NĂM MÙI, TÌM HIỂU DÊ TRONG KINH THÁNH
Năm 2015 là năm Ất Mùi, cầm
tinh con Dê. Ất Mùi là sự kết hợp thứ 32 trong hệ thống Can Chi (Thiên Can, Địa
Chi) của người Á Đông, và là sự kết hợp của “can” Ất là âm (đối với dương) với
“chi” Mùi là Dê, theo “hành” Mộc (trong ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Thổ, Hỏa).
Trong 12 con giáp, Dê là con vật thứ 8.
Cách đây 300 năm, năm 1715
(số La Mã: MDCCXV) cũng là năm Ất Mùi, bắt đầu vào thứ Ba theo lịch Gregory (hoặc
một năm thường bắt đầu vào thứ Sáu theo lịch Julius, chậm hơn 11 ngày).
Dê là con vật hữu ích và
hiền hòa, nhưng Dê luôn bị mang tiếng xấu. Dê được nuôi nhiều, cả thời xưa lẫn
thời nay. Thịt Dê ngon, sữa Dê ngọt, tốt cho sức khỏe. Các món Dê không chỉ
ngon, mà còn được dùng để chữa nhiều chứng bệnh. Đúng là “nhất cử lưỡng tiện” vậy!
Dê là một trong số ít các
động vật được nhắc tới trong Kinh Thánh – cả Cựu ước và Tân ước. Trong Cựu ước,
Dê là con vật được ưa thích, là biểu tượng đẹp. Trong Tân ước, Dê là con vật
không được ưa thích, là biểu tượng xấu.
Xuân về, Tết đến, chúng ta
có thời gian rảnh để vui chơi, nghỉ ngơi. Nhân dịp Xuân Ất Mùi, chúng ta cùng
xem Dê xuất hiện trong Kinh Thánh như thế nào, tốt hay xấu, và cũng là dịp xem
lại những phần Kinh Thánh mà có thể nói rằng hiếm khi chúng ta có thời gian ngó
tới, đặc biệt là dịp để tự xét mình. Vui Xuân, ăn Tết, nhưng vẫn luôn tâm niệm
lời Đức Giêsu Kitô vừa nhắn nhủ vừa khuyến cáo: “Anh em hãy nên hoàn thiện như
Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48).
DÊ TRONG CỰU ƯỚC
1. Thiên Chúa kêu gọi ông
Áp-ram và hứa: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ
chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi.
Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành. Ta sẽ
chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa.
Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (St 12:1-3).
Ông Áp-ram được 75 tuổi
khi ông rời Kha-ran. Ông Áp-ram đem theo vợ là bà Xa-rai, cháu là ông Lót, và mọi
tài sản họ đã gầy dựng được, cùng với gia nhân họ đã có tại Kha-ran, đi tới đất
Ca-na-an.
Khi nạn đói hoành hành
trong xứ ấy, và ông Áp-ram xuống trú ngụ ở Ai-cập. Khi gần vào Ai-cập, ông nói
với bà Xa-rai: “Bà coi, tôi biết bà là một người phụ nữ có nhan sắc. Khi người
Ai-cập thấy bà, họ sẽ nói: ‘Vợ hắn đấy!’, họ sẽ giết tôi và để cho bà sống. Vậy
xin bà cứ nói bà là em tôi, để vì bà, người ta xử tốt với tôi, và nhờ bà, tôi
được sống” (St 12:11-13). Quả đúng như ông Áp-ram dự đoán. Khi họ đến Ai-cập,
người Ai-cập thấy vợ ông rất xinh đẹp. Quan lại của Pha-ra-ô thấy bà thì ca tụng
bà trước mặt Pha-ra-ô, và bà bị đưa vào đền Pha-ra-ô. Vì bà, người ta đã xử tốt
với ông Áp-ram. Ông được chiên, dê, bò, lừa, tôi trai tớ gái, lừa cái, lạc đà.
Tại vì bà Xa-rai, Đức Chúa giáng những tai ương lớn xuống Pha-ra-ô và gia đình
vua. Pha-ra-ô bèn cho gọi ông Áp-ram đến và nói: “Ngươi làm gì ta thế? Tại sao
ngươi đã không khai với ta rằng: nàng là vợ ngươi? Tại sao ngươi lại nói với
ta: ‘Nàng là em tôi’, khiến ta đã lấy nàng làm vợ? Bây giờ, vợ ngươi đấy, hãy
nhận lấy và đi đi!” (St 12:18-19). Sau đó, Pha-ra-ô ra lệnh cho người của vua tống
ông Áp-ram đi, cùng với vợ ông và tất cả những gì ông có.
Sau các việc đó, có lời Đức
Chúa phán với ông Áp-ram trong một thị kiến rằng: “Hỡi Áp-ram, đừng sợ, Ta là
khiên che thuẫn đỡ cho ngươi; phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn” (St 15:1). Người
còn phán với ông: “Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Ua của người
Can-đê, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu” (St 15:7). Ông thưa: “Lạy Đức
Chúa, làm sao mà biết là con sẽ được đất này làm sở hữu?” (St 15:8). Người phán
với ông: “Đi kiếm cho Ta một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một
con cừu đực ba tuổi, một chim gáy và một bồ câu non” (St 15:9). Ông làm theo lệnh
Người truyền. Ông xẻ đôi những con vật ấy, đặt nửa này đối diện với nửa kia;
còn chim thì ông không xẻ.
Khi mặt trời đã lặn và màn
đêm bao phủ, bỗng có một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa
các con vật đã bị xẻ đôi. Hôm đó, Đức Chúa lập giao ước với ông Áp-ram: “Ta ban
cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai-cập đến Sông Cả, tức sông Êu-phơ-rát, đất
của những người Kê-ni, Cơ-nát, Cát-môn, Khết, Pơ-rít-di, Ra-pha, E-mô-ri,
Ca-na-an, Ghia-ga-si và Giơ-vút” (St 15:18-21). Ông Áp-ram trở thành Tổ phụ
Áp-ra-ham.
2. I-xa-ác là con của ông
Áp-ra-ham. Khi ông I-xa-ác đã già, mắt ông loà không trông thấy nữa. Ông gọi
con trai lớn của ông là Ê-xau đến, ông nói: “Con thấy không, cha già rồi, không
biết chết ngày nào. Bây giờ con hãy lấy khí giới của con, ống tên và cây cung của
con, ra đồng săn thú cho cha. Con hãy làm cho cha một món ăn ngon như cha
thích, rồi đem đến cho cha ăn, để cha đích thân chúc phúc cho con trước khi chết”
(St 27:2-4). Lúc đó, bà Rê-bê-ca nghe được. Khi Ê-xau đi ra đồng săn thú, bà
Rê-bê-ca nói với con trai là Gia-cóp: “Này, mẹ vừa nghe cha con nói với anh con
rằng: ‘Con hãy đem thịt rừng về cho cha và làm cho cha một món ăn ngon, để cha
ăn và chúc phúc cho con trước mặt Đức Chúa, trước khi cha chết’. Giờ đây, con
ơi, hãy nghe lời mẹ mà làm như mẹ dạy con. Con đến bầy súc vật bắt cho mẹ hai
con dê đực non và mập; mẹ sẽ làm thành một món ăn ngon cho cha con như cha con
thích. Con sẽ đem đến cho cha con và cha con sẽ ăn, để người chúc phúc cho con
trước khi chết” (St 27:7-10).
