ĐTC THĂM NGƯỜI TỊ NẠN
Ở MYTILENE TRÊN ĐẢO LESBOS, HY LẠP
Vatican
News (05.12.2021) - Lúc 08:30 sáng Chúa
Nhật 5/12, ĐTC rời Tòa Sứ thần, đi đến sân bay Athens cách đó 23km để bay đến
sân bay Mytilene trên đảo Lesbos, bắt đầu ngày thứ hai chuyến tông du bằng việc
thăm những người tị nạn ở “Trung tâm Tiếp nhận và Định danh”.
Đây là khu vực được
trang bị cho việc tiếp nhận những người tị nạn ở Mytilene. Nó thay thế trung
tâm tiếp nhận và định danh Mória, được biết đến nhiều hơn với tên gọi Trại tị
nạn Mória, là trại tị nạn lớn nhất ở Châu Âu cho đến tháng 9 năm 2020, khi nó
bị hỏa hoạn thiêu rụi. Trung tâm này nằm bên ngoài làng Mória gần Mytilene và
đó là nơi Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến thăm vào ngày 16/4/2016. Khu vực được
trang bị mới ở Mytilene thường được người Hy Lạp gọi là “Mória 2.0” và chào đón
hàng nghìn người.
ĐTC đến Trung tâm lúc
10:45, ngài đi dọc con đường dẫn vào nơi gặp gỡ và chào những người tị nạn tại
đây. Có khoảng 200 người tham dự cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha.
Buổi gặp gỡ bắt đầu
bằng một bài hát, sau đó, Tổng thống Hy Lạp đã có một bài phát biểu ngắn, tiếp
theo là chứng từ của một người tị nạn và một tình nguyện viên.
Đức Thánh Cha đã bắt
đầu bài diễn văn sau bài hát của một ca đoàn người tị nạn.
Bắt đầu bài diễn văn,
ĐTC nói:
Anh chị em thân mến,
Cảm ơn về những lời
của anh chị em. Tôi cảm ơn Bà Tổng thống, vì sự hiện diện và những lời của bà.
Thưa anh chị em, tôi lại đến đây để gặp anh chị em. Tôi ở đây để nói với anh
chị em rằng: tôi gần gũi anh chị em. Tôi nói từ trái tim. Tôi ở đây để nhìn
thấy khuôn mặt của anh chị em, để nhìn vào mắt anh chị em, đôi mắt đầy sợ hãi
và mong đợi, đôi mắt đã nhìn thấy bạo lực và nghèo đói, đôi mắt nhíu lại vì quá
nhiều nước mắt. Đức Thượng Phụ Đại Kết và người anh em Bartholomeo, cách đây 5
năm tại hòn đảo này, đã nói một điều khiến tôi bị đánh động: “Những người sợ
anh chị em đã không nhìn thẳng vào mắt của anh chị em. Những người sợ anh chị
em đã không nhìn vào khuôn mặt của anh chị em. Những người sợ anh chị em đã
không nhìn thấy con cái của anh chị em. Quên rằng phẩm giá và tự do vượt cao
hơn nỗi sợ hãi và chia rẽ. Quên rằng di cư không phải là vấn đề của Trung Đông
và Bắc Phi, của Châu Âu và Hy Lạp, nhưng là một vấn đề của thế giới ”( Diễn
văn, ngày 16 tháng 4 năm 2016).
Vâng, đó là một vấn
đề của thế giới, một cuộc khủng hoảng nhân đạo ảnh hưởng đến tất cả mọi người.
Đại dịch đã ảnh hưởng đến chúng ta ở cấp độ toàn cầu, nó khiến tất cả chúng ta
thấy mình đang ở trên cùng một con thuyền, nó khiến chúng ta học được thế nào là
có cùng nỗi sợ hãi. Chúng ta hiểu rằng các vấn đề lớn phải được giải quyết cùng
nhau, bởi vì trong thế giới ngày nay, các giải pháp rời rạc là không phù hợp.
