Biến cố chính của đức tin là chiến thắng của
Thiên Chúa trên khổ đau và cái chết
Biến cố chính của đức tin là
chiến thắng của Thiên Chúa trên khổ đau và cái chết. Chúa Giêsu xin cho Ngài
cái chết của chúng ta, để giải thoát chúng ta khỏi nó, và trao ban sự sống trở
lại cho chúng ta.
ĐTC Phanxicô đã nói như trên
trong bài giàng thánh lễ phong hiển thánh cho chân phước linh mục Stanislao
Chúa Giêsu Maria Papczynski, người Ba Lan, và nữ Chân phước Maria Elisabetta
Hesselblad, người Thụy Điển, cử hành lúc 10 giờ rưỡi sáng Chúa Nhật hôm qua
trước thềm đền thờ thánh Phêrô.
Cùng đồng tế với ĐTC có
470 vị gồm các Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục và linh mục. Đảm trách phần
thánh ca trong thánh lễ ngoài ca đoàn Sistina của Toà Thánh, còn có ca đoàn
hướng dẫn, ca đoàn giáo phận Concorida Podenone, ca đoàn Goteborg và ca đoàn
Bro Chamber.
Tham dự thánh lễ cũng có giới
chức đạo đời của hai nước Ba Lan và Thụy Điển, gồm tổng thống Ba Lan, Bộ trưởng
văn hóa và tôn giáo và đại sứ của hai nước, cũng như hơn 50.000 tín hữu và du
khách hành hương, trong đó cũng có một số linh mục tu sĩ Việt Nam đang tu học
tại Roma, và vài vị đến từ Thụy Điển.
Sau lời chào đầu lễ cộng đoàn
đã hát kinh xin Chúa Thánh Thần đến. Tiếp đến ĐHY Angelo Amato, Tổng trường Bộ
Phong Thánh, xin ĐTC tôn phong hai chân phước lên hàng hiển thánh và ngài đọc
tiểu sử của hai vị.
Chân phước Stanislao Giêsu
Maria Papczynski sinh năm 1631 tại Podegrodzie, trong tổng giáo phận Cracovia,
bên Ba Lan. Sau thời gian huấn luyện, Stanislao gia nhập dòng các cha Scolopi,
rồi được thụ phong Linh Mục. Cha nổi tiếng là bậc thầy của khoa hùng biện và
giảng thuyết, cũng như là cha giải tội, đặc biệt là của Đức Sứ Thần Toà Thánh
Antonio Pignatelli, sau này sẽ là ĐGH Innocenzo XII, và của vua Gioan III
Sobieski. Cha viết cuốn Templum Dei Misticum Đền thờ thần bí của Thiên Chúa,
trong đó cha trình bầy chương trình cuộc sống thiêng liêng, nhất là cho giáo dân,
vì cha xác tin rằng họ cũng được mời gọi nên thánh.
Năm 1670 cha Papczynski ra khỏi
dòng Scolopi với phép chuẩn, và thành lập một dòng mới với tên gọi là “Tu sĩ
thánh mẫu của Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội”, với đặc sủng phổ biến lòng tôn sùng
Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, cầu nguyện cho các linh hồn trong luyện ngục, đặc
biệt cho các nạn nhân chiến tranh và dịch hạch, và trợ giúp mục vụ cho các cha
sở.
Với phép của ĐC Stefano
Wierzbowski, GM Poznan, cha lui về tịch liêu Korabiew, xây nhà đầu tiên của
dòng và viết Hiến pháp. Tiếp đến cha sống tại một nhà thờ nhỏ gọi là “Nhà tiệc
ly của Chúa tại Giêsusalem mới, nay là Gora Kalwaria, cùng với các anh em cùng
dòng hoạt động tông đồ và bác ái, trợ giúp dân nghèo vùng quê.
Cha Stanislao đã về Roma để xin
Toà Thánh chấp nhận dòng và dòng đã được Toà Thánh chấp nhận năm 1699. Giai
đoạn cuối cùng cuộc đời cha bị ghi dấu bởi bệnh tật. Và cha đã qua đời trong
hương thơm thánh thiện ngày 17 tháng 9 năm 1701 và được an táng trong nhà thờ
Tiệc Ly tai Gora Kalwaria. Cha đã được ĐTC Biển Đức XVI phong Chân phước ngày
16 tháng 9 năm 2007.
