CHÚA NHẬT 20
THƯỜNG NIÊN C
CỘNG TÁC LÀM BÙNG CHÁY NGỌN LỬA TIN YÊU TRONG MỌI NGƯỜI
I.
HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG : Lc 12,49-53
(49) Thầy đã đến ném Lửa
vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi Lửa ấy đã bùng lên !
(50) Thầy còn một phép Rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết
bao cho đến khi việc này hoàn tất !”. (51) Anh em tưởng rằng Thầy đến
để ban hòa bình cho trái đất sao ? Thầy bảo anh em biết : Không phải
thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ. (52) Vì từ nay, năm người trong cùng
một nhà sẽ chia rẽ nhau : ba chống lại hai, hai chống lại ba. (53) Họ
sẽ chia rẽ nhau : cha chống lại con trai, con trai chống lại cha ; mẹ
chống lại con gái, con gái chống lại mẹ ; mẹ chồng chống lại nàng
dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng”.
2. Ý CHÍNH :
- SỨ VỤ
CỦA ĐỨC GIÊ-SU : là đem Lửa xuống trần gian và ước mong cho ngọn Lửa
đó bùng cháy lên trong lòng mọi người. Sứ vụ của Đức Giê-su là còn
phải chịu một phép Rửa là trải qua cuộc Tử Nạn và Phục Sinh để ban
ơn cứu độ cho lòai người.
- NHỮNG
ĐÒI HỎI ĐỐI VỚI MÔN ĐỆ : Đức Giê-su đòi môn đệ hãy chia sẻ sự đau khổ
Người sắp phải chịu. Vì thực tế sẽ có sự chia rẽ : trong
cùng một nhà có những người tin Chúa và có kẻ không tin. Nhưng ai
bền đỗ đến cùng sẽ được cứu độ.
3. CHÚ THÍCH :
- C
49-50 : + Thầy đã đến ném Lửa vào mặt đất : Trong Thánh kinh, Lửa biểu tượng sự phán xét của
Thiên Chúa, nhất là trong ngày tận thế, để thiêu hủy trừng phạt những kẻ gian ác và thanh luyện số ít người trung tín
còn sót lại (x. Lv 10,2 ; Lc 3,9). Lửa cũng là biểu tượng của Thần
Khí Thiên Chúa, hâm nóng lòng hai
môn đệ làng Em-mau, khi họ cùng đi đường đàm đạo với Chúa Phục Sinh
(x. Lc 24,32). Lửa Thần Khí cũng đậu xuống trên các Tông đồ để thánh hóa các ông vào lễ Ngũ Tuần
(x. Cv 2,3-19). Lửa còn ám chỉ những đau khổ mà Đức Giê-su phải chịu
để thanh luyện con cái Ít-ra-en
giống như vàng được thanh luyện trong lửa để nên tinh ròng (x. Mc 13,1-4 ;
Is 1,25). + Thầy những ước mong phải chi Lửa ấy đã bùng lên : Đức Giê-su mong ước ban Lửa
Thần Khí cứu độ cho thế gian. Đó là nhiệm vụ duy nhất của Người. +
Thầy còn một phép Rửa phải chịu : Phép Rửa là sự dìm mình dưới mặt nước. Thời Giáo
hội sơ khai người chịu phép Rửa phải được nhận chìm toàn thân trong
một hồ nước và sau đó trồi lên. Phép Rửa này tượng trưng cho sự
chết của Đức Giê-su: Người cũng chịu chết và được an táng trong lòng
đất, rồi ngày thứ ba sẽ trỗi dậy trong vinh quang. + Lòng Thầy
khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất : Đức Giê-su thao thức chu toàn
sứ vụ được Chúa Cha trao phó là phải trải qua cuộc Tử nạn
và Phục
sinh để ban ơn cứu độ cho loài người.