Người Ê-xau đầy lông lá,
người Gia-cóp nhẵn nhụi. Gia-cóp sợ cha sẽ rờ và biết bị lừa, cha nguyền rủa
thay vì chúc phúc. Bà Rê-bê-ca bảo: “Con ơi, nếu con bị nguyền rủa, mẹ sẽ gánh
cho; cứ nghe lời mẹ và đi bắt dê cho mẹ” (St 27:13). Gia-cóp đi bắt dê và làm
theo lời mẹ dặn. Đàn bà nham hiểm khôn lường! Qquả thật, bà Rê-bê-ca lấy chiếc
áo sang nhất của Ê-xau để mặc cho Gia-cóp. Bà lấy da dê non mà bọc lấy tay và
phần cổ nhẵn nhụi của cậu, rồi bà đặt món ăn ngon và bánh đã làm vào tay
Gia-cóp để đem dâng cho cha là ông I-xa-ác (St 27:16).
Gia-cóp được cha chúc
phúc, cướp mất quyền gia trưởng của Ê-xau. Chuyện đời ngày nay cũng vẫn có những
chuyện huynh đệ tương tàn, giành nhau đủ thứ, kể cả những gì nhỏ bé nhất. Thật
buồn thay!
3. Gia-cóp cất bước đi về
đất Phương Đông để đến nhà ông La-ban, cậu nhìn và thấy một cái giếng ở ngoài đồng.
Ở đó có ba đàn chiên đang nằm gần giếng, vì người ta cho các đàn vật uống nước
giếng này. Trên miệng giếng, có một tảng đá lớn. Khi các đàn vật đã tụ tập đông
đủ, người ta lăn tảng đá ra khỏi miệng giếng và cho chiên uống, rồi lại đưa tảng
đá về chỗ cũ trên miệng giếng. Gia-cóp hỏi họ ở đâu đến. Họ cho biết từ Kha-ran
đến. Cậu hỏi thăm về ông La-ban, con cháu ông Na-kho. Họ trả lời là biết. Cậu hỏi
ông la-ban có được bình an không. Họ trả lời: “Ông ấy được bình an; cô Ra-khen,
con gái ông ấy, đang đến cùng với chiên và dê kia kìa” (St 29:6).
Họ còn đang nói chuyện với
nhau thì cô Ra-khen đến cùng với chiên và dê của cha cô, vì cô là người chăn
súc vật. Gia-cóp vừa nhìn thấy cô Ra-khen, con gái ông La-ban, anh của mẹ cậu,
cả chiên và dê của ông La-ban, cậu liền lăn tảng đá ra khỏi miệng giếng, cho
chiên và dê của ông La-ban uống. Gia-cóp hôn cô Ra-khen rồi oà lên khóc.
Gia-cóp nói cho cô Ra-khen biết cậu là anh em họ hàng với cha cô và là con trai
bà Rê-bê-ca; cô liền chạy về báo tin cho cha. Ông La-ban vừa nghe nói đến
Gia-cóp, con của em gái ông, liền chạy ra đón, ôm cậu mà hôn, rồi đưa vào nhà.
Cậu kể lại cho ông La-ban hết mọi việc. Ông La-ban nói: “Cháu đúng là cốt nhục
của bác” (St 29:10). Gia-cóp yêu Ra-khen nên bằng lòng làm việc không công 7
năm để được cưới nàng làm vợ, bởi vì Gia-cóp quá đỗi yêu nàng Ra-khen duyên
dáng và có nhan sắc hơn cô chị, nàng Lê-a. Nhưng ông La-ban lừa Gia-cóp, không
chịu giao Ra-khen, nên Gia-cóp vì yêu nàng Ra-khen mà phải làm không công thêm
7 năm nữa. Yêu có khác, bi nhiêu thì bi!
4. Sau đó Gia-cóp được vợ là
Ra-khen. Khi Ra-khen sinh được Giu-se, Gia-cóp xin ông La-ban cho về quê hương
xứ sở. Ông La-ban muốn trả công cho con rể, nhưng Gia-cóp từ chối và chỉ đề nghị:
“Hôm nay con sẽ đi qua tất cả đàn chiên và dê của cha, cha hãy để riêng ra mọi
chiên con lốm đốm và lấm chấm, mọi chiên con đen tuyền trong số chiên, và con
nào lấm chấm và lốm đốm trong số dê cái: đó sẽ là công xá của con. Mai ngày,
khi cha đến kiểm soát công xá của con, sự lương thiện của con sẽ làm chứng cho
con: Tất cả những con dê không lấm chấm và lốm đốm, những con chiên không đen
tuyền trong đàn vật của con, sẽ là của ăn cắp” (St 30:32-33). Ông La-ban đồng
ý. Ngày hôm ấy, ông để riêng ra các dê đực vằn và lấm chấm, mọi dê cái lốm đốm
và lấm chấm, mọi con vật có vệt trắng, và mọi con chiên đen tuyền; và ông giao
chúng cho các con trai ông. Rồi ông để khoảng cách ba ngày đường giữa ông và
ông Gia-cóp. Ông Gia-cóp thì chăn những chiên dê còn lại của ông La-ban.
5. Khi đã giàu có, ông
Gia-cóp nghe được những lời của các con trai ông La-ban nói rằng: “Gia-cóp đã lấy
tất cả tài sản của cha chúng ta, và nhờ tài sản của cha chúng ta mà làm nên cơ
đồ ấy”. Ông Gia-cóp nhìn nét mặt ông La-ban và thấy nhạc phụ không còn như xưa
nữa, ông vâng lời Đức Chúa trở về quê hương. Ông Gia-cóp sai người đi gọi bà
Ra-khen và bà Lê-a ra ngoài đồng, đến chỗ đàn chiên dê của ông, và nói với họ:
“Tôi thấy rằng nét mặt của cha các bà đối với tôi không còn như xưa nữa; nhưng
Thiên Chúa của cha tôi đã ở với tôi. Chính các bà biết rằng tôi đã phục vụ cha
các bà bằng tất cả sức lực của tôi. Cha các bà đã đánh lừa tôi, và đã đổi công
xá của tôi mười lần, nhưng Thiên Chúa đã không để cho ông ấy làm hại tôi. Mỗi
khi ông nói những con lốm đốm sẽ là công xá của tôi, thì tất cả chiên và dê đẻ
ra những con lốm đốm; mỗi khi ông nói những con vằn sẽ là công xá của tôi, thì
tất cả chiên dê đẻ ra những con vằn. Thiên Chúa đã lấy đàn vật của cha các bà
mà cho tôi. Vào thời chiên và dê giao nhau, tôi ngước mắt lên và chiêm bao thấy
những con dê đực phủ những con cái thì vằn, lốm đốm và khoang” (St 31:5-10). Quả
thật, Thiên Chúa luôn bảo vệ và nâng đỡ những người thật thà và chân chính.