Chị Maria Elisabetta Hesselblad
sinh tại Faglavik bên Thuỵ Điển ngày mùng 4 tháng 6 năm 1870. Ngày từ ngày còn
bé, khi nghe lời Chúa liên quan tới một chuồng chiên và một mục tử duy nhất, cô
đã bắt đầu tuy tư về sự hiệp nhất trong Giáo Hội. Năm lên 18 tuổi để giúp gia
đình chị Maria Elisabetta di cư sang Mỹ tìm việc làm. Chính trong môi
trường mới này chị tiếp xúc với các tín hữu công giáo, và bắt đầu con đường
tiến tới gần Giáo Hội và lãnh nhận bí tích Rửa Tội năm 1902. Vì một tật
bệnh đã có từ hồi còn nhỏ nay trở lại, chị hầu như gần chết, và ước mong qua
đời tại Nhà thánh nữ Brigida ở Roma. Vì thế chị sang Roma và chính tại đây chị
đã cảm nhận được ơn gọi sống đời tu trì, xin gia nhập và khấn trong dòng
Brigida. Tại Roma chị Maria Elisabetta nhận 3 ứng sinh người Anh và cùng
với các chị này bắt đầu thành lập một dòng mới lấy tên là dòng Chúa Cứu
Thế Rất Thánh của thánh nữ Brigida. Được linh hứng bởi một tinh thần truyền
giáo mãnh liệt và nồng nhiệt đối với sự hiệp nhất của các tín hữu kitô, chị quảng
đại phục vụ và trợ giúp dân nghèo trong thời Đệ Nhị Thế Chiến và đã được các
chính quyền và dân chúng ghi ơn. Chị qua đời tại Roma ngày 24 tháng 4 năm 1957.
Trong Năm Thánh 2000 chị đã được ĐTC Gioan Phaolô II tôn phong Chân phước. Mới
đây ĐTC Phanxicô đã cho phép Bộ Phong Thánh công bố các sắc lệnh nhìn nhận các
phép lạ nhờ lời bầu cử của hai chân phước. Hồi tháng 3 năm nay ĐTC đã họp
công nghị các Hông Y và quyết định tôn hai vị lên hàng hiển thánh.
Sau lời nguyện của ĐTC cộng
đoàn đã hát kinh cầu các Thánh. Tiếp đến ĐTC đã đọc công thức ghi tên hai chân
phước vào trong sổ bộ các thánh. Thánh tích của hai vị đã được rước lên đặt
trên bệ cao bên trái bàn thờ, và được Phó tế xông hương. ĐHY Amato đã cám ơn
ĐTC tôn phong hai chân phước lên hàng hiển thánh.
Thánh lễ đã tiếp tục với
kinh Vinh danh và phần phụng Lời Chúa. Bài đọc thứ nhất bằng tiếng Anh, Thánh
vịnh được hát bằng tiếng Ý, bài đọc hai bằng tiếng Ba Lan. Phúc Âm đã được hát
bằng tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp.
Giảng trong thánh lễ ĐTC
đã quảng diễn ý nghĩa các bài đọc Chúa Nhật thứ 10 thường niên năm
C kể lại phép lạ ngôn sứ Elia đã làm để cho con bà goá thành Sarepta hồi sinh,
và phép lạ Chúa Giêsu đã làm cho anh con trai bà goá thành Naim sống lại.
Ngài nói: Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe tuyên đọc dẫn chúng ta tới biến cố
chính của đức tin: đó là chiến thắng của Thiên Chúa trên khổ đau và cái chết.