- C 51-53: + Anh em tưởng rằng Thầy đến
để ban hòa bình cho trái đất sao ? : Hòa bình hay bình an (Shalom) là mức sung mãn của sự
sống, là quà tặng tuyệt vời của Đấng Mê-si-a (x. Is 9,5-6 ; Lc 1,79). +
Không phải thế đâu : Thứ
bình an Chúa ban không phải là thứ bình an dễ dãi nơi trần gian, như
Người đã nói : “Thầy ban bình an của Thầy không như thế gian ban tặng”
(Ga 14,27). Cũng không phải là thứ “bình an vô sự” mà các ngôn sứ giả
đã mơ tưởng (x. Gr 6,16 ; Ed 13,10.16). + Nhưng là đem sự chia rẽ : Đứng trước Đức Giê-su, người ta
phải dứt khoát lựa chọn: Tin theo Chúa hay chống lại Người. Sự lựa
chọn này là nguyên nhân gây ra chia rẽ ngay trong nội bộ mỗi gia đình. +
Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau : cha chống
lại con trai...: Theo lời
các ngôn sứ thì sự chia rẽ là một đặc điểm của thời kỳ sau hết (x.
Mk 7,6 ; Ml 3,24). Vào thời Giáo hội sơ khai, các tín hữu chỉ là một
thiểu số ở giữa một thế giới ngoại giáo lớn lao. Họ luôn bị giằng
co giữa tin hay không tin, chọn Chúa hay chọn thế gian. Đức Giê-su đòi
những ai tin Người phải sẵn sàng vượt lên trên tình cảm gia đình ruột
thịt để dứt khóat chọn Chúa và dấn bước đi theo Người (x. Lc 14,26 ;
18,29-30).
4. CÂU HỎI : 1) Theo Thánh kinh, Lửa là biểu tượng cho
điều gì ? 2) Phép Rửa mà Đức Giê-su sắp phải chịu ám chỉ sự kiện nào
? 3) Bình an mà Đức Giê-su ban khác với bình an của thế gian ra sao ? 4)
Tại sao Đức Giê-su lại đến đem sự chia rẽ cho các gia đình thay vì lẽ
ra phải đem sự bình an ?
II.
SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Thầy đã đến ném Lửa vào mặt đất, và
Thầy những ước mong phải chi Lửa ấy đã bùng lên” (Lc 12,49).
2. CÂU CHUYỆN:
1) THẮP
SÁNG NGỌN LỬA TIN YÊU TRONG LÒNG MỖI NGƯỜI :
Một hôm,
Mẹ Tê-rê-sa ghé thăm một người đàn ông đang sống trong một túp lều tồi tàn, lụp
xụp. Bên trong căn lều là cả một bãi rác : Mùng mền, chăn chiếu, quần áo hỗn độn,
rách nát và hôi hám. Mọi đồ đạc trong lều đều được che phủ bằng một lớp bụi dầy.
Ông sống cô độc và không chịu lui tới với ai nên ông cũng đã bị mọi người chung
quanh xa lánh. Mẹ Tê-rê-sa và các chị nữ tu đã vào trong lều và lên tiếng chào
hỏi, nhưng ông làm thinh không đáp lại. Thấy căn lều hỗn độn và bụi bặm, các chị
đã xin phép ông được dọn dẹp, nhưng ông cũng chẳng trả lời. Mặc kệ ! Các chị cứ
bắt tay vào việc dọn dẹp, xếp đặt, lau chùi. Thấy trong góc lều có một cây đèn
dầu, mẹ Tê-rê-sa đã lấy ra lau chùi. Khi lớp bụi được chùi sạch, mẹ đã kêu lên:
- Ồ, cây
đèn đẹp quá !
Ông lão bỗng lên tiếng :
- Đó là
cây đèn tôi đã tặng vợ tôi nhân dịp đám cưới. Mẹ hỏi :
- Ông
không bao giờ thắp đèn lên sao ?
- Không,
từ khi vợ tôi qua đời, tôi không bao giờ thắp đèn cả.
- Thế
ông có muốn chúng tôi tới thăm ông mỗi ngày và thắp đèn lên cho ông không ? Thấy
các nữ tu tử tế, ông đồng ý.