6. Giu-se được mười bảy tuổi
thì đi chăn chiên và dê với các anh. Cậu đi với các con trai bà Bin-ha và các
con trai bà Din-pa, các bà vợ của cha cậu. Cậu mách cha tiếng đồn không hay về
họ. Ông Ít-ra-en yêu Giu-se hơn tất cả các con, vì ông đã già mới sinh được cậu,
và ông may cho cậu một áo chùng dài tay. Các anh cậu thấy cha yêu cậu hơn tất cả
các anh thì sinh lòng ghét cậu và không thể nói năng tử tế với cậu. Lòng ghen
ghét và đố kỵ thật đáng sợ!
Giu-se chiêm bao, cậu thuật
lại cho các anh, khiến họ càng ghét cậu thêm. Cậu kể: “Em lại chiêm bao thấy mặt
trời, mặt trăng và mười một ngôi sao đang sụp xuống lạy em” (St 37:9). Các anh
ghen tức với câu, cha cậu cũng mắng câu. Khi đi chăn chiên, các anh định thả cậu
xuống giếng để sát hại cậu, chỉ có Rưu-vên thương cậu. Những lái buôn người
Ma-đi-an đi qua đó kéo Giu-se lên khỏi giếng, các anh bán cậu cho người
Ít-ma-ên giá 20 đồng bạc. Những người này đưa Giu-se sang Ai-cập.
Các anh lấy áo chùng của
Giu-se, giết một con dê đực, rồi nhúng áo chùng vào máu để chạy tội, làm chứng
cớ giả là Giu-se bị thú dữ ăn thịt. Người cha tưởng con trai mình đã bị nạn thật.
Ông Gia-cóp xé áo mình ra, quấn áo vải thô ngang lưng và để tang con trai lâu
ngày. Tất cả các con ông đến an ủi ông, nhưng ông không chịu cho người ta an ủi;
ông khóc thương cậu và nói: “Cha sẽ để tang mà xuống với con cha ở âm phủ” (St
37:35).
7. Ngày tháng trôi qua,
người con gái ông Su-a, là vợ ông Giu-đa, qua đời. Mãn tang vợ, ông Giu-đa cùng
với bạn là ông Khi-ra, người A-đu-lam, lên Tim-na gặp các thợ xén lông chiên của
ông. Người ta báo cho Ta-ma hay: “Cha chồng của chị đang lên Tim-na xén lông
chiên của ông ấy!”. Nàng liền bỏ áo bà goá, lấy khăn trùm lên, phủ kín mình, rồi
ngồi ở lối vào Ê-na-gim, một thành nằm trên đường đi Tim-na. Nàng làm thế vì thấy
rằng Sê-la đã lớn mà người ta không cho nàng làm vợ cậu.
Ông Giu-đa trông thấy
nàng, tưởng là một gái điếm, vì nàng đã che mặt. Ông rẽ qua phía nàng bên lề đường
và nói: “Cho tôi đến với cô”. Ông không biết nàng là con dâu ông. Nàng hỏi:
“Ông cho em gì để đến với em?”. Ông đáp: “Tôi sẽ bắt một con dê con trong đàn gửi
đến cho cô”. Nàng lại nói: “Vậy xin ông cho em một vật làm tin, cho tới khi ông
gửi đến”. Ông hỏi: “Tôi phải cho cô vật gì làm tin?”. Nàng đáp: “Chiếc ấn của
ông, sợi dây đeo ấn và cây gậy ông cầm ở tay”. Ông đưa cho nàng những thứ đó, rồi
đến với nàng, và nàng có thai với ông. Nàng đứng lên, đi khỏi, bỏ khăn trùm và
mặc lại áo bà goá (St 38:15-19).
Ông Giu-đa nhờ người bạn ở
A-đu-lam mang dê con đến, để lấy lại vật làm tin từ tay người đàn bà, nhưng ông
này không tìm thấy nàng. Ông này hỏi người địa phương: “Cô điếm thần ở Ê-na-gim
vẫn ngồi trên đường đâu rồi?”. Họ đã trả lời: “Ở đây chẳng hề có điếm thần”.
Ông về nói với ông Giu-đa: “Tôi không tìm thấy cô ta. Người địa phương còn nói
là ở đấy chẳng hề có điếm thần”. Ông Giu-đa nói: “Cô ta cứ việc giữ những thứ ấy!
Miễn sao chúng ta đừng bị chê cười. Tôi quả đã gửi con dê con này, còn anh lại
không tìm thấy cô ấy!” (St 38:20-23). Về sau, bà này sinh đôi là Pe-rét và
De-rác.
8. Sách Lê-vi cho biết
cách thức dâng của lễ: (a) “Nếu người ấy tiến dâng chiên dê làm lễ toàn thiêu,
một con chiên con hay một con dê, thì phải tiến dâng một con đực toàn vẹn. Người
ấy sẽ sát tế nó bên cạnh bàn thờ, về phía bắc, trước nhan Đức Chúa” (Lv
1:10-11), (b) “Nếu lễ tiến của người ấy là một con dê, thì phải tiến dâng nó
trước nhan Đức Chúa. Người ấy sẽ đặt tay trên đầu con vật, và sẽ sát tế nó trước
cửa Lều Hội Ngộ. Các con A-ha-ron sẽ rảy máu nó chung quanh bàn thờ” (Lv 3:12).
9. Giống như chiên, dê được
dùng làm của lễ đền tội.
– Đối với chức sắc: “Nếu một
đầu mục phạm tội, và vô ý làm một trong những điều mà mệnh lệnh Đức Chúa, Thiên
Chúa của nó, cấm làm, khiến nó mắc lỗi, nếu người ta cho nó biết tội nó đã phạm,
thì nó phải đưa đến một con dê làm lễ tiến, một con đực toàn vẹn. Nó sẽ đặt tay
trên đầu con dê và sát tế trước nhan Đức Chúa, ở nơi sát tế lễ vật toàn thiêu.
