứng (19,35) và lời Kinh Thánh (19,36-37)
7. Mục đích của lời chứng: “tin” (19,35d)
III. Người môn đệ đã làm chứng và đã viết ra
(21,24a)
1. So sánh giữa 19,35 và
21,24
2. Lời chứng đã được viết
ra (21,24b)
IV.
Kết luận
***
I. Dẫn nhập
Như đã trình bày trong bài viết “‘Lời chứng’ (marturia) và ‘làm chứng’ (martureô) trong
Tin Mừng Gio-an”, danh từ “lời chứng” liên quan đến người môn đệ Đức
Giê-su yêu mến xuất hiện 2 lần ở 19,35b; 21,24b, và động từ “làm chứng” liên
quan đến môn đệ này cũng xuất hiện 2 lần ở 19,35a; 21,24a. Bài viết này sẽ phân
tích hai câu (19,35; 21,24) liên quan đến lời chứng của người môn đệ Đức Giê-su
yêu mến.
II. “Người đã xem thấy, đã làm chứng”
(19,35a)
Theo Tin Mừng Gio-an, trong số các môn đệ Đức Giê-su chỉ
có người môn đệ Đức Giê-su yêu mến hiện diện dưới chân thập giá (19,26a). Sự
hiện diện quý báu đó làm cho môn đệ này trở thành chứng nhân trực tiếp về cuộc
Thương Khó của Đức Giê-su. Lời chứng liên quan đến biến cố quan trọng này được
thuật lại trong đoạn văn 19,31-37. Phần sau sẽ phân tích đoạn văn này qua bảy
mục: (1) Bản văn Ga 19,31-37, (2) Bối cảnh văn chương 19,31-37, (3) Máu và nước
chảy ra từ cạnh sườn Đức Giê-su (19,34), (4) Lời chứng của ai? (5) Thấy thể lý
và thấy bằng con mắt đức tin, (6) Nội dung lời chứng, (7) Mục đích của lời
chứng: “Để anh em tin” (19,35d).
1. Bản văn Ga
19,31-37
Bản văn Ga 19,31-37 và các trích dẫn khác lấy trong: Bản văn Gio-an, Tin Mừng và ba thư, Hy Lạp – Việt.
“19,31 Vì là ngày chuẩn bị lễ, những người Do Thái không để xác chết trên thập giá
trong ngày sa-bát – mà ngày sa-bát đó
là lễ lớn –, họ xin Phi-la-tô để đánh
gãy các ống chân của họ và mang xác đi. 32 Vậy lính tráng đến đánh gãy
các ống chân người thứ nhất và người khác cùng bị đóng đinh với Người (Đức
Giê-su). 33 Nhưng khi đến gần Đức Giê-su, vì
thấy Người đã chết rồi, họ không đánh gãy các ống chân của Người. 34
Nhưng một trong những người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn của Người, và ngay
tức thì, máu và nước chảy ra. 35 Người đã xem thấy (người môn đệ Đức Giê-su yêu
mến), đã làm chứng (mematurêken), và lời chứng (hê marturia) của người ấy là
xác thực; và người ấy biết rằng mình nói sự thật để cả anh em nữa (độc giả),
anh em tin. 36 Các việc này đã xảy ra để Kinh Thánh nên trọn: ‘Không một xương
nào của Người sẽ bị đánh gãy.’ 37 Lại có lời Kinh Thánh khác nói: ‘Họ sẽ nhìn
lên Đấng họ đã đâm thâu.’”
2. Bối cảnh
văn chương 19,31-37
Đoạn văn 19,31-37 thuộc đoạn văn lớn
hơn: 19,16b-42. Đoạn văn này thuật lại cuộc Thương Khó của Đức Giê-su, khởi đầu
bằng việc quân lính dẫn Đức Giê-su đi đóng đinh (19,16b-18) và kết thúc bằng
việc an táng Đức Giê-su trong ngôi mộ mới (19,41-42). Đoạn văn 19,16b-42 có thể
chia thành 7 tiểu đoạn:
“Lời chứng” và hành động “làm chứng” của môn đệ Đức
Giê-su yêu mến được nói tới ở 19,35, câu này thuộc tiểu đoạn 6 (19,31-37) trên
đây. Phần sau sẽ tập trung phân tích tiểu đoạn 19,31-37, thuật lại biến cố Đức
Giê-su không bị đánh gãy ống chân nhưng bị lưỡi đòng đâm thâu và lời chứng của
môn đệ Đức Giê-su yêu mến.