Nhưng trong khi chúng ta hết mình tiêm chủng toàn cầu, dẫu cho có những chậm
trễ và do dự, hoặc có những bước tiến trong việc chống biến đổi khí hậu, nhưng
điều này dường như gặp một sự lẩn tránh khủng khiếp đối với vấn đề di cư. Tuy
nhiên, có nhiều người mà cuộc sống họ đang bị đe dọa! Tương lai của tất cả mọi
người đang bị đe dọa, và chỉ sẽ bình yên nếu được hội nhập. Chỉ khi được hòa
giải với những người yếu nhất thì tương lai đó mới thịnh vượng. Bởi vì khi
người nghèo bị từ chối, thì hòa bình cũng bị từ chối.
Lịch sử dạy chúng ta
rằng, sự đóng lại và chủ nghĩa quốc gia sẽ dẫn đến những hậu quả tai hại. Thật
vậy, như Công đồng Vatican II đã nhắc lại, “ý chí cương quyết muốn tôn trọng
người khác, những dân tộc khác cũng như phẩm giá của họ và sự ân cần thực thi
tình huynh đệ là những điều kiện thiết yếu để xây dựng hòa bình.” (Gaudium
et spes, 78). Thật là ảo tưởng khi nghĩ rằng, làm như vậy là đủ để mình
được an toàn, bảo vệ bản thân khỏi những kẻ yếu nhất đến gõ cửa chúng ta. Trong
tương lai, chúng ta còn tiếp xúc với nhau nhiều hơn. Để làm tương lai trở nên
tốt đẹp, điều chúng ta cần, không phải là những hành động đơn phương, nhưng là
những chính sách mở rộng. Tôi nhắc lại, lịch sử đã dạy điều đó, nhưng chúng ta
chưa học được. Đừng quay lưng lại với thực tế, đừng mãi thoái thác trách nhiệm,
đừng luôn đẩy vấn đề di cư cho người khác, như thể chẳng ai liên can và đó chỉ
là một gánh nặng vô ích mà ai đó buộc phải gánh vác!
Những chị em, anh em,
những khuôn mặt và ánh mắt của anh chị em yêu cầu chúng ta không quay lưng lại,
không phủ nhận nhân tính chung của chúng ta, biến câu chuyện của anh chị em
thành của chúng ta và đừng quên những thảm kịch của anh chị em. Elie Wiesel,
nhân chứng của thảm kịch lớn nhất thế kỷ qua, đã viết: “Chính vì tôi nhớ về sự
khởi đầu chung của chúng ta mà tôi xích lại gần hơn với đồng loại của mình. Đó
là bởi vì tôi không quên rằng tương lai của họ cũng quan trọng như tương lai
của tôi.” (From the Kingdom of Memory, Reminiscences, New York, 1990,
10). Vào Chúa Nhật này, tôi cầu xin Chúa đánh thức chúng ta khỏi sự khước từ
của chúng ta đối với những người đau khổ, đánh thức chúng ta khỏi chủ nghĩa cá
nhân vốn loại trừ người khác, đánh thức những trái tim bị điếc của chúng ta
trước nhu cầu của người khác. Và tôi cũng kêu gọi mọi người: chúng ta hãy vượt
qua sự tê liệt của nỗi sợ hãi, sự thờ ơ giết chết, sự thờ ơ yếm thế kết án tử những
người bên lề bằng đôi găng tay nhung lụa! Chúng ta hãy phản đối tận gốc tư
tưởng thống trị, tư tưởng xoay quanh cái tôi, cái tôi cá nhân và quốc gia ích
kỷ, vốn trở thành thước đo và tiêu chí của mọi thứ.