Đó là lễ tạ tội. Tư tế sẽ dùng ngón tay lấy máu lễ vật tạ tội và bôi lên các
góc cong của bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, rồi đổ máu còn lại xuống chân bàn thờ
dâng lễ toàn thiêu. Còn tất cả mỡ, tư tế sẽ đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ,
như mỡ của hy lễ kỳ an. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho người ấy khỏi tội
của mình, và người ấy sẽ được tha” (Lv 4:22-26).
– Đối với thường dân: “Nếu
một thường dân vô ý phạm tội, làm một trong những điều mà mệnh lệnh của Đức
Chúa cấm làm, khiến nó mắc lỗi, nếu người ta cho nó biết tội nó đã phạm, thì vì
tội đã phạm, nó sẽ đưa đến một con dê làm lễ tiến, một dê cái toàn vẹn. Nó sẽ đặt
tay trên đầu lễ vật tạ tội và sát tế lễ vật tạ tội ở nơi sát tế lễ vật toàn
thiêu (Lv 4:27-29).
– Các trường hợp phải dâng
lễ đền tội: “Khi một người nào phạm tội, vì tuy là nhân chứng về một việc đã thấy
hoặc đã biết, mà không chịu nói ra sau khi đã nghe lời khuyến cáo long trọng,
thì nó phải mang lấy tội một mình; hoặc khi một người nào đụng đến bất cứ vật
gì ô uế – như xác chết một dã thú ô uế, xác chết một gia súc ô uế, xác chết một
con vật ô uế – mà không biết, thì nó trở nên ô uế và mắc lỗi; hoặc khi người ấy
đụng đến một cái gì ô uế của người ta – những thứ ô uế khiến người ta trở nên ô
uế – mà không biết, thì sau khi biết, nó mắc lỗi; hoặc khi một người nào lỡ lời
mà thề làm điều gì bất kỳ tốt xấu – trong mọi điều một người có thể lỡ lời mà
thề – nhưng không biết, thì sau khi biết, nó mắc lỗi về một trong những điều ấy.
Vậy khi ai mắc lỗi về một trong những điều trên thì nó phải xưng thú tội mình
đã phạm, rồi phải đưa đến dâng Đức Chúa lễ vật đền tội vì tội đã phạm, là một
con chiên cái hay một con dê cái làm lễ tạ tội, và tư tế sẽ cử hành lễ xá tội
cho nó khỏi tội (Lv 5:1-6).
10. Đến ngày thứ tám, ông
Mô-sê gọi ông A-ha-ron và các con ông ấy, cũng như các kỳ mục Ít-ra-en, và nói
với ông A-ha-ron: “Ông hãy bắt một con bê để làm lễ tạ tội, với một con cừu đực
để làm lễ toàn thiêu, cả hai còn toàn vẹn, và hãy tiến dâng chúng trước nhan Đức
Chúa. Rồi ông hãy nói với con cái Ít-ra-en bắt một con dê đực để làm lễ tạ tội,
một con bê với một con chiên, cả hai phải được một tuổi, toàn vẹn, để làm lễ
toàn thiêu, một con bò đực và một con dê đực để làm lễ kỳ an dâng trước nhan Đức
Chúa, và một lễ phẩm nhào với dầu; vì hôm nay Đức Chúa sẽ xuất hiện giữa anh
em” ( Lv 9:2-4).
11. Quy định đặc biệt về lễ
tạ tội: “Ông Mô-sê hỏi đi hỏi lại về con dê đực dâng làm lễ tạ tội và thấy là
nó đã bị thiêu. Ông nổi giận với hai người con còn lại của ông A-ha-ron là
E-la-da và I-tha-ma, và nói: Tại sao các anh không ăn lễ vật tạ tội trong nơi
thánh, vì đó là của rất thánh? Người đã ban nó cho các anh để xoá bỏ tội lỗi của
cộng đồng, để cử hành lễ xá tội cho họ trước nhan Đức Chúa” (Lv 10:16-17).
12. Việc làm trong ngày xá
tội: A-ha-ron sẽ vào thánh điện như thế này: Nó phải bắt một bò tơ để làm lễ tạ
tội và một cừu đực để làm lễ toàn thiêu. Nó sẽ mặc áo dài thánh bằng vải gai, mặc
trên mình quần đùi vải gai, thắt đai lưng vải gai, đội mũ tế vải gai. Đó là phẩm
phục thánh, nó sẽ lấy nước tắm rửa thân thể trước khi mặc vào. Nó sẽ nhận hai
con dê đực để làm lễ tạ tội và một con cừu đực để làm lễ toàn thiêu, do cộng đồng
con cái Ít-ra-en đem tới. A-ha-ron sẽ tiến dâng con bò tơ làm lễ tạ tội cho
chính mình, và sẽ cử hành lễ xá tội cho mình và cho nhà mình. Nó sẽ lấy hai con
dê và đặt trước nhan Đức Chúa, ở cửa Lều Hội Ngộ. Nó sẽ bắt thăm chọn giữa hai
con dê: một thăm “dành cho Đức Chúa”, một thăm “dành cho quỷ A-da-dên”.
A-ha-ron sẽ tiến dâng con dê trúng thăm “dành cho Đức Chúa” và dùng làm lễ tạ tội.
Còn con dê trúng thăm “dành cho A-da-dên”, A-ha-ron sẽ để sống và đặt trước
nhan Đức Chúa, để cử hành lễ xá tội trên nó và thả nó cho A-da-dên trong sa mạc
(Lv 16:3-10).
13. Thánh Vịnh cho biết rằng
Dê được dùng làm lễ tế: “Con tiến dâng Ngài bò, chiên, dê béo tốt, làm lễ toàn
thiêu nghi ngút bay lên” (Tv 66:15). Dân Ai-cập bị Thiên Chúa trừng phạt, Dê
cũng bị vạ lây: “Người sai mòng đến cắn, ếch nhái làm tan hoang, cào cào ăn lúa
má, châu chấu phá mùa màng; mưa đá huỷ vườn nho, sương muối diệt cây vả, dịch
tàn sát chiên, dê, thời khí hại bò lừa” (Tv 78:45-48).
DÊ TRONG TÂN ƯỚC
1. Giá trị tuyệt đối của
Máu Đức Giêsu Kitô: “Người [Đức Kitô] đã vào cung thánh không phải với máu các
con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã
lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta. Vậy nếu máu các con dê, con bò,
nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá
được họ, nghĩa là cho thân xác họ trở nên trong sạch, máu của Đức Kitô càng hiệu
lực hơn biết mấy” (Dt 9:12-14).