3. Máu và
nước chảy ra từ cạnh sườn (19,34)
Khi một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Đức Giê-su
(19,34a), người thuật chuyện cho biết: “Ngay tức thì, máu và nước chảy ra”
(19,34b). Hình ảnh này gợi lại nguồn nước sự sống Đức Giê-su đã nói ở 7,37-38:
“37 Vào ngày cuối cùng, ngày long trọng nhất của dịp lễ, Đức Giê-su đứng
lên và lớn tiếng nói: ‘Nếu ai khát hãy đến với Tôi và hãy uống. 38 Người tin
vào Tôi, như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng người ấy, sẽ tuôn chảy những dòng nước
sự sống.’” Người thuật chuyện giải thích lời này ở 7,39: “Điều đó, Người [Đức
Giê-su] nói về Thần Khí mà những người tin vào Người sẽ lãnh nhận. Tuy nhiên
Thần Khí chưa có, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh.” Như thế, “điều chưa có” ở
7,39 đã được thực hiện ở 19,34, nghĩa là lúc Đức Giê-su được tôn vinh trên thập
giá, như Người đã nói với các môn đệ về giờ chết của Người ở 12,23: “Giờ đã đến
để Con Người được tôn vinh.”
Trong Cựu Ước, hình ảnh nguồn nước
có thể áp dụng cho Thiên Chúa như là nguồn ơn cứu độ (Is 12,3); hoặc áp dụng
cho Giê-ru-sa-lem, nơi mọi dân tộc quy
tụ về (Dcr 14,8); cũng có thể áp dụng cho những người thực hành sự công chính
đích thực của Thiên Chúa, họ trở thành nguồn suối nước không thể khô cạn (Is
58,11). Có thể nói “mạch nước sự sống” ở Ga 4,14 và 7,38 biểu tượng cho Lề Luật
của Giao Ước mới được ghi khắc trong lòng con người. Trong viễn cảnh này, Đức
Giê-su trong Tin Mừng Gio-an được trình bày như là Đấng thực hiện lời hứa về
nguồn nước sự sống trong Cựu Ước.
Cách thức Tin Mừng Gio-an mô tả cái
chết của Đức Giê-su cũng gợi ý đến việc Người trao ban Thần Khí. Người thuật
chuyện kể ở 19,30: “Khi đã nếm giấm,
Đức Giê-su nói: ‘Đã hoàn tất’, và Người gục đầu xuống trao thần khí.” Diễn tả
cái chết của một con người bằng kiểu nói: “Gục đầu xuống trao thần khí
(paredôken to pneuma)” là không bình thường trong văn chương thời đó. Vì thế,
thành ngữ “trao ban thần khí (paredôken to pneuma)” (19,30d) có gợi ý đến việc
trao ban Thần Khí (pneuma) ở 7,39. Đức Giê-su sẽ chính thức trao ban Thần Khí
cho các môn đệ sau khi Người Phục Sinh. Người thuật chuyện kể về cuộc gặp gỡ
đầu tiên giữa Đức Giê-su Phục Sinh và các môn đệ ở 20,21-22: “21 [Đức Giê-su] lại nói với các ông (các
môn đệ): ‘Bình an cho anh em. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.’ 22
Nói xong điều đó, Người thổi hơi và nói với các ông: ‘Anh em hãy nhận lấy Thánh
Thần.’” Cách dùng từ “pneuma” (thần khí)
ở 7,39; 19,30 và 20,22 cho phép
hiểu rằng: Lúc Đức Giê-su trút hơi thở cuối cùng trên thập giá (19,30), cũng là
lúc Người trao ban Thần Khí (to pneuma) cho những ai tin vào Người.
4. Lời chứng của ai?
Ở 19,35a người thuật chuyện cho biết: “Người đã xem thấy,
đã làm chứng.” Bản văn không nói rõ là người môn đệ Đức Giê-su yêu mến
làm chứng, nhưng theo mạch văn, đó là người môn đệ này chứ không thể ai khác.
Thực vậy, trong đoạn văn 19,23-42, các nhân
vật của trình thuật gồm có: Lính tráng (họ), thân mẫu Đức Giê-su, các phụ nữ
khác và người môn đệ Đức Giê-su yêu mến. Môn đệ này đã chứng kiến những gì đang
xảy ra: Đức Giê-su chịu đóng đinh, Người chết trên thập giá và những việc quân
lính đã làm. Vì thế, lời chứng của “người đã xem thấy (ho heôrakôs)” (số ít) ở
19,35a không ai khác hơn là người môn đệ Đức Giê-su yêu mến. Các nhân vật khác
trong bản văn luôn được nói đến ở số nhiều: “lính tráng”, “các phụ nữ”.
