Thách đố của cộng đoàn Ki-tô hữu thiểu số Iraq để duy trì sự hiện diện của
Ki-tô giáo
Từ con số 1,5 triệu, do chiến tranh, khủng bố, bạo lực, bách hại, hiện nay
tại Iraq chỉ còn khoảng hơn 300 ngàn Ki-tô hữu. Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng
định mục đích của chuyến thăm Iraq là để bày tỏ tình liên đới với cộng đoàn
Ki-tô hữu thiểu số tại nước này. Làm thế nào để các Ki-tô hữu ở lại vùng đất cổ
kính của Ki-tô giáo là một thách đố đối với các Ki-tô hữu Iraq và cũng là của
Giáo hội hoàn vũ.
Chỉ còn hai ngày nữa là Đức Thánh
Cha Phanxicô sẽ lên đường thực hiện chuyến viếng thăm lịch sử kéo dài 4 ngày
tại Iraq. Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định chuyến đi của ngài là để bày tỏ
tình liên đới với cộng đoàn Ki-tô hữu thiểu số tại Iraq. Trước năm 2003, tại
Iraq có khoảng 1,5 triệu Ki-tô hữu, chiếm khoảng 6% dân số. Nhưng theo
thống kê mới nhất, tại nước này ước tính chỉ còn khoảng 300 đến 400 ngàn Ki-tô
hữu. Và số Ki-tô hữu này đang ngày càng giảm đi do các vụ xuất cư để tránh khỏi
bạo lực, chiến tranh, bách hại, khủng bố.
Sự hiện diện lâu đời của Ki-tô
giáo tại Iraq
Trong bối cảnh này, chuyến viếng
thăm của Đức Thánh Cha chắc chắn sẽ đặc biệt có ý nghĩa đối với cộng đoàn Ki-tô
hữu Iraq, cộng đoàn đã hiện diện tại vùng Mesopotamia – Lưỡng hà – từ thời đầu
của Ki-tô giáo. Theo truyền thống, Ki-tô giáo được loan báo đến những vùng đất
này từ thế kỷ thứ I, sau khi thánh Tô-ma tông đồ và các môn đệ của ngài rao
giảng Tin Mừng đến tận vùng Đông Á. Do đó Iraq là một miền đất trong Kinh Thánh
và có tầm quan trọng lịch sử đối với mọi Ki-tô hữu, bởi vì sự phong phú văn hóa
và tôn giáo của nó có ảnh hưởng quyết định.
Hiện diện tại Iraq có các Giáo
hội Ki-tô khác nhau. Bên cạnh các Giáo hội Công giáo Can-đê, Siriac, Armeni,
Latinh, Melkite, còn có các Giáo hội Chính Thống và Tin Lành.
Giáo hội Công giáo Can-đê
Giáo hội Công giáo Can-đê là cộng
đoàn Ki-tô giáo đông nhất tại Iraq với khoảng 250 ngàn tín hữu vào năm 2010,
nhưng đã giảm dần từ năm 2014, khi Nhà nước Hồi giáo chiếm đóng miền bắc Iraq.
Giáo hội này có 5 tổng giáo phận: Baghdad, Erbil, Bassorah, Kerkuk và Mosul.
Ngôn ngữ phụng vụ của Giáo hội Can-đê là tiếng Aramaico, nhưng vì các tín hữu
hiện nói tiếng Ả Rập nên Thánh lễ được cử hành bằng hai ngôn ngữ.
Giáo hội Công giáo Can-đê luôn là
tiếng nói kêu gọi hòa giải, tha thứ, hiệp nhất và gắn kết. Trước tình trạng
người dân phải di cư và tị nạn, rời bỏ nhà cửa do bạo lực và các cuộc tấn công
khủng bố, Giáo hội hỗ trợ vật chất và luân lý cho người dân. Các linh mục và
giám mục góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về thảm kịch của dân chúng.