Từ đó, mỗi
chiều các chị nữ tu đều ghé thăm, truyện trò và thắp đèn lên cho ông. Dần dà,
ông trở nên vui vẻ yêu đời hơn. Ông bắt đầu nói chuyện cởi mở với các nữ tu và
khi được khuyến khích, ông cũng đã đi lại thăm viếng các nhà hàng xóm. Mọi người
khác cũng bắt đầu đến thăm ông. Căn lều hiu quạnh của ông lão giờ đã trở nên ấm
áp hơn. Trước kia, căn lều tăm tối không những vì ông không thắp đèn, mà còn vì
ngọn lửa trong tim ông đã lịm tắt nên ông không nghĩ đến việc phải thắp sáng nó
lên. Nay căn lều đã bừng lên niềm vui không phải do ánh sáng của ngọn đèn dầu,
mà do ánh sáng tin yêu trong trái tim ông đã bùng cháy trở lại. Trước kia ông tỏ
ra thù ghét xa lánh mọi người là do ánh lửa trong trái tim đã tàn lụi. Nay nhờ
các nữ tu nhen nhúm, ngọn lửa tin yêu ấy lại bùng lên. Ông đã biết nghĩ đến người
khác và đến thăm nhà hàng xóm, và ông cũng được mọi người chung quanh đến thăm
và giúp đỡ ông.
2) LỄ MỪNG
NGÂN KHÁNH MANG LẠI HIỆU QUẢ THIẾT THỰC :
Tại
một giáo xứ kia, sắp đến ngày mừng ngân khánh kỷ niệm 25 năm thụ
phong linh mục của cha sở. Giáo dân trong xứ đã âm thầm mở một cuộc
lạc quyên để có tiền tổ chức liên hoan và biếu cha tiền vé máy bay
và các chi phí khác cho một tháng nghỉ hè sắp tới của cha. Biết
được ý định của giáo dân, cha sở đã phát biểu như sau : “Anh chị em
thân mến. Tôi biết anh chị em lúc nào cũng quảng đại đối với tôi. Anh
chị em đã dâng cúng tiền của để chi phí các khỏan sinh hoạt cho nhà
thờ và cho tôi. Hiện nay tôi biết anh chị em đang quyên góp để cho tôi
phương tiện đi nghỉ hè nhân dịp kỷ niệm 25 năm thụ phong linh mục của
tôi. Tôi xin cám ơn lòng tốt của anh chị em. Nhân dịp này tôi xin chia
sẻ với anh chị em nguyện ước tha thiết nhất trong cuộc đời linh mục
của tôi là : làm thế nào để đưa được nhiều người về làm con Thiên
Chúa; Làm thế nào để những anh chị em công giáo siêng năng đến nhà
thờ tham dự các thánh lễ Chúa nhật. Vậy nguyện vọng của tôi nhân
dịp mừng ngân khánh linh mục không phải là tiền bạc vật chất, nhưng
là làm sao có được 25 người quay về với Chúa. Cộng đoàn giáo xứ
hiểu ý cha sở, nên trong ngày mừng ngân khánh linh mục của cha, họ đã
chọn 25 người có quá khứ tội lỗi xếp hàng vào đòan dâng lễ vật hôm
ấy. Những người này mặc quần áo trắng khi lên dâng lễ trên bàn thờ.
Trong phần Lời nguyện Cộng đoàn, họ cũng nêu lên quyết tâm sẽ đi theo
Chúa tới cùng và xin Chúa giúp họ từ bỏ những thói hư tật xấu như
rượu chè, bài bạc...
3) NGỌN LỬA
NHIỆT TÌNH TIN YÊU CHÚA CỦA Ô-DA-NAM :
Vào năm
1843, khi Thủ đô Paris nước Pháp đang xáo trộn do cuộc cách mạng. Đạo Công
giáo bị đe doạ, nhiều cơ sở tôn giáo bị cướp phá. Năm ấy Ô-da-nam (Ozanam) đang
học ngành luật. Dầu mới chỉ là một thanh niên 17 tuổi, nhưng Ô-da-nam đã can đảm
dùng ngòi bút và việc làm để bênh đỡ Hội Thánh đang gặp nguy nan. Cậu năng đọc
Kinh Thánh, năng đến nhà thờ dự thánh lễ và rước lễ mỗi ngày. Cậu được thụ huấn
với một vị giáo sư nổi tiếng là Ampère về mặt học thức cũng như về mặt đạo đức.