Ở 19,35c xuất hiện đại từ “ekeinos” (người ấy): “Người ấy
(ekeinos) biết rằng mình nói sự thật.” Đại từ “ekeinos” (người ấy) trong câu
này là đại từ chỉ định, giống đực, số ít. Dựa vào cách dùng đại từ này trong
Tin Mừng Gio-an, một số tác giả cho rằng: “Người ấy” (ekeinos) ở 19,35c chỉ về
Thiên Chúa hay Đức Giê-su. Các tác giả này lập luận rằng đại từ nhấn mạnh
(cường điệu) “ekeinos” thường chỉ về Đức Giê-su (xuất hiện 3 lần ở 1,18; 2,21;
3,28) và chỉ về Thiên Chúa (xuất hiện 3 lần ở 1,33; 6,29; 8,42). Chúng tôi
không đồng ý cách hiểu: “Người ấy” (ekeinos) ở 19,35c chỉ về Thiên Chúa hay Đức
Giê-su, bởi vì về mặt ngôn ngữ, đại từ nhấn mạnh “ekeinos” (người ấy) dùng để
thay thế một nhân vật đã nói đến trước đó trong bản văn. Vì thế, “người ấy”
(ekeinos) ở 19,35c chỉ về “người đã xem thấy” ở 19,35a, và theo mạch văn,
“người đã xem thấy” chính là “người môn đệ đứng dưới chân thập giá”. Vậy lời
chứng ở 19,35 là của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến.
5. Thấy thể lý và thấy bằng con mắt đức tin
Người thuật chuyện mở đầu 19,35 như
sau: “Người
đã xem thấy, đã làm chứng” (19,35a). Động từ
“thấy” (horaô) trong Tin Mừng Gio-an thường diễn tả hành động “thấy” đạt thấu
mầu nhiệm mặc khải (xem 1,34; 19,35; 20,8.18.25.29…); đồng thời, động từ
“horaô” (thấy) cùng với các động từ khác cũng có nghĩa “thấy” như “theaomai”, “theôreô”
và “blepô”, hàm ẩn thấy thể lý, thấy bằng
mắt để làm chứng về điều mình đã chứng kiến. Tuy nhiên, không nhất thiết phải
“thấy” (horaô) bằng mắt để làm chứng vì Đức Giê-su nói với Tôma ở 20,29b: “Phúc
cho những người không thấy mà là những người tin.” Người tin qua mọi thời đại
làm chứng về Đức Giê-su bằng lòng tin của mình. Trong trường hợp môn đệ Đức
Giê-su yêu mến, lời chứng của môn đệ này ở 19,35 rất đặc biệt, bởi vì lời chứng
này dựa trên hai yếu tố: (1) Môn đệ này chứng kiến tận mắt sự kiện và (2) làm
chứng với tư cách là môn đệ Đức Giê-su, nghĩa là tin vào Người.
Trong Tin Mừng Gio-an không phải
“thấy” là có thể “làm chứng”. Theo thần học Tin Mừng này, điều kiện trước tiên
để làm chứng phải là môn đệ Đức Giê-su, nghĩa là chỉ “người tin vào Đức Giê-su”
mới có thể làm chứng về Người. Thật vậy,
trong đoạn văn 19,31-37, xét theo bên ngoài, những gì môn đệ Đức Giê-su yêu mến
đã thấy cũng là những gì quân lính đã thấy. Nhưng quân lính không thể làm chứng
vì họ không tin vào Đức Giê-su. Có thể nói môn đệ Đức Giê-su yêu mến còn “thấy”
những thực tại liên quan đến đức tin mà quân lính không “thấy”. Chẳng hạn, môn
đệ này nhận ra sự chết của Đức Giê-su trên thập giá trở thành nguồn sự sống cho
người tin. Môn đệ này thấy những gì xảy ra với Đức Giê-su đã ứng nghiệm các lời
loan báo trong Cựu Ước v.v... Vì thế, mục đích của lời chứng nhằm mời gọi tin
vào Đức Giê-su như người thuật chuyện kể ở 19,35c: “Người ấy (môn đệ Đức
Giê-su yêu mến) biết rằng mình nói sự thật để cả anh em nữa, anh em tin.”