2. Máu giao ước của Thiên
Chúa: “Sau khi ông Mô-sê công bố cho toàn dân mọi điều răn như đã ghi chép
trong Sách Luật, ông lấy máu các con bê, con dê hoà lẫn với nước, rồi dùng len
đỏ thắm và cành hương thảo mà rảy trên chính cuốn Sách Luật cũng như trên toàn
dân và nói: Đây là máu giao ước, Thiên Chúa đã truyền cho anh em tuân giữ. Rồi,
cũng theo cách thức đó, ông rảy máu vào lều thánh và mọi đồ phụng tự” (Dt
9:19-21).
3. Máu bò và máu dê có giá
trị trong Cựu ước, nhưng không còn giá trị trong Tân ước: “Năm này qua năm
khác, chính những hy lễ đó nhắc cho người ta nhớ mình có tội. Thật thế, máu các
con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức
Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể.
Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy
Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về
con” (Dt 10:4-7).
4. Vì Đức Tin, có nhiều
người phải chịu đau khổ: “Có những người phải chịu nhạo cười và roi vọt, hơn nữa
còn bị xiềng xích và bỏ tù; họ bị ném đá, bị cưa đôi, bị chết vì gươm; họ phải
lưu lạc, mặc áo da cừu, da dê, chịu thiếu thốn, bị áp bức và hành hạ” (Dt
11:36-37).
5. Trong dụ ngôn “Người
Cha Nhân Hậu” (Lc 15:29), trước đây gọi là dụ ngôn “Đứa Con Hoang Đàng”, người
em đòi chia gia tài rồi đi ăn chơi hoang đàng chi địa. Miệng ăn, núi lở. Ở bước
đường cùng, hết cách xoay xở, người em hối hận và quyết trở về với cha. Người
em được cha đón nhận mà không trách móc, còn bảo các đầy tớ mở tiệc ăn mừng:
“Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân
cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng. Vì con
ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
Khi người anh từ ngoài đồng
về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, hỏi người đầy tớ thì biết “thằng
em trời đánh” vừa trở về và được cha cho làm thịt con bê béo để ăn mừng. Người
anh liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng người cha ra năn nỉ. Anh ta so
kè: “Cha coi đó, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, chẳng khi nào trái lệnh,
thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè.
Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay
trở về, cha lại giết bê béo ăn mừng!”.
Người cha phân tích và giải
thích chi li ngọn nguồn, người anh hiểu ra. Cả nhà cùng vui mừng đoàn tụ trong
tình yêu thương của Thiên Chúa. Hình ảnh người anh và người anh là chính chúng
ta, có khi chúng ta tội lỗi ngập đầu mà vẫn “chảnh”, có lúc chúng ta lại so hơn
tính thiệt với chính những người xung quanh, thậm chí còn trách cả Thiên Chúa.
Quả thật, “lỗi tại tôi mọi đàng” mà thôi!
6. Dê là biểu tượng của những
người bị nguyền rủa, trái ngược với chiên – biểu tượng của những người được
chúc phúc trong ngày Chúa quang lâm. Trình thuật Mt 25:31-46 cho biết như vậy.
Lúc đó, thật diễm phúc cho ai được phân loại là Chiên và ở bên phải, nhưng thật
khốn nạn cho ai bị phân loại là Dê và ở bên trái!
Khi Con Người đến trong
vinh quang, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh
hiển. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ
với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải
Người, còn dê ở bên trái. Những người là Chiên được Thiên Chúa chúc phúc và cho
hưởng trường sinh. Còn những người là Dê ở bên trái, Thiên Chúa tuyên án: “Quân
bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho
tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta
khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước;
Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã
chẳng thăm viếng”. Thế là hết đường cứu chữa, biện hộ kiểu nào cũng vô ích mà
thôi. Từ đó, “người dê” phải ra đi để chịu cực hình muôn kiếp!
VĨ NGÔN
Hình ảnh con chiên và con
dê rất gần gũi với người Do Thái từ xa xưa. Chúa Giêsu đã giáng sinh nơi máng cỏ
tại một hang động có nhiều dê, chiên, lừa... Chúng thở hơi làm ấm Ngài trong
hơi sương giá lạnh. Ngoài ra, hình ảnh con chiên và con dê chịu sát tế làm lễ
hy sinh, trở thành của lễ đền tội cho dân Do Thái, mà không một lời than van.
Trong Tân ước, tế vật đó chính là hình ảnh Chúa Giêsu gánh chịu mọi tội lỗi của
nhân loại, Đấng mà Ngôn sứ Isaia gọi là “Người Tôi Trung” (Is 42, 49, 50 và
52), đã được Ngôn sứ Isaia tiên báo: “Tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.
Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã
không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50:5-6).
Và hằng ngày, trong các
Thánh Lễ ở khắp thế giới đều vang lên lời kinh cầu nguyện tha thiết: “Lạy Chiên
Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con...”.
Lạy Chúa, xin thương xót
chúng con, đặc biệt là trong mùa Xuân này, Tết Ất Mùi này. Amen.
Tết Nguyên Đán – 2015
***
NĂM MÙI VUI CHUYỆN DÊ VỀ KINH THÁNH
Giống như mục tử phân ra,
Chiên bên tay phải, dê qua trái người. (x. Mt 25, 33).
Tôi còn nhớ mãi hình ảnh
con dê trong cuốn sách giáo lý mà thời tôi còn bé, bố tôi thường mở ra chỉ dạy
cho tôi. Cuốn sách có khổ lớn, mở ra to bằng trang nhật báo, cứ một trang in chữ,
một trang in hình. Tôi không còn nhớ tên cuốn sách, nhưng nhớ mãi những trang
hình, đặc biệt là cảnh hoả ngục.
Hoả ngục được vẽ trong
tranh ấy có bẩy cửa, tượng trưng bẩy mối tội đầu. Mỗi cửa có vẽ một con vật làm
biểu tượng cho một tội. Con heo cho tội mê ăn uống, con rùa cho tội làm biếng,
con dê canh cửa thứ ba “giữ mình sạch sẽ chớ mê dâm dục”.
Năm Mùi, nhớ lại con dê
trong cảnh hoả ngục, tôi liền mở Kinh Thánh tìm xem Sách thánh nói đến con dê
như thế nào?
Ngay cuốn sách đầu tiên là
Sáng thế ký đã nhắc đến con dê, và rải rác các sách khác cũng có nói về dê, kể
cả trong Tân Ước. Tuy dê không được Kinh Thánh coi trọng bằng bò tơ, cừu đực,
nhưng cũng nói đến nhiều. Chúng tôi bắt đầu chuyện dê đầu tiên trong Sáng thế
ký.