Lịch sử Ki-tô giáo tại Iraq là
một lịch sử của bách hại và phân biệt đối xử
Kể từ khi Hồi giáo xuất hiện và
ngay cả sau khi nước Iraq độc lập ra đời, Ki-tô giáo đã bị đánh dấu bởi sự đàn
áp và phân biệt đối xử. Saddam Hussein đã khai sinh ra một chế độ thế tục, trong
đó, bất chấp việc quốc hữu hóa các trường học của Ki-tô giáo và sự phân biệt
đối xử dai dẳng, các Ki-tô hữu đã tìm ra một phương thức để Giáo hội có thể
thực hiện các hoạt động, cả trong lĩnh vực bác ái xã hội. Nhưng ngay từ thời
chế độ độc tài này, các Ki-tô hữu đã gia tăng xuất cư do các cuộc chiến tranh
nối tiếp nhau trên đất nước bắt đầu từ những năm tám mươi của thế kỷ XX.
Những cuộc xuất cư lớn sau năm
2003 và giữa các năm 2014 đến 2017
Những cuộc xuất cư lớn nhất tại
Iraq xảy ra sau cuộc can thiệp quân sự của Hoa Kỳ vào năm 2003, do tình trạng
mất an ninh, bạo lực và các cuộc tấn công, và từ năm 2014 đến năm 2017, sau khi
Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS ) chiếm miền bắc Iraq. Chỉ trong giai đoạn từ năm
2003 đến tháng 3 năm 2015, 1.200 Ki-tô hữu đã bị giết, bao gồm Đức cha Paulos
Rahho, tổng giám mục giáo phận Mosul của Công giáo Can-đê, bị sát hại vào năm
2008; 5 linh mục và 48 là nạn nhân của cuộc tấn công thánh chiến vào ngày 31
tháng 10 năm 2010, chống lại Công giáo Syriac tại Nhà thờ Đức Mẹ Phù hộ; và 62
nhà thờ bị hư hại hoặc phá hủy.
Ki-tô giáo bị xóa sổ tại vùng
bình nguyên Ninive
Việc Nhà nước Hồi giáo chiếm vùng
bình nguyên Ninive, chiếc nôi lịch sử của Ki-tô giáo ở vùng Lưỡng Hà, đã xóa sổ
sự hiện diện của Ki-tô giáo ở khu vực này, theo đúng nghĩa đen. Hơn 100 ngàn
Ki-tô hữu, cùng với các nhóm thiểu số bị đàn áp khác như người Yazidis, đã buộc
phải rời bỏ nhà cửa của họ. Nhiều gia đình trong số những gia đình này đã tìm
ẩn náu ở vùng Kurdistan của Iraq, chính xác hơn là ở Ankawa, khu Ki-tô giáo của
Erbil, trong các trại tị nạn ở Jordan, Syria, Thổ Nhĩ Kỳ và Li-băng, hoặc đã
xin tị nạn ở châu Âu và các châu lục khác.
Ki-tô hữu cũng rời bỏ miền
Kurdistan
Trong những năm gần đây, ít nhất
55.000 Ki-tô hữu Iraq cũng đã rời bỏ miền Kurdistan của Iraq. Các chiến binh
thánh chiến đã điên cuồng hủy diệt, không chừa các nhà thờ và tài sản của họ,
vốn đã bị phá hủy hoặc hư hại nghiêm trọng. Một phần quan trọng của di sản lịch
sử Ki-tô giáo đã được cứu khỏi sự tàn phá này nhờ Đức cha Najib Mikhael Moussa,
tổng giám mục Mosul từ tháng 1 năm 2019. Ngài đã cứu được hơn 800 bản thảo lịch
sử có từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 19. Đây là một kỳ tích và vị giám mục dòn Đaminh
đã được Liên minh Châu Âu trao tặng Giải thưởng Sakharov vào năm 2020.