I. de La Potterie nhận định: “Đối
với Tin Mừng theo thánh Gio-an, chứng nhân không phải là người đã chứng kiến
các sự kiện, chứng nhân là người làm chứng về lòng tin của
mình” (I. de LA POTTERIE, La
vérité dans saint Jean, t. I: Le Christ et la vérité L’Esprit et la vérité,
(Analecta Biblica 73), Rome, Biblical Institute Press, 1977, p. 82). Đối tượng của việc thấy thể lý cần được soi
sáng bởi lòng tin mới có thể làm chứng. Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến hội đủ
các yếu tố để làm chứng về Đức Giê-su, nên lời chứng của môn đệ này là nền tảng
cho đức tin của những người đã không thấy Đức Giê-su thể lý (20,29). Hơn nữa
lời chứng của môn đệ này bảo đảm sự xác thực của nội dung Tin Mừng, như soạn
giả ch. 21 đã khẳng định trong kết luận thứ hai ở 21,24: “Chính môn đệ này (môn
đệ Đức Giê-su yêu mến) là người làm chứng về những điều đó và là người đã viết
những điều đó, và chúng tôi biết rằng
lời chứng của người ấy là xác thực.”
6. Nội dung lời chứng
Lời chứng của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến ở 19,35 vừa
liên kết với những gì quân lính đã thực hiện, vừa liên kết với lời đã chép
trong Kinh Thánh. Cấu trúc đoạn văn 19,33-37 cho thấy các liên kết qua những
yếu tố song song: A, B, C, A’, B’.
Cấu trúc đoạn văn 19,33-37 cho thấy lời chứng của môn đệ
Đức Giê-su yêu mến (19,35) được đặt ở trung tâm và các yếu tố khác song song
với nhau (A // A’; B // B’). Hai hành động của quân lính: (A) 19,33: Quân
lính không đánh gãy các ống chân Đức Giê-su, và (B) 19,34: Một người lính lấy
giáo đâm vào cạnh sườn Đức Giê-su, song song với hai lời Kinh Thánh: (A’) Ga
19,36: “Không một xương nào của Người sẽ bị đánh gãy”, gợi đến Xh 12,46b; Tv
34(33),21, và (B’) Ga 19,37: “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu”, gợi đến Dcr
12,10; Kh 1,7. Theo thần học Tin Mừng Gio-an, những điều đã xảy ra đã ứng
nghiệm lời Kinh Thánh đã chép. Vì thế, có thể hiểu những biến cố xảy ra trong
cuộc đời Đức Giê-su làm cho lời Kinh Thánh được nên trọn, nên Đức Giê-su là
người thực hiện lời hứa của Thiên Chúa trong Cựu Ước.
a) Ống chân không bị đánh gãy (19,33 // 19,36)
Bản văn (19,33 // 19,36) cho thấy việc quân lính không
đánh gãy ống chân Đức Giê-su (A. 19,33) làm ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Không
một xương nào của Người sẽ bị đánh gãy” (A’. 19,36). Lời này gợi đến chỉ thị
Đức Chúa truyền cho Mô-sê về việc ăn thịt chiên trong lễ Vượt Qua ở Xh 12,46:
“Chỉ được ăn chiên trong nhà mà thôi; không được mang thịt ra khỏi nhà. Các
ngươi không được làm gãy một chiếc xương nào của nó.” (Trích dẫn Cựu Ước lấy
trong Bản dịch của NPD/CGKPV ấn bản 2011). Như thế, Đức Giê-su
được đồng hoá với con chiên dùng trong lễ Vượt Qua theo chỉ thị Đức Chúa truyền
cho ông Mô-sê và ông A-ha-ron (Xh 12,43).
Lời Kinh Thánh ở Ga 19,36 cũng gợi về Tv 34(33),20-21:
“20 Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân, nhưng CHÚA giúp họ luôn thoát
khỏi. 21 Xương cốt họ đều được CHÚA giữ gìn, dầu một khúc cũng không giập gãy.”