Thịt dê thế thịt rừng
Ông Ixaac và bà Rêbêca có
hai người con trai là Exau và Giacop, ông thích thịt rừng nên ưa cậu cả Exau,
bà lại thương con út Giacop hơn. Một hôm bà nghe được ông sai Exau đi săn lấy
thú rừng về nấu cho ông món thịt rừng ông vẫn ưa thích, rồi ông chúc lành cho
trước khi ông nhắm mắt về với tổ tiên. Bà liền vội vàng sai Giacop ra chuồng
gia súc bắt hai con dê non mập mạp đem cho bà. Hai con dê bị bà lóc da, xẻ thịt,
nấu món ăn theo đúng sở thích của ông Ixaac. Khi đã xong, bà cho Giacop đóng
vai Exau bưng cỗ lên mời bố để nhận lãnh lời chúc phúc, trong khi Exau còn đang
mải săn thú rừng. Giacop đắn đo: “Mẹ à, anh Exau người rậm lông, nhỡ ba con cầm
tay con, biết là con xí gạt thì phúc chả thấy, thấy tội”… Bà Rebeca lấy da dê
non bọc tay và cổ cho Giacop, bà còn dùng áo của Exau mặc cho Giacop… Ông Ixaac
tuy loà không thấy, lại nghe giọng nói khác Exau, ông cũng bán tín bán nghi…
Nhưng khi sờ thấy tay bọc da dê đầy lông, ông nghĩ đúng là Exau, nên đã chúc
phúc cho Giacop!
Chính vì mâm cỗ lấy thịt
dê thế thịt rừng ấy mà anh em hiềm thù nhau. Giacop phải trốn đi ở chăn dê cho
cậu, ở mãi tận Khaban. (xem St 27, 1- 46).
Dê, của lễ đền tội
Dê được dùng làm tế phẩm
dâng tiến Yavê, nhưng chỉ được dùng để làm của lễ đền tội, không như các con bò
tơ hay chiên béo được dùng làm lễ vật tôn kính Chúa. Ngoại trừ trường hợp đặc
biệt người ta có thể dùng con dê cái non để giết ăn mừng lễ. (x.Đnl 15,22).
Theo sách Dân số, ông
Môisen đã được Đức Yavê truyền dạy về những con vật được giết làm của lễ toàn
thiêu dâng tiến Chúa như sau:
Trong các dịp lễ: lễ bánh
không men, lễ các tuần, lễ lều, ngày sóc, ngày hò la, ngày xá tội…ngoài các tế
phẩm như bò tơ, chiên con, cừu đực… còn phải có một con dê đực làm lễ đền tội
(x. Ds 18). Một lễ đền tội điển hình được mô tả như sau: Vua Êxach tế lễ Chúa
có dùng bẩy con dê đực làm lễ đền tội cho quốc gia. Bẩy con dê đực được dẫn đến
trước mặt vua, rồi dân chúng đặt tay trên những con dê đó. Sau đó giết các con
sinh tế ấy, lấy huyết rảy trên bàn thờ. (x.2Sk 29,20-24). Thông thường người ta
dùng một con là đủ. Nhưng lễ đền tội cho một tập thể lớn, mới cần đến nhiều con
dê đực, như trong lễ chuộc sau:
Ngày mồng ba tháng Ađa,
năm thứ sáu triều vua Đariô (mồng 1 tháng 4 năm 515 trước công nguyên). Dân
Itraen, các tư tế, các Thầy Lêvi và các dân lưu đày trở về, đã tổ chức lễ khánh
thành Nhà Thiên Chúa, được xây trên nền cũ, tại Giêrusalem, sau kỳ lưu đày tại
Babylon về. Họ đã dâng 100 con bò, 200 con cừu đực, 400 con chiên. Để làm lễ
chuộc tội cho toàn thể dân Ítraen trong dịp này, họ bắt 12 con dê đực làm con
sinh tế, đền thay cho số 12 chi tộc Ítraen. (x. Er 6, 15-17).
Đàn dê của ông Giacóp
Sau nhiều năm ở rể tại nhà
ông Laban, Giacóp xin trở về quê hương cũ. Ông Laban nói với Giacóp: “Tôi biết,
Đức Yavê đã vì anh mà chúc phúc cho tôi, tôi biết lấy gì mà trả công cho anh
đây?”
Giacóp thưa lại: “Cậu đừng
trả gì cho cháu cả, cháu chỉ xin cậu những con dê khoang lốm dốm thôi. Nếu mai
này cháu xa cậu mà trong đàn dê của cháu có những con không khoang lốm đốm là
không thuộc về cháu.”
Ngay hôm ấy, ông Laban cho
lựa hết những con dê khoang lốm đốm dành cho Giacóp, lùa riêng đi cách xa đàn
dê của ông tới ba ngày đường, giao cho các con ông chăm sóc, còn Giacóp vẫn phải
chăn dê cho bố vợ như cũ. Giacóp muốn lợi dụng cơ hội này làm tăng thêm cho đàn
dê khoang của mình. Ông chặt những cành cây bạch dương, cành hạnh đào, cành
tiêu huyền còn tươi, bóc đi một phần vỏ cho lộ ra những sọc trắng. Ông cắm những
cành cây đó cạnh máng nước, trước mặt những con dê đang uống nước, dê đực và dê
cái khoẻ mạnh truyền giống bên máng nước ấy, sinh ra những con dê con mạnh khoẻ.
Bằng cách ấy, Giacóp đã tạo cho mình thêm rất nhiều dê khoang đốm, đến nỗi Sứ
thần Chúa cũng phải thốt lên: “Hãy ngước mắt lên mà coi, tất cả những dê đực dê
cái phối giống bên máng nước đều sinh ra dê có khoang rằn ri lốm đốm… Bây giờ
hãy chỗi dậy, ra khỏi đất này mà về bản quán của mình”. Lúc lên đường về quê,
Giacóp đã giầu có lắm, với vô số cừu dê, tớ trai hầu gái đông đúc và từng bầy lạc
đà, lừa vận tải…(xem. St 31, 24-43).
Dê, lễ vật ra mắt
Đọc Kinh Thánh, chúng ta
đã biết Esau và Giacóp là anh em sinh đôi, Esau ra trước làm anh, nhưng vì đi
săn về đói mệt đã bán chức trưởng nam cho Giacóp để lấy một bát cháo ăn đỡ
lòng. Giacóp lại được mẹ hướng dẫn để dành được lời chúc phúc của cha. Chính vì
thế, Esau tức giận đòi lấy mạng Giacóp, khiến bà mẹ phải để cho Giacóp trốn đi
xa cưới vợ. Trở lại quê hương lần này, Giacóp vẫn sợ anh mình còn giận, nên đã
bố trí cho cuộc anh em hội ngộ rất cẩn thận. Ông cho người ăn kẻ làm lùa những
đàn vật đi trước để làm lễ vật ra mắt anh. Trong số những đàn vật ấy có một đàn
dê đông đúc gồm hai trăm dê cái và hai mươi dê đực. Giacóp nghĩ thầm rằng, ta
cho mang tặng phẩm này ra mắt anh trước để anh nguôi giận, sau ta mới đến giáp
mặt anh ấy và may ra anh ấy sẽ nể ta.