Tình trạng bất an và chủ nghĩa bè
phái tiếp tục đe dọa sự hiện diện của Ki-tô hữu ở Iraq
Sau thất bại của vương quốc Hồi
giáo ở Iraq vào năm 2017, các Ki-tô hữu dần dần bắt đầu quay trở lại vùng bình
nguyên Ninive, nhờ sự hỗ trợ của Giáo hội hoàn vũ và đặc biệt là của Tổ chức
Trợ giúp các Giáo hội đau khổ, là tổ chức đóng góp vào việc tái thiết hơn
14.000 ngôi nhà và nhà thờ đã bị phá hủy hoặc hư hại. Trong số 363 công
trình có liên quan bao gồm cả các công trình có chức năng y tế, hỗ trợ xã hội
và giáo dục, 34 công trình hoàn toàn bị phá hủy, 132 bị cháy và 197 bị hư hỏng
một phần.
Ki-tô hữu Ninive hồi hương
Vào tháng 11 năm 2020, gần một
nửa số Ki-tô hữu của Ninive đã trở về, trong khi 80% nhà thờ ở bình nguyên đang
trong quá trình xây dựng lại (ngoại trừ Mosul, nơi mà do sự chậm chạp về mặt
hành chính, công việc chỉ bắt đầu ở một nhà thờ trong số 10 nhà thờ). Cho đến
nay, khoảng 57% số ngôi nhà bị thiệt hại thuộc về các gia đình Ki-tô hữu trong
khu vực và nằm trong kế hoạch can thiệp đã được xây dựng lại, trong đó 35% nhờ
Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội đau khổ. Từ năm 2014 đến cuối năm 2020 tổ chức
này đã lạc quyên được hơn 48 triệu euro để bảo đảm sự hiện diện của Ki-tô hữu ở
Iraq.
Sự trợ giúp của Giáo hội hoàn vũ
Sau thất bại của Nhà nước Hồi
giáo, nguồn tài trợ của tổ chức Trợ giúp các Giáo hội đau khổ đã được chuyển từ
viện trợ khẩn cấp thành các dự án tái thiết và tái cấu trúc. Nhờ tổ chức này, 3
Giáo hội Ki-tô chính ở vùng bình nguyên Ninive (Can-đê, Công giáo Syriac và
Chính Thống Syriac) đã thành lập Ủy ban Tái thiết Ninive (NRC) với mục đích tạo
điều kiện thuận lợi cho các Ki-tô hữu trở về với cộng đồng gốc của họ, sau khi
Nhà nước Hồi giáo sụp đổ, và đảm bảo cho họ và các nhóm thiểu số khác được bảo
vệ hợp pháp và bảo vệ các quyền cơ bản của con người, đặc biệt là quyền công
dân đầy đủ. Nỗ lực liên đới tuyệt vời của cộng đồng Công giáo quốc tế đã giúp
hơn 45% các gia đình cư dân ở Ninive bị bạo lực Hồi giáo xua đuổi có thể trở về
quê hương.
Nỗi sợ hãi sự trở lại của Nhà
nước Hồi giáo (IS)
Tuy nhiên, vẫn còn đó những khó
khăn và sợ hãi ngăn cản sự trở lại của nhiều người. Tình trạng thiếu an ninh,
sự quấy rối, đe dọa và việc dân quân và các nhóm thù địch đòi tiền dân chúng
tiếp tục là mối đe dọa thực sự đối với cộng đồng Ki-tô hữu Iraq, đặc biệt là ở
vùng lãnh thổ này. Báo cáo "Cuộc sống sau thời Nhà nước Hồi giáo: Những
thách thức mới đối với Ki-tô hữu ở Iraq", được công bố hồi mùa thu năm
2020, nhấn mạnh rằng trong số những nguyên nhân chính gây ra nỗi sợ hãi
là hoạt động bạo lực của dân quân địa phương và khả năng trở lại của Nhà nước
Hồi giáo. Kết quả là 57% Ki-tô hữu cân nhắc việc di cư và 55% trong số này có
kế hoạch thực hiện vào năm 2024.
Những khó khăn không ngừng đối
với các Ki-tô hữu Iraq được xác nhận bởi "Open Doors", một tổ chức
Ki-tô giáo giúp đỡ các Ki-tô hữu bị đàn áp vì đức tin. Theo đó, Iraq đứng thứ
13 trong danh sách 50 quốc gia trên thế giới có điều kiện sống khó khăn nhất
đối với các Ki-tô hữu. Tổ chức phi chính phủ cam kết giúp đỡ các Kitô hữu Iraq
thông qua sáng kiến "Trung tâm Hy vọng" nhằm xây dựng lại nhà cửa,
hỗ trợ các dự án phát triển kinh tế - xã hội, trường học và thúc đẩy tinh thần
của họ.