Thánh vịnh này nói về người công chính bị bách hại nhưng được Đức Chúa bảo vệ
chở che. Như thế, liên kết với Tv 34, Ga 19,36 muốn nói rằng: Chính Đức Giê-su
là người công chính bị bách hại, tuy gặp nhiều nỗi gian truân nhưng được Thiên
Chúa bảo vệ, giữ gìn; bằng chứng là không một xương nào của Đức Giê-su bị đánh
gãy (x. Ga 19,33b // 19,36b).
b) Cạnh sườn bị đâm thâu (19,34 // 19,37)
Sự kiện cạnh sườn Đức Giê-su bị đâm
thâu (B. 19,34) làm ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (B’. 19,37). Lời này gợi đến lời sấm của
ngôn sứ Da-ca-ri-a ở Dcr 12,9-10: “9 Ngày ấy, Ta (ĐỨC CHÚA) sẽ tìm cách tiêu
diệt mọi dân tộc tiến đánh Giê-ru-sa-lem. 10 Ta sẽ đổ ơn xuống cho nhà Đa-vít
và dân cư Giê-ru-sa-lem, giúp chúng biết sống đẹp lòng Ta và tha thiết cầu
nguyện. Chúng sẽ ngước nhìn lên Ta. Chúng sẽ khóc than Đấng chúng đã đâm thâu,
như người ta khóc than đứa con một. Chúng sẽ thương tiếc, như người ta thương
tiếc đứa con đầu lòng.” Những câu này (Dcr 12,9-10) thuộc phần lời sấm của Đức
Chúa phán về Ít-ra-en (Dcr 12–14) và mang chiều kích cứu độ vào thời Mê-si-a.
Nhân vật bí ẩn trong Dcr 12,10b: “Đấng chúng đã đâm thâu” được đồng hóa với Đức Giê-su là Đấng bị đâm thâu cạnh sườn sau
khi Người tắt thở trên thập giá. Người là Đấng Mê-si-a của Thiên Chúa, là Đấng
được Thiên Chúa sai đến để giải thoát và cứu độ nhân loại. Cạnh sườn Đức Giê-su
bị đâm thâu (B. 19,34) được sách Khải Huyền nói đến như dấu tích sự chiến thắng
dẫn đến ăn năn hối cải. Tác giả sách Khải Huyền viết ở Kh 1,7: “Kìa,
Người (Đức Giê-su Ki-tô) đến với đám
mây, mọi con mắt sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người. Vì Người, tất cả các
chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực. Đúng thế, a-men.” (Xem bản văn Sách Khải Huyền Hy Lạp – Việt, 2011.)
Tóm lại, Ga 19,37 gợi đến Dcr 12,10
và Kh 1,7. Sự liên hệ giữa các bản văn này vừa làm rõ ý nghĩa cái chết của Đức
Giê-su, vừa báo trước sự chiến thắng của Người, qua đó muôn dân sẽ nhận biết và
tin vào Người. Đức Giê-su đã nói với những người Do thái ý tưởng này ở Ga
8,28a: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết rằng TÔI
LÀ.” Nghĩa là khi Đức Giê-su chết trên thập giá, mọi người sẽ nhận biết căn
tính thần linh của Người và chính Người trở thành nguồn ơn cứu độ cho nhân
loại. Đức Giê-su cũng báo trước điều này cho đám đông ở Ga 12,32: “Phần Tôi,
một khi được giương cao khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi.” Trong
viễn cảnh này, thần học Tin Mừng Gio-an khẳng định rằng: Giờ chết của Đức
Giê-su là giờ Người được tôn vinh, là giờ Chúa Cha tôn vinh Người và Người tôn vinh
Chúa Cha. Đức Giê-su ngỏ lời với Cha của Người ngay trước biến cố Thương Khó:
“Lạy Cha, giờ đã đến, xin tôn vinh Con của Cha, để Con tôn vinh Cha” (Ga 17,1).
Đây là Giờ Đức Giê-su bày tỏ thiên tính của Người như là “Đấng Ta Là”.
(Xem bài viết: “‘Ta Là’ (egô eimi) trong Tin Mừng Gio-an.”
c) Lời chứng (19,35) và lời Kinh Thánh (19,36-37)
Những phân tích trên cho thấy môn đệ Đức Giê-su yêu mến
làm chứng (C. 19,35) hai điều: (A. 19,33) chân của Đức Giê-su không bị đánh gãy
và (B. 19,34) nước và máu đã chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu. Song song với
hai điều trên, người môn đệ này cũng làm chứng là lời Kinh Thánh được ứng
nghiệm, liên quan đến những gì đã xảy ra (A’. 19,36, B’. 19,37).
Lời chứng của môn đệ này dựa vào những gì đã thấy tận mắt.