Ông Esau được tin em về,
cũng mang bốn trăm gia nhân đi đón Giacóp. Gặp nhau anh em ôm cổ nhau mà hôn, cả
hai cùng đẫm ướt lệ mừng. Giacóp phải nài nỉ anh mãi, Esau mới nhận những món
quà lòng thành Giacóp hiến tặng, trong đó có đàn dê là lễ vật cầu phúc. (x. St
32 và 33).
Con dê của bà Tôbit
Ông bà Tôbit là người kính
sợ Chúa, ông thực hành đức bác ái bằng việc chôn xác những đồng hương bị giết rồi
ném ra ngoài thành, dù ông bị ngăn cấm. Ông bà có một con trai tên là Tôbia.
Một hôm ông Tobit nằm ngủ
ngoài hiên nhà, ông bị phân chim rơi trúng mặt, khiến hai mắt ông không còn thấy
đường. Từ ngày ông bị mù, bà Anna vợ ông phải lo quán xuyến hết mọi việc nhà,
lo bươn chải từ việc nặng nhọc đến những việc nhẹ, để bảo đảm cuộc sống gia
đình. Tuy vậy, bà cũng không sao lãng bổn phận của phụ nữ: “Gái thì giữ việc
trong nhà, Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa.”
Canh cửi không quá nặng nhọc,
nhưng tốn nhiều thời gian, phải thức khuya dậy sớm làm việc thì mới dệt được
nhiều vải. Bà cứ dệt, cứ dệt… được kha khá lại cắt vải đem đi giao hàng. Hôm ấy,
nếu tính theo lịch Makêđônia là ngày mồng bảy tháng Đystro, tương đương với
tháng Ađar của lịch Do thái, tức khoảng tháng hai tháng ba theo lịch ngày nay,
bà xén vải đem đi giao. Họ đã trả đủ tiền vải cho bà, rồi còn tặng bà một con
dê con, để bà có thể làm một bữa ăn thịnh soạn đãi cả nhà.
Con dê đã được cột một sợi
dây vào cổ để bà có thể dắt nó đi dễ dàng. Khi bà dắt dê về đến nhà, con dê
không chịu vào, bà lôi mạnh, con dê kêu lên be be… Ông Tôbit nghe tiếng dê kêu,
liền hỏi bà:
- Ở đâu mà bà có được con
dê đấy? Hay là bà bắt được của ai, hãy mau đem trả cho chủ nó! Vì ta không được
phép dùng những của không phải là của mình.
Bà Anna vui vẻ, hãnh diện
khoe với chồng:
- Con dê này là quà người
ta tặng cho tôi, sau khi họ đã trả đầy đủ tiền vải.
Ông Tôbit vẫn không tin,
có ai lại tốt bụng quá vậy. Ông cứ nằng nặc đòi bà phải đem dê đi trả, vì ông cảm
thấy xấu hổ khi có bà vợ đi bắt dê của người ta về...
Thế là ông bất bình vì
không đồng ý kiến, nhưng với tài thuyết phục và sự ngay thẳng của bà Anna, thế
nào ông Tôbit cũng hiểu. (x. Tb 2,19-23).
Dê cừu song đấu
Đọc sách tiên tri Đanien,
ta thấy ngôn sứ này được thấy nhiều thị kiến. Bằng giọng văn khải huyền, ông đã
thuật lại những thị khiến ấy để tuyên sấm về những việc sẽ xảy ra, hầu cảnh cáo
người đương thời. Một trong những thị kiến ấy là cuộc song đấu giữa một con cừu
đực và một con dê đực.
Năm thứ ba triều vua
Bantasa, vua nước Babylon, lần thứ hai Đanien được thị kiến. Khung cảnh của thị
kiến được xảy ra ở thành Susa, trong địa hạt Êlam, đế đô của triều đại
Akêđêmit, trên bờ sông Ulai. Khi ngôn sứ ngước mắt lên nhìn thì thấy một con cừu
đực đứng đối diện với bờ sông. Bằng một sức mạnh kinh hồn, con cừu húc tới phía
Tây, lao lên phía Bắc, rồi nhào xuống phía Nam mà không ai có thể cản nổi nó.
Ngay lúc ấy, xuất hiện một
con dê đực từ hướng mặt trời lặn xông tới, nó rảo khắp thiên hạ mà chân không
chạm đất. Dê xồm ấy có một cái sừng lồ lộ ngay giữa hai con mắt. Nó hùng hổ
xông tới chỗ con cừu đực, con dê nổi giận đùng đùng, lấy đầu phang cho con cừu
một phát, làm gẫy luôn cặp sừng của con cừu. Cừu đực lảo đảo, không còn sức chống
cự. Được đà, con dê tông thêm một phát nữa làm con cừu lăn chiêng xuống đất. Rồi
cứ thế, con dê dùng chân đạp túi bụi vào con cừu… Dê tưởng mình còn sung sức,
không ngờ cũng choáng váng, vì cái sừng duy nhất đã bị gẫy sau khi triệt hạ đối
phương. Nhưng ngay sau đó bốn sừng khác mọc lên, theo bốn hướng gió trời, thay
thế cho cái sừng dê bị gẫy đó.
Thị kiến trên của ngôn sứ
Đanien là một lời sấm tiên báo những việc xảy ra sau đó giữa các vua trong các
xứ Mêđi, Ba tư và Hy lạp. Ai muốn biết rõ hơn về thị kiến trên, xin mở sách
Đanien đọc tiếp. (x. Đn 8, 1-27).
Dê trong thi ca Kinh Thánh
Các tổ phụ dân Do thái xưa
đều thuộc dân du mục, công việc chăn nuôi vì thế đã đi vào Kinh Thánh, nên sách
Thánh đã ghi lại những kinh nghiệm trong cuộc sống, giống như ca dao, tục ngữ
nước ta, nhờ đó hậu sinh nương đà mà phát triển:
Khi cỏ khô đã cắt và cỏ
non lại mọc,
cỏ xanh trên đồi núi cũng
được gom về,
thì con có tiền tậu ruộng
nhờ dê,
sữa dê con uống thỏa thuê,
cả nhà no đủ, nữ tì cũng
vui.(Cn 27, 25-27).