Cậu mạnh mẽ phục vụ Hội Thánh. Cùng với Ô-da-nam, các sinh viên trước kia rụt
rè lo sợ bao nhiêu thì nay lại nhiệt thành và hăng say bấy nhiêu. Các vị giáo
sư trong trường đều phải kiêng nể. Cậu tổ chức những buổi diễn thuyết, những cuộc
nói chuyện làm sống lại một bầu khí đạo đức trong nhà trường. Về phía dân
chúng, cậu đã cùng 6 anh em khác thành lập hội Bác ái Vinh sơn, để thăm viếng
chia sẻ bác ái cho những người nghèo khổ bệnh tật. Năm 18 tuổi, cậu cùng các bạn
trong hội đã thề hứa: Nhất quyết hy sinh và sẵn sàng hiến cả mạng sống cho người
nghèo. Ô-da-nam đã trở nên một ngọn lửa hồng rực sáng của Đức Ki-tô. Hội Thánh
hôm nay cũng rất cần những tín hữu nhiệt thành yêu mến và phục vụ Chúa nơi tha
nhân giống như Ô-da-nam.
4) TÌNH YÊU ĐÃ
CHIẾN THẮNG SỰ
CHẾT:
Thánh nữ
PÉC-PÊ-TU-A (Perpetua) là con của một gia đình quí tộc, nhưng đã bị bắt vì tin
theo đạo công giáo. Cha của cô là người lương đã đến nhà tù thuyết phục con gái
bỏ đạo. Bấy giờ cô liền chỉ tay vào chiếc bình hoa và lễ phép thưa với cha :
”Thưa cha, người ta có thể gọi vật này bằng một cái tên khác với tên là
cái bình không ? Đối với con cũng thế, con không thể cho mình một cái tên nào
khác ngoài tên là người tín hữu Ki-tô”. Tức quá, ông bố đã đánh đập cô tàn
nhẫn, rồi bỏ đi không còn lui tới thăm viếng cô nữa. Perpetua có một con nhỏ
đang còn bú mẹ, nên cô cảm thấy rất đau khổ khi phải xa con. Đứa bé bị đói lả
được người nhà mang vào nhà tù xin lính canh để cô cho con bú. Họ hy vọng cô sẽ
bỏ đạo để được tha về nhà với con, nhưng cô vẫn kiên quyết trung thành với
Chúa.
Khi biết con
gái sắp bị kết án tử hình, người cha lại đến khuyên con : ”Con ơi, hãy
thương đến mái tóc bạc của cha, hãy nhớ đến đôi tay cha đã dưỡng nuôi con.
Hãy nhớ tới mẹ con, anh em con và nhất là thương đến đứa con bé bỏng
của con. Nó làm sao sống được nếu không có mẹ bên cạnh. Con hãy bỏ đạo đi, bỏ
đi cái đạo đã làm cho gia đình nhà ta phải ly tán đau khổ ! ”.
Tuy rất cảm
động, nhưng Perpetua chỉ biết nghẹn ngào trả lời cha : ”Thưa cha, chúng ta hãy
cứ để cho quan tòa xét xử, bởi vì con đã tín thác mạng sống của con trong tay
Chúa”. Hôm ra tòa, cùng với các bạn, do lửa tin yêu thôi thúc Perpetua đã can
đảm tuyên xưng đức tin và sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho Chúa.
Còn chúng ta
hôm nay khi phải lựa chọn, chúng ta sẽ chọn Chúa hay chọn tình cảm gia đình,
hay chọn theo các đam mê xác thịt, của cải hay chức quyền trần gian ?
3. SUY
NIỆM:
Đức Giê-su được
Thiên Chúa sai đến trần gian với sứ vụ ban ơn cứu độ cho loài người. Tin mừng
hôm nay cho thấy : Để thi hành sứ vụ Thiên Sai ấy, Người luôn thao thức đi theo
ơn soi dẫn của Thánh Thần và vâng phục thánh ý Chúa Cha. Người cũng muốn các
môn đệ và các tín hữu hôm nay tích cực cộng tác vào sứ vụ cứu độ này.
1) SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊ-SU :
Đức Giê-su đem Lửa xuống trần gian và ước mong cho
ngọn Lửa đó bùng cháy lên trong lòng mọi người.
a- Thầy đã đến ném Lửa vào mặt
đất và Thầy những ước mong phải chi Lửa ấy đã bùng lên ! (Lc 12,49) :
Lửa Đức Giêsu mang lại là loại lửa nào ?