Hai động từ dùng trong câu: “Người đã xem thấy, đã làm chứng” (19,35a) là động
từ “thấy” (horaô) chia ở lối động tính từ (participe) thì hoàn thành (parfait)
và động từ “làm chứng” (martureô) chia ở lối trình bày (indicatif) thì hoàn
thành (parfait). Vì vậy, lời chứng của người môn đệ (19,35) đã xảy ra trong quá
khứ. Tuy nhiên, động từ “thấy” (horaô) trong lời ứng nghiệm Kinh Thánh ở 19,37b
lại chia ở thì tương lai: “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (19,37b). Như
thế, lời chứng của người môn đệ đặt trong quá khứ nhưng hướng về tương lai. Qua
mọi thế hệ, lời chứng này dẫn đến niềm tin vào Đức Giê-su và sự chiêm ngắm Đấng
bị đâm thâu như là Đấng cứu độ. Ai đón nhận và tin vào Đức Giê-su thì máu và
nước chảy ra từ cạnh sườn Đấng bị đâm thâu trở thành nơi người ấy nguồn nước
đem lại sự sống đời đời.
Tóm lại, lời chứng của môn đệ Đức
Giê-su yêu mến ở 19,35 bao gồm bốn yếu tố:
(1) Lời chứng dựa vào những gì đã
chứng kiến: “Người đã xem thấy đã làm chứng” (19,35a).
(2) Lời chứng theo đúng sự thật:
“Lời chứng của người ấy xác thực” (19,35b).
(3) Người làm chứng ý thức mình nói
sự thật: “Người ấy biết rằng mình nói sự thật” (19,35c).
(4) Mục đích của lời chứng là tin:
“Để cả anh em nữa, anh em tin” (19,35d).
7. Mục đích
lời chứng: “tin” (19,35d)
Mục đích lời chứng của môn đệ Đức
Giê-su yêu mến là để độc giả “tin” như người thuật chuyện cho biết ở 19,35c: “Người ấy (môn đệ Đức
Giê-su yêu mến) biết rằng mình nói sự thật để cả anh em nữa, anh em tin.” Chi tiết đáng lưu ý là người thuật chuyện đột
ngột ngưng kể câu chuyện để quay sang nói trực tiếp với độc giả qua đại từ “anh
em” (humeis), ngôi thứ hai số nhiều. Đại từ “anh em” (ngôi thứ nhất) trong câu
này hàm ẩn đại từ “tôi, chúng tôi” (ngôi thứ nhất) của người thuật chuyện. Kiểu
hành văn ngỏ lời trực tiếp với độc giả (ngôi thứ hai) là đặc trưng của Tin Mừng
Gio-an (x. 1,14; 3,11-12; 20,30-31; 21,24). Xem phân tích cách dùng đại từ ngôi thứ nhất (tôi, chúng tôi) và
ngôi thứ hai (anh em) trong tập sách: Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong
Tin Mừng thứ tư là ai?, tr. 224-231. Vai trò làm chứng của người môn đệ Đức Giê-su yêu
mến ở 19,35 nhằm mời gọi cộng đoàn và độc giả qua mọi thời đại, tin và tin mạnh
mẽ hơn vào Đức Giê-su. Lời chứng này cho thấy tầm quan trọng và uy thế của môn
đệ này trong Tin Mừng thứ tư và trong cộng đoàn đón nhận Tin Mừng.
R. A. Culpepper nhận định về lời chứng ở 19,35 như sau:
“Câu này (19,35) cho biết tầm quan trọng của người môn đệ được yêu. Người môn
đệ này là chứng nhân cho những người tin sau này. Trình bày sự hiện diện của môn đệ này vào lúc then chốt trong trình
thuật Thương Khó là cách thức để khẳng định hai điều: uy thế của người
môn đệ này như là một chứng nhân đích thực; hiểu ngầm uy thế và sự khả tín của
sách Tin Mừng. Tin Mừng có thể tin được, vì Tin Mừng dựa trên lời chứng của môn
đệ thân cận nhất với Đức Giê-su, người môn đệ này đã hiện diện khi Đức Giê-su
chết, đã thấy Chúa sống lại, và đã mang đến một bằng chứng chân thật” (R. A. CULPEPPER, John, the Son of Zebedee. The Life of a Legend, (SPNT), Columbia (SC),
University of South Carolina Press, 1994, p. 66). Xem bài viết: “Tin (pisteuô) trong Tin Mừng Gio-an.” Trong kết luận thứ hai
của sách Tin Mừng, soạn giả đã khẳng định lại lời chứng đích thực của người môn
đệ Đức Giê-su yêu mến ở Ga 21,24.