Dê giúp phát triển kinh tế,
tăng nhanh tài sản như thế, nên không những được các chàng trai chăn dắt mà các
thiếu nữ cũng góp phần. Cô thiếu nữ Gialiêm xưa khi đi chăn dê, muốn biết người
tình đang nghỉ ở đâu, nàng đã được hướng dẫn:
Này hỡi trang tuyệt thế
giai nhân,
nếu quả nàng không biết,
thì hãy ra đi theo vết
chân đàn cừu,
mà dẫn dê con của nàng đi
ăn
quanh các lều mục tử… (Dc
1,8)
Khi đã đến lều người yêu,
nàng ngủ một giấc đầy mộng mơ, khiến chàng không dám cho ai làm nàng dở dang giấc
điệp:
Nhân danh dê cái nhân vì
linh dương,
Chớ làm kinh động cô
nương.(Dc 2, 7).
Nàng đã say sưa ngủ, một
giấc ngủ đầy mộng mơ. Mơ nàng xinh mái tóc, mơ chàng bảnh trai cường tráng:
Tóc nàng gợn sóng như đàn
sơn dương từ trên ngàn Galat tủa xuống. (Dc 4, 1) và nàng muốn nói cùng chàng:
Hãy làm linh dương, làm
nai nhỏ của lòng em. (Dc 8, 14).
Nhưng có lúc dê núi cũng gặp
tai ách:
Sẽ như linh dương hoảng chạy,
như cừu dê không người thâu họp. (Is 13, 14).
Không có người chăn quy tụ,
bầy chiên dê biến mất khỏi ràn, (Kb 3, 17). Quả thật, cả chiên dê nhỏ nhất cũng
bị lôi đi. (Gr 49, 20). Đúng như lời nguyền rủa: Chớ gì lều và chiên dê của
chúng bị người ta lấy đi. (Gr 49, 29).
Để dựng lại cơ nghiệp, phải
nhớ lời khuyên: Hãy trốn khỏi Babylon, ra khỏi đất Canđê và nên như những con
dê đầu đàn,(Gr 50, 8) đợi khi chúng sẽ dẫn chiên dê đến đó. (Xp 2, 7).
Được kỳ bình an, người ta
lo tìm của lễ tạ ơn:
Phải chăng Đức Chúa thích
từng ngàn dê đực, hàng vạn suối dầu ? (Mk 6,7). Chúa không ưa của lễ dê bò, của
lễ mà Chúa yêu thích chính là thực thi công bình, quý yêu nhân nghĩa và khiêm
cung trước Chúa.
Vua Đavit tuy là người
chăn dê, nhưng biết thực hành các đức tính ấy. Ông đã lãnh nhận sức mạnh từ nơi
Đức Chúa, dùng trành ném đá hạ sát Goliat, Đavit được ca tụng như giết được mười
ngàn tên giặc, cho nên:
Ông chơi với sư tử như giỡn
với dê tơ,
Đùa với gấu như vờn vờ
chiên nhỏ. (Hc 47, 3).
Dê còn được dùng trong
nghi lễ tế tự, xông lên Giavê Thiên Chúa hương thơm, xin ơn xá tội:
Con tiến dâng Ngài bò
chiên dê béo tốt,
Làm lễ toàn thiêu nghi
ngút bay lên. (Tv 66, 15).
Dê trong ngày chung thẩm
Trong mắt các ngôn sứ, dê
thường đại diện cho những kẻ phản nghịch với Thiên Chúa, mang ý nghĩa trái ngược
với con chiên. Vì thế các tiên tri thường mô tả dê trú ngụ tại những nơi nhơ nhớp,
gai góc rậm rạp…Isaia đã chúc dữ cho thành Babylon, một thành biểu tượng cho
nơi điếm đàng:
Tại đó dã thú đến nằm nghỉ,
Cú vọ ở đầy nhà, đà điểu tới
trú ngụ,
Và bầy dê ma quái nhảy
nhót tung tăng,(Is 13, 21).
Quả thật, những nơi Đức
Chúa chúc dữ thì chỉ còn các thú hoang hung ác ẩn nấp, ở đó chúng tha hồ quẩng
dỡn, kết bầy phá phách:
Mèo hoang lại gặp chó rừng,
Loài dê ma quái hú mừng gọi
nhau.(Is 35, 14).
Dê bị chúc dữ thì sống
chui lủi, có khi còn phải tán loạn lìa đàn, bấy giờ như sơn dương bị săn đuổi
(Is 13,14). Con người ta thì trái lại, sống trên trần thế không thiếu chi những
cảnh người lương thiện thường gặp tai ách đủ điều, còn kẻ gian manh lại thấy lắm
sang giầu quyền thế. Tuy nhiên, niềm tin vào Chân lý cho chúng ta biết sẽ có
ngày chung thẩm, dù chiên, dù dê cũng đều tập trung: mọi chiên dê của Kêda sẽ
được tập trung tại nơi ngươi, (Is 58, 14) lúc ấy mọi người đều được xét xử công
minh: Này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê. (Ed 34, 17).
Cuộc thẩm xét cuối cùng được
Thánh sử Matthêu mô tả:
Khi Con Người đến trong
vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên
ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và
Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho
chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái…(Mt 25, 31-33).
Ngày chung thẩm sẽ không
còn phân biệt kẻ sang người hèn, kẻ có quyền thế hay người vô danh tiểu tốt mà
chỉ còn công hay tội, thiện và ác. Đừng tưởng làm lớn là không bị kết án, ngôn
sứ Dacaria đã khẳng định:
Trên các mục tử, cơn giận
của Ta bừng bừng,
Ta sẽ hỏi tội các dê đầu
đàn.(Dcr 10, 3).
Tiên tri Giêrêmia đã cho biết
sau khi xét xử, kẻ gian ác sẽ bị đưa đến chỗ trừng phạt đời đời kiếp kiếp:
Ta sẽ đẩy chúng xuống lò
sát sinh như chiên con, như cừu và dê đực. (Gr 51, 40).
Cũng theo Giêrêmia, những
người lành thánh được đem đến cõi trường sinh no đầy ơn phúc:
Chúng sẽ đến reo vui trên
đỉnh đồi Sion,
Chúng sẽ cuộn chảy về với
phúc lành Giavê
với lúa miến, rượu mới, dầu
tươi, với dê cừu, bò bê.
Sinh mạng chúng sẽ như thửa
vườn nước nhuận
và chúng sẽ không còn phải
ủ ê tiêu điều. (Gr 31, 12).
Quý vị nào muốn đọc thêm
những câu Kinh Thánh nói đến dê, xin tiếp tục mở thêm vì còn rải rác rất nhiều.
Nhân ngày Đầu năm Mùi, kính chúc quý vị Năm Mới đầy tràn Thánh Đức, hầu ngày
cánh chung được chọn sang đứng phía bên phải Con Người, để khỏi trở thành những
con dê lặng lẽ lầm lũi cúi đầu bước đi sang phía bên trái Chúa.
Sưu tầm
Vietcatholic