- Phải chăng là thứ lửa trời đã thiêu hủy thành Sô-đô-ma,
hay thứ lửa mà Giacôbê và Gioan yêu cầu thiêu hủy ngôi làng Sa-ma-ri dám từ
chối đón tiếp Thầy trò ? (Lc 9,55). Phải chăng là thứ lửa mà cây không trái (x.Mt 3,10), hay
những cành nho khô héo bị quăng vào (x.Ga 15,6) ? Lửa này có phải lửa kinh khủng của ngày phán xét ?
- Trong cái nhìn bao dung của thánh Lu-ca, đây chính là Lửa Thánh Thần được đổ xuống trên Cộng Đoàn Hội
Thánh Sơ Khai vào lễ Ngũ Tuần để gia tăng sức mạnh, giúp Hội Thánh vượt qua sợ
hãi, và can đảm làm chứng cho Chúa, hăng say loan báo Tin Mừng đi khắp thế gian
(x Cv 2,1-13).
Là Lửa Tin Yêu được Đức
Giê-su mang vào thế giới tội lỗi, hận thù, giết hại lẫn nhau…, để làm bùng cháy
lên tình thương “tứ hải giai huynh đệ”- bốn bể đều là anh em với nhau, hầu cho
mọi người biết yêu thương và tạo niềm vui hạnh phúc cho nhau.
- Đức Giê-su
ước mong cho ngọn Lửa ấy bùng cháy lên để thế
giới sớm thành “Trời Mới Đất Mới” như sách Khải Huyền đã diễn tả như sau : “Bấy
giờ tôi thấy Trời Mới Đất Mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng
không còn nữa… Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ: Sẽ không còn sự chết, cũng
chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Cv
21,1.4). Khi ấy mọi dân nước đều nhận biết tôn thờ một Thiên Chúa là Cha và
sống chan hòa hạnh phúc với nhau trong đại gia đình có “Thiên Chúa là Tình Yêu”
ngự trị (1 Ga 4,8).
-Thầy còn một phép Rửa
phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này
hoàn tất !” :
Phép Rửa
dìm mình trong nước thanh tẩy là hình ảnh diễn tả mầu nhiệm tử nạn và phục sinh
của Đức Giê-su. Người luôn vâng theo ý Chúa Cha là chấp nhận cứu chuộc nhân loại
bằng con đường « qua đau khổ vào vinh quang » như Người đã ba lần
tiên báo cho các môn đệ (x Mt 16,21 ; 17,22-23 ; 20,18-19).
Về sau,
thánh Phao-lô Tông đồ cũng diễn tả ý nghĩa mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh của
Chúa Giê-su hàm chứa trong nghi thức phép Rửa dìm mình trong nước như sau : «Anh
em không biết rằng : Khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức
Ki-tô Giê-su, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao ? Vì
được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người.
Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của
Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta
đã nên một với Đức Ki-tô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ
nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại» (Rm 5,3-5).
2) GÓP PHẦN CHU TOÀN SỨ VỤ CỨU ĐỘ
TRẦN GIAN CÁCH NÀO ?
a- Làm bùng cháy ngọn lửa tin yêu
Chúa :
Ngoài việc
năng cầu xin Thánh Thần, mỗi tín hữu chúng ta cần siêng năng học sống Lời Chúa
hằng tuần noi gương Cộng Đoàn Hội Thánh Sơ Khai. Nhờ đó chúng ta sẽ được gia
tăng đức tin mỗi lần tham dự thánh lễ và rước lễ. Khi gặp được Chúa, chúng ta sẽ
nhiệt thành giới thiệu Chúa cho tha nhân, như hai môn đệ làng Em-mau đã lập tức
quay lại Giê-ru-sa-lem để loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho nhóm Tông đồ và các bạn (x Lc
24,13-35). Rồi đến lượt các môn đệ sau khi đón nhận lửa Thánh Thần vào lễ Ngũ
Tuần, đã nhiệt thành đi rao giảng Tin Mừng và làm chứng nhân cho Chúa “tại
Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tân cùng trái đất”
(x. Cv 1,8).