Năm năm đã trôi qua
kể từ chuyến thăm được thực hiện tại đây với những người anh em thân yêu
Bartolomeo và Jeronymos. Sau tất cả thời gian này, chúng ta vẫn thấy rằng, vấn
đề di cư chẳng mấy thay đổi. Tất nhiên, nhiều người đã dấn thân chào đón và hội
nhập, và tôi muốn cảm ơn nhiều tình nguyện viên và những người ở mọi cấp - tổ
chức, xã hội, từ thiện - đã thực hiện những nỗ lực to lớn, chăm sóc người dân
và vấn đề di cư. Tôi ghi nhận sự dấn thân hỗ trợ và xây dựng các cơ sở tiếp
nhận xứng đáng, và tôi chân thành cảm ơn người dân địa phương vì những điều tốt
đẹp mà họ đã làm, và nhiều hy sinh mà họ đã cố gắng. Nhưng chúng ta phải cay
đắng thừa nhận rằng, đất nước này, cũng như những nước khác, vẫn đang chịu
nhiều áp lực, và ở Châu Âu có những người vẫn cương quyết coi vấn đề này như
một việc mà họ không quan tâm. Và bao nhiêu điều kiện không xứng đáng với con
người! Có bao nhiêu điểm nóng nơi người di cư và người tị nạn
sống trong điều kiện hạn chế, mà không có giải pháp nào phía trước! Tuy nhiên,
sự tôn trọng đối với các cá nhân và quyền con người, điều không ngừng được cổ
võ trên toàn cầu, đặc biệt ở lục địa này, cần phải luôn được bảo vệ, và phẩm
giá của mỗi người phải được đặt lên hàng đầu. Thật đáng buồn khi nghe đề xuất
như một giải pháp rằng nguồn quỹ chung được sử dụng để xây tường. Tất nhiên, chúng
ta hiểu những nỗi sợ hãi và bất an, khó khăn và nguy hiểm. Người ta cảm thấy
mệt mỏi và thất vọng, càng trở nên trầm trọng hơn bởi các cuộc khủng hoảng kinh
tế và đại dịch, nhưng không phải bằng cách dựng lên các hàng rào thì các vấn đề
được giải quyết và sự chung sống được cải thiện. Thay vào đó, cần chung sức để
chăm sóc người khác theo khả năng thực tế của mỗi người và tuân theo luật pháp,
luôn đặt giá trị không thể chuyển nhượng của sự sống mỗi người lên hàng đầu.
Elie Wiesel còn nói: “Khi tính mạng con người bị đe dọa, khi phẩm giá con người
gặp nguy hiểm, thì biên giới quốc gia trở thành vô nghĩa” (Diễn văn nhận
giải Nobel Hòa bình, ngày 10 tháng 12 năm 1986).
Trong nhiều xã hội
khác nhau, có những đối kháng về ý thức hệ giữa an ninh và liên đới, địa phương
và phổ quát, truyền thống và cởi mở. Thay vì tranh cãi về các ý tưởng,
thì sẽ hữu ích hơn nếu bắt đầu với thực tế: hãy dừng lại, mở rộng
tầm nhìn của chúng ta, dìm mình vào các vấn đề của đa số nhân loại, của nhiều
nhóm nạn nhân của các trường hợp khẩn cấp nhân đạo mà chính họ không tạo ra
nhưng lại phải gánh chịu, sau những chương dài lịch sử khai thác và hiện vẫn
đang diễn ra. Người ta dễ dàng lôi kéo dư luận bằng cách khơi dậy nỗi sợ hãi về
người khác. Nhưng tại sao chúng ta không nói, với cùng một thái độ, về sự bóc
lột người nghèo, về những cuộc chiến bị lãng quên và thường được tài trợ mạnh
tay, về những thỏa thuận kinh tế được thực hiện trên xương máu của người dân,
về những thủ đoạn ẩn giấu để buôn bán vũ khí và phát triển thương mại vũ khí? Cần
đối diện với những nguyên nhân sâu xa, chứ không phải bắt dân nghèo gánh chịu
hậu quả, thậm chí bị lợi dụng để tuyên truyền chính trị! Để loại bỏ các nguyên
nhân gốc rễ, không thể chỉ dừng lại ở các trường hợp khẩn cấp. Những hành động
phối hợp là cần thiết. Những thay đổi mang tính biểu tượng cần được tiếp cận
với tầm nhìn xa. Bởi vì không có câu trả lời dễ dàng cho các vấn đề phức tạp.
Thay vào đó, cần phải đồng hành với các tiến trình từ bên trong, để vượt qua sự
cô lập và khuyến khích hội nhập dần dần và thiết yếu, để chào đón các nền văn
hóa và truyền thống của những người khác một cách huynh đệ và có trách nhiệm.
Trên tất cả, nếu
chúng ta muốn bắt đầu lại, chúng ta hãy nhìn vào khuôn mặt của những đứa trẻ.