Đó là Tin Mừng của hy vọng vọt lên từ Mầu nhiệm phục sinh của Chúa Kitô, giãi
toả từ gương mặt Ngài, vén mở Thiên Chúa Cha Đấng an ủi của người sầu khổ. Lời
ấy mời gọi chúng ta kết hiệp mật thiết với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, Chúa
chúng ta, để quyền năng sự phục sinh của Ngài được tỏ hiện nơi chúng ta. ĐTC
giải thích thêm như sau:
Thật vậy, trong cuộc khổ nạn
của Chúa Kitô có câu trả lời của Thiên Chúa cho tiếng kêu âu lo và đôi khi giận
dữ, mà kinh nghiệm của khổ đau và cái chết dấy lên trong chúng ta. Đây không
phải là trốn chạy Thập giá, nhưng ở lại đó, như Trinh Nữ Mẹ đã làm, Mẹ là Đấng,
khi cùng chịu khổ đau với Chúa Giêsu, đã nhận được ơn hy vọng chống lại mọi hy
vọng (x. Rm 4,18).
Đây cũng đã là kinh nghiệm của
hai chân phước Stanislao Giêsu Maria và Maria Elisabetta Hesselblad, mà hôm nay
chúng ta tôn phong lên hàng hiển thánh: hai vị đã kết hiệp mật thiết với cuộc
khổ nạn của Chúa Giêsu, và nơi các vị đã tỏ lộ quyền năng sự phục sinh của
Ngài.
Bài đọc thứ nhất và Phúc Âm của
của Chúa Nhật hôm nay giới thiệu với chúng ta hai dấu chỉ lạ lùng của sự sống
lại, dấu chỉ thứ nhất do ngôn sứ Elia làm, dấu chỉ thứ hai do Chúa Giêsu làm.
Trong cả hai trường hợp, người chết là hai con trai rất trẻ của hai bà goá được
hồi sinh và trả lại cho mẹ họ.
Người đàn bà Sarepta, là phụ nữ
không do thái, nhưng đã tiếp đón ngôn sứ Elia vào nhà; bà nổi giận với ngôn sứ
và với Thiên Chúa, bởi vì chính trong lúc ngôn sứ là khách trọ nhà bà, thì đứa
con trai của bà bị đau và tắt thở trên tay bà. Khi đó ngôn sứ Elia nói với bà:
“Hãy đưa con bà cho tôi” (1 V 17, 19). Đây là từ chià khóa: nó diễn tả thái độ
của Thiên Chúa trước cái chết của chúng ta, trong mọi hình thái của nó; ngôn sứ
không nói: “Hãy giữ lấy nó và tự liệu lấy” nhưng nói: “Hãy đưa nó cho tôi”.
Thật vậy ngôn sứ đã bế đứa bé, đưa nó lên phòng bên trên, và ở đó một mình
“chiến đấu với Thiên Chúa” trong lời cầu nguyện, bằng cách đặt để Thiên
Chúa trước sự vô lý của cái chết. Và Chúa đã lắng nghe lời cầu của ngôn sứ
Elia, bởi vì chính Ngài là Thiên Chúa nói và hành động qua ông. Chính Ngài, qua
miệng ngôn sứ, đã nói với người đàn bà: “Đưa con bà cho tôi”. Và bây giờ chính
ngôn sứ trả lại đứa con sống cho bà mẹ.
Tiếp tục bài giảng ĐTC nói: Sự
dịu hiền của Thiên Chúa được mạc khải tràn đầy nơi Chúa Giêsu. Chúng ta đã nghe
trong Tin Mừng (Lc 7, 11-17) Chúa Giêsu cho thấy Ngài rất cảm thương bà góa
thành Naim ở Galilêa, đang đi theo đứa con trai duy nhất còn thanh xuân ra mộ.
Nhưng Chúa Giêsu tới gần, đụng vào cáng, chặn đoàn người đưa đám lại, và chắc
chắn đã vuốt ve gương mặt đầy nước mắt của bà mẹ đáng thương ấy. Ngài nói với
bà: “Đừng khóc” (Lc 7,13) như thể nói với bà: “Hãy cho tôi con bà”. Chúa Giêsu
xin cho Ngài cái chết của chúng ta, để giải thoát chúng ta khỏi nó, và trao ban
sự sống trở lại cho chúng ta Thật thế, thanh niên ấy tỉnh dậy như thể từ một
giấc ngủ sâu, và bắt đầu nói. Và Chúa Giêsu trả cậu lại cho mẹ cậu”
(c.15). Ngài không phải là một nhà ảo thuật! Ngài là sự dịu hiền của Thiên Chúa
nhập thể, nơi Ngài hoạt động sự cảm thương vô biên của Thiên Chúa Cha.