b- Sẵn sàng chịu bách hại vì đức
tin : Không phải chỉ những người tội lỗi gian ác mới bị người đời
thù ghét, mà cả những người lương thiện cũng có thể bị kẻ xấu ganh ghét bách hại
do bất đồng quan điểm hoặc do lòng ganh ghét đố kỵ. Trong cuộc sống cũng có biết bao gương sáng của những vị anh hùng. Họ
mang lửa nhiệt tình can đảm trong tim để làm chứng cho sự thật của Tin Mừng. Họ
cũng đã trải qua “một phép rửa” đau khổ như Đức Giêsu đã phải chịu. Chẳng hạn
: Mục sư MÁC-TIN LU-THƠ KINH (Martin Luther King) do can đảm bênh vực quyền
bình đẳng cho người da đen nên đã bị bọn phân biệt chủng tộc ám sát. Đức Giám mục
HEN-ĐƠ CA-MA-RA (Helder Camara) cũng đã can đảm đấu tranh cho người nghèo nên
đã bị thù ghét giết hại… Nhưng chính cái chết của các ngài lại trở thành ngọn lửa
thiêng bùng cháy phát ra ánh sáng chân lý, giúp nhiều người nhận biết tin yêu
Chúa và hợp tác chống lại sự gian ác của ma quỷ.
c- Hăng say loan báo Tin Mừng Nước Trời : Ngày nay Chúa Phục Sinh cũng sai chúng ta đi loan báo Tin Mừng
tình thương, để góp phần xua tan bóng tối “văn hóa sự chết” là những bất công hận
thù, nghèo đói, dốt nát và tội ác… bằng cách làm bùng lên ánh sáng “văn hóa sự
sống”, là lối sống yêu thương khiêm nhường phục vụ vô vụ lợi. Sở dĩ
ngày nay sau hơn hai mươi thế kỷ loan báo Tin Mừng mà nhân loại vẫn còn nhiều bất
công và tội ác, một phần cũng là do lỗi của các tín hữu chúng ta: do ngọn lửa
tin yêu Chúa nơi chúng ta còn yếu, như MAHATMA GANDHI, vị thánh của dân tộc Ấn
Độ đã nhận định : "Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa. Nếu
vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa còn chưa đủ mạnh".
d- Sống Tình Yêu Thương cụ thể : Mỗi tín
hữu chúng ta hãy cố gắng sống Tin Mừng Tình Thương không chỉ bằng lời nói,
nhưng còn bằng sự chia sẻ và phục vụ như lời cầu của mẹ TÊ-RÊ-SA CAN-QUÝT-TA :
“Lạy Chúa Giê-su thương mến. Xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi. Xin hãy làm tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí
và sự sống của Chúa. Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con
chiếu tỏa sức sống của Chúa. Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những
người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con. Xin
cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng
cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim cháy lửa tin yêu Chúa.”
4. CÂU HỎI : Thế giới hiện còn nhiều bóng tối. Vậy
bạn sẽ làm gì để đẩy lùi bóng tối của ma quỷ là nền văn hóa sự
chết như : tội lỗi, bạo lực, đam mê và các tệ nạn xã hội… ra khỏi
môi trường gia đình, khu xóm và nơi làm việc ?
5. NGUYỆN CẦU
LẠY
CHÚA GIÊ-SU. Lời Chúa hôm nay đòi chúng con phải chọn lựa dứt khoát.
Xin cho chúng con biết chọn theo Chúa, sẵn sàng tuyên chiến với các
đam mê tội lỗi. Cũng như hạt lúa cần phải bị mục nát đi mới có thể
mọc lên thành cây lúa; Như bác nông dân cần phải chịu vất vả một
nắng hai sương nơi cánh đồng lúa, mới hy vọng có được mùa gặt bội thu…
Xin cho chúng con cũng sẵn sàng chịu đựng gian khổ gặp phải khi đi loan
báo Tin mừng. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ đưa được nhiều người về làm con Thiên
Chúa và góp phần biến đổi xã hội trần gian hôm nay thành Thiên Đàng hạnh phúc
mai sau.
X)HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG
CON
LM ĐAN
VINH - HHTM