III. Môn đệ đã làm chứng và
đã viết ra (21,24a)
Trong chương cuối sách Tin Mừng thứ
tư (ch. 21), soạn giả (rédacteur) đã dựa vào lời chứng của môn đệ Đức Giê-su
yêu mến để kết luận sách Tin Mừng (21,24-25). Đồng thời, soạn giả khẳng định uy
thế của môn đệ này để bảo đảm sự chính thống nội dung sách Tin Mừng. Soạn giả
viết ở 21,24: “Chính môn đệ này (môn đệ Đức Giê-su yêu mến) là người làm chứng (ho marturôn) về những điều đó và là người đã viết những điều đó
và chúng tôi biết rằng lời chứng (hê marturia) của người ấy là xác thực.” Phần
sau sẽ bàn về lời chứng trong hai câu (19,35; 21,24) và vai trò của soạn giả
trong tương quan với bút tích của môn đệ Đức Giê-su yêu mến ở 21,24.
1. So sánh giữa 19,35 và 21,24
Ga 21,24 có những chi tiết song song
với 19,35, đồng thời mỗi câu có chi tiết riêng.
Đề tài “làm chứng” ở 19,35 song song với 21,24 về hai chi tiết: (1)
Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến đã làm chứng (19,35a // 21,24a), và (2) Đó là
lời chứng xác thực (19,35b.35c // 21,24c). Mỗi câu có một chi tiết riêng:
19,35d cho biết mục đích của lời chứng là “TIN”; còn 21,24b cho biết môn đệ Đức
Giê-su yêu mến đã viết ra lời chứng của mình. Như thế có bốn điều liên quan đến
người môn đệ này:
(1) Môn đệ này đã thấy và đã làm chứng (19,35a //
21,24a).
(2) Lời chứng này xác thực, có uy thế và đáng tin cậy
(19,35b.35c // 21,24c).
(3) Mục đích của lời chứng là để độc giả tin vào Đức
Giê-su (19,35d).
(4) Lời chứng này đã được ghi lại trong sách Tin Mừng
(12,24b).
Ở 21,24, đối tượng lời chứng của môn
đệ Đức Giê-su yêu mến là “những điều đó” (toutôn). Theo nghĩa hẹp, từ “toutôn”
(những điều đó) chỉ những gì đã xảy ra trong biến cố Thương Khó – Phục Sinh.
Theo nghĩa rộng, “toutôn” (những điều đó) gợi đến tất cả những hành động và lời
nói của Đức Giê-su trong suốt sứ vụ công khai của Người.
2. Lời chứng đã được viết ra (21,24b)
Môn đệ Đức Giê-su yêu mến là “người
đã viết” (hô grapsas) “những điều đó” (21,24b). Như thế, lúc soạn giả viết kết
luận thứ hai (21,24-25) thì đã có bút tích của người môn đệ này. Có thể nói,
cốt lõi bản văn Tin Mừng thứ tư là những gì môn đệ này làm chứng và đã viết ra;
nhưng chúng ta không biết rõ đoạn văn nào trong Tin Mừng hiện nay là do tay
người môn đệ này viết ra. Người biên soạn Tin Mừng lần sau cùng (soạn giả ch.
21) đã sắp xếp, triển khai, thêm bớt các đoạn văn để làm thành sách Tin Mừng
như chúng ta có hiện nay. Rất có thể soạn giả đã thống nhất bản văn từ đầu đến
cuối, vừa giữ lại những điểm độc đáo trong bản văn đã có, vừa xây dựng một nền
thần học chung của toàn bộ sách Tin Mừng thứ tư. Để
hiểu tính năng động trong quá trình biên soạn Tin Mừng thứ tư, chúng ta có thể
phân biệt ba nhân vật thuộc ba giai đoạn chính hình thành Tin Mừng thứ tư như
sau: (1) Bút tích của người môn đệ
Đức Giê-su yêu mến (21,24); (2) Tác giả sách Tin Mừng (l’évangéliste) là người
đã viết sách Tin Mừng ở giai đoạn đầu với kết luận ở 20,30-31; (3) Soạn giả (le
rédacteur), người đã biên soạn ch. 21, sắp xếp lại, thêm bớt một số đoạn văn để
làm thành bản văn Tin Mừng hiện nay. (Xem phân tích “Hai kết luận của
sách Tin Mừng Gio-an” trong tập sách: Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong
Tin Mừng thứ tư là ai?, tr. 232-236.