Cũng là một loại phục sinh sự
sống lại của tông đồ Phaolô, từ kẻ thù nghịch và bách hại tàn bạo các kitô hữu
đã trở thành chứng nhân và người loan báo Tin Mừng (x. Gl 1,13-17). Sự thay đổi
triệt để này đã không phải là công trình của thánh nhân, mà là ơn lòng thương
xót của Thiên Chúa, là Đấng đã chọn thánh nhân và kêu gọi thánh nhân với ơn của
Chúa, và muốn mạc khải trong thánh nhân Con của Ngài, để thánh nhân loan báo
Chúa giữa muôn dân (cc. 15-16). Thánh Phaolô nói rằng Thiên Chúa Cha đã hài
lòng mạc khải Con của Ngài, không phải chỉ cho thánh nhân, nghĩa là hầu như in
trong con người, thịt xác và tinh thần của thánh nhân, cái chết và sự phục sinh
của Chúa Kitô. Như thế, tông đồ sẽ không chỉ là một sứ giả, mà trước hết là một
chứng nhân. Áp dụng vào cuộc sống chúng ta ĐTC nói:
Và cả với những người tội lỗi,
từng người một, Chúa Giêsu không ngừng làm rạng ngời lên chiến thắng của ơn
thánh trao ban sự sống. Ngài nói với Mẹ Giáo Hội: “Hãy cho ta các con ngươi”,
là chúng ta tất cả. Ngài nhận lấy trên Ngài các tội lỗi của chúng ta, Ngài cất
chúng đi và trao ban chúng ta sống cho chính Giáo Hội. Và điều này xảy ra trong
Năm Thánh Lòng Thương Xót này.
Ngày hôm nay Giáo Hội cho chúng
ta thấy hai người con là chứng nhân gương mẫu của mầu nhiệm phục sinh này. Cả
hai đều có thể ca hát đời đời, với các lời của tác giả Thánh vịnh: “Ngài đã
thay đổi tiếng than van của con thành vũ điệu. Ôi Chúa, lậy Thiên Chúa của con,
con sẽ tạ ơn Ngài luôn mãi” (Tv 30, 12). Và chúng ta tất cả hãy hiệp tiếng nói
rằng: “Con sẽ chúc tụng Chúa, vì Ngài đã nâng con dậy”.
Các lời nguyện giáo dân đã được
đọc trong các thứ tiếng: Tây Ban Nha, Thụy Điển, Bồ Đào Nhà, Ý và Hoa. Các lễ
vật đã được một gia đình 5 gồm cha mẹ với 3 con và 3 nữ tu dâng lên ĐTC.
Hàng chục linh mục đã giứp ĐTC
cho tín hữu rước lễ.
Trước khi đọc kinh Truyền Tin
và ban phép lành cho mọi người ĐTC đã ngỏ lời chào và đăc biệt cám ơn các phái
đoàn chính thức của hai nưóc đã đến tham dự thánh lễ tôn phong hiển thánh cho
hai người con Ba Lan và Thụy Điển. Ngài Xin Chúa chúc lành cho hai quốc gia nhờ
lời bầu cử của các vị. ĐTC cũng chào và cám ơn các nhóm hành hương Italia và
các nước khác cũng như tín hữu đến từ Estonia, giáo phận Bologna và các ban
nhạc.
Ngài mời mọi người hướng tới
Đức Trinh Nữ Maria và xin Mẹ luôn hưóng dẫn trên con đường nên thánh và xây
dựng công lý và hòa bình mỗi ngày.
Tiếp đến ĐTC đã đọc Kinh Truyền
Tin và ban phép lành Toà Thánh cho mọi người.
Linh
Tiến Khải
Nguồn: vi.radiovaticana.va