Chúng ta tìm thấy can đảm để xấu hổ trước chúng, những người vô tội và là tương
lai. Họ đặt câu hỏi về lương tâm của chúng ta và hỏi chúng ta: “Loại thế giới
quý vị để lại cho chúng tôi?” Chúng ta đừng lạnh lùng lảng tránh những hình ảnh
sống sượng của những tấm thân bé nhỏ nằm bất động trên các bãi biển. Địa Trung
Hải, nơi hàng thiên niên kỷ đã gắn kết các dân tộc khác nhau và những vùng đất
xa xôi, đang trở thành một nghĩa trang lạnh lẽo không bia mộ. Hồ nước rộng lớn
này, cái nôi của nhiều nền văn minh, giờ đây trông giống như một tấm gương chết
chóc. Chúng ta đừng để biển của chúng ta (mare nostrum)
biến thành biển của sự chết (mare mortuum) hoang tàn, đừng để
nơi gặp gỡ này trở thành sân khấu của sự đối đầu! Đừng để “biển của ký ức” này
biến thành “biển của sự lãng quên”. Tôi kêu gọi hãy ngăn chặn sự nhấn
chìm của nền văn minh này!
Trên các bờ biển này,
Thiên Chúa đã trở thành người. Nơi đây, Lời của Người được vang vọng, loan báo
rằng: Thiên Chúa là “Cha và là Đấng hướng dẫn tất cả mọi người” (St. GREGORY OF
NAZIANZO, Discorso 7 per il fratello Cesario, 24). Người yêu chúng
ta như những người con và muốn chúng ta là anh em của nhau. Ngược lại, Thiên
Chúa bị xúc phạm khi con người vốn được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa bị
xem thường, khi con người bị phó mặc cho sóng biển, trong sự phủi tay thờ ơ,
đôi khi ngay cả được biện minh nhân danh điều được cho là các giá trị Kitô
giáo. Trái lại, đức tin đòi hỏi lòng trắc ẩn và lòng thương xót. Nó thúc đẩy
lòng hiếu khách, là tình yêu đối với người xa lạ (philoxenia) đã
thấm nhuần văn hóa cổ điển, và được biểu lộ rõ ràng nơi Chúa Giêsu, đặc biệt
trong dụ ngôn Người Samari nhân hậu (Lc 10,29-37) và trong những lời của chương
25 Tin Mừng theo thánh Matthêu (x. cc. 31-46). Đây không phải là một ý thức hệ
tôn giáo, nhưng là cội rễ Kitô giáo cách cụ thể. Chúa Giêsu đã long
trọng khẳng định rằng, Người hiện diện ở đó, nơi người lạ, người tị nạn, người
mình trần và đói khát. Và đường lối Kitô giáo được tìm thấy nơi Chúa Giêsu.
Vâng, như Đức Giáo Hoàng Biển Đức đã viết: đường lối Kitô giáo “là một con tim
biết nhìn”. (Thông điệp Thiên Chúa là Tình yêu, 31).
Bây giờ chúng ta hãy
cầu xin Đức Mẹ mở mắt cho chúng ta trước những đau khổ của anh chị em mình. Mẹ
đã vội vã lên đường đến với người chị họ Elizabeth đang mang thai. Biết bao
người mẹ mang thai đã chết khi đang hành trình vội vã ngay cả khi đang mang
trong mình sự sống! Xin Mẹ Thiên Chúa giúp chúng ta có một cái nhìn mẫu tử,
biết nhìn thấy người khác là những người con của Thiên Chúa, là anh chị em để
được chào đón, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập; và để được yêu một cách dịu
dàng. Xin Mẹ Rất Thánh dạy chúng ta đặt thực tế của nhân loại lên trên những ý
tưởng và ý thức hệ, và có những bước tiến vội vã để gặp gỡ những người đau khổ.
Sau bài diễn văn, Đức
Thánh Cha đã mời mọi người cùng đọc Kinh Truyền Tin.
Kết thúc buổi gặp gỡ,
Đức Thánh Cha thăm một số người tị nạn và năm nơi ở của họ. Sau đó, ngài ra sân
bay để trở về Athens. Buổi chiều, Đức Thánh Cha dâng thánh lễ với cộng đoàn
Công giáo tại “Thính phòng Megaron” của Athens.
Văn Yên, SJ
Trích nguồn: https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2021-12/dtc-tham-nguoi-ti-nan-o-mylinene-tren-dao-lesbos-hylap.html