Soạn giả ch. 21 dùng đại từ ngôi thứ
nhất số nhiều “chúng tôi” để nói trực tiếp với độc giả ở 21,24c: “Chúng tôi
biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực.” Đây là lời xác quyết về tính
trung thực và liên tục của lời chứng được lưu truyền từ người môn đệ Đức Giê-su
yêu mến đến soạn giả cuối cùng của sách Tin Mừng.
Soạn giả còn tự xưng là “tôi” (đại từ ngôi thứ nhất số ít) ở 21,25: “Còn có
nhiều điều khác Đức Giê-su đã làm, nếu viết lại từng điều một, tôi thiết
nghĩ cả thế gian cũng không chứa nổi các sách được viết ra.” Cách xưng
hô “chúng tôi” ở 21,24c cho thấy soạn giả không phải là một người đơn độc. Soạn
giả là thành phần của một nhóm, một truyền thống, một trường phái, gọi là
“trường phái Gio-an” (l’école johannique, Johannine school). Tập thể này đã cưu
mang truyền thống thần học Tin Mừng Gio-an và góp phần biên soạn và hình thành
Tin Mừng hiện nay qua nhiều giai đoạn khác nhau. Cách xưng hô “tôi” (số ít) ở
21,25 xác định người chịu trách nhiệm biên soạn Tin Mừng, người này dựa vào uy
thế của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến và trường phái Gio-an để biên soạn và
xuất bản sách Tin Mừng. Xem bài viết: “Ga 21,20-25. Vận mệnh, bút tích và lời chứng của người môn
đệ Đức Giê-su yêu mến.”
IV. Kết luận
Những phân tích trên cho thấy đề tài “lời chứng” của
người môn đệ Đức Giê-su yêu mến chỉ xuất hiện ở 2 câu trong Tin Mừng: 19,35 và
21,24, nhưng đề tài này có vai trò đặc biệt quan trọng cho tính xác thực của
sách Tin Mừng và cho cộng đoàn Gio-an cũng như cho độc giả qua mọi thời đại. Có
thể tóm kết lời chứng của môn đệ này qua ba ý sau:
(1) Lời chứng của môn đệ Đức Giê-su yêu mến là lời chứng
xác thực, có uy tín và đáng tin cậy, bởi vì người môn đệ này vừa chứng kiến
biến cố bằng con mắt thể lý, vừa nhìn thấu sự kiện bằng con mắt đức tin. Đối
tượng của lời chứng chính là Đức Giê-su, người môn đệ này làm chứng về Đức
Giê-su qua những hoạt động trong sứ vụ của Đức Giê-su, qua biến cố Thương
Khó – Phục sinh và qua việc những lời Kinh Thánh được nên trọn nơi Đức Giê-su.
(2) Mục đích của lời chứng là để dẫn đưa độc giả đến niềm
tin và đón nhận giáo huấn của Người. Vì thế, nếu lời chứng không dẫn đến niềm
tin thì lời chứng vẫn chưa đạt mục đích là lời mời gọi tin.
(3) Lời chứng đã được ghi chép lại trong sách Tin Mừng và
đặt trong một truyền thống: bắt đầu từ bút tích của người môn đệ Đức Giê-su yêu
mến đến tác giả (l’évangéliste), và cuối cùng soạn giả (le rédacteur) là người
xuất bản sách Tin Mừng. Qua sách Tin Mừng, độc giả được mời gọi đón nhận lời
chứng xác thực này và tiếp nối việc “làm chứng” về “lời chứng” liên quan đến
căn tính, nguồn gốc và sứ vụ của Đức Giê-su được trình bày trong sách Tin Mừng
Gio-an./.
Tác
giả: Giu-se LÊ MINH THÔNG, O.P.
Blog:
http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/
Email:
josleminhthong@gmail.com
Ngày 07 tháng 07 năm 2014.
Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2013/10/loi-chung-va-lam-chung-cua-nguoi-mon-e.html
Bài viết này đã đăng ngày 12/10/2013 trên Blog http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/ với tựa đề: “‘Lời chứng’ và ‘làm chứng’ của
người môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng Gio-an.” Nhân dịp viết bài này
bằng tiếng Pháp, bài tiếng Việt được trình bày lại và đề ngày mới với tựa đề
tiếng Việt: “Ga 19,35; 21,24. Lời chứng của người môn đệ Đức Giê-su yêu
mến trong Tin Mừng Gio-an” và tiếng Pháp: “Jn 19,35; 21,24. Le témoignage du disciple que Jésus
aimait dans l’Évangile de Jean.”