Một Nhà nước thế tục, bảo đảm đầy
đủ quyền công dân cho Ki-tô hữu Iraq
Để bảo đảm một tương lai cho các
Ki-tô hữu ở một nước Iraq hiệp nhất và không còn đe dọa của các phần tử thánh
chiến cực đoan, trước hết cần nhìn nhận quyền công dân đầy đủ và thật sự của
họ. Vì thế, từ nhiều năm qua, các Giáo hội Ki-tô đã yêu cầu một Hiến pháp thế
tục và chỗ đứng cho Ki-tô hữu trong đời sống chính trị và xã hội của quốc gia.
Hiến pháp được phê chuẩn năm 2005 đảm bảo tôn trọng tự do tôn giáo nhưng trong
điều 2 lại thiết lập Hồi giáo là tôn giáo chính thức và là nguồn luật chính. Do
đó, Hồi giáo tiếp tục là một tôn giáo đặc quyền trong chính quyền Iraq, gây bất
lợi cho người dân thuộc các nhóm thiểu số, những người trên thực tế bị phân
biệt đối xử, ngay cả trong việc tiếp cận các vị trí công quyền và học thuật.
Một Nhà nước dựa trên bình đẳng,
công lý, luật pháp
Đức Thượng phụ Louis Raphaël
Sako, Giáo chủ Công giáo Can-đê, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của một cuộc đối
thoại can đảm giữa tất cả các bên liên quan ở Iraq để xây dựng một nhà nước đa
nguyên và mạnh mẽ, tôn trọng mọi công dân, bất kể sắc tộc của họ, trong đó
không có chỗ đứng cho sự ganh đua bè phái.
Hội đồng năm 2019 của Giáo hội
Can-đê kêu gọi thành lập một nhà nước “dân sự” dựa trên "bình đẳng, công
lý, luật pháp" và công nhận sự đại diện công bằng cho các Ki-tô hữu trong
các cơ quan chính phủ. Chính các Ki-tô hữu phải được chọn đại diện của họ trong
Quốc hội và trong các hội đồng cấp tỉnh, đặc biệt là đối với "hạn
ngạch" được giao cho các nhóm thiểu số, mà không có sự can thiệp của
"các đảng lớn" có thể thao túng phiếu bầu và sự đồng ý. Các lãnh đạo
Giáo hội đẩy mạnh việc thành lập một liên minh các đảng Ki-tô giáo, để đảm bảo
sức mạnh quyết định lớn hơn, cả ở cấp chính quyền trung ương và ở khu tự trị
Kurdistan của Iraq.
Những thay đổi tích cực
Từ khi nhậm chức vào ngày 7 tháng
5 năm 2020, Thủ tướng Mustafa al Kadhimi đã nhiều lần bày tỏ ý muốn ngăn chặn
việc các Ki-tô hữu xuất cư và mời gọi họ tham gia vào việc tái thiết đất nước.
Ông nhấn mạnh rằng họ đại diện cho một trong những thành phần đích thực nhất
của Iraq. Những lời tuyên bố của ông được đi kèm với những hành động cụ thể như
bổ nhiệm một nữ tín hữu Công giáo Can-đê làm Bộ trưởng Bộ tị nạn và di dân, hay
việc Quốc hội công nhận lễ Giáng sinh là ngày nghỉ lễ trên toàn quốc.
Mới đây, vị thủ lĩnh Hồi giáo Shiite, Muqtada al Sadr, người đứng đầu đảng
Sadrist hùng mạnh đã gặp Đức Thượng phụ Sako và công bố thành lập Ủy ban thu
thập và xác minh các tin tức và khiếu nại liên quan đến các trường hợp chiếm
đoạt bất hợp pháp các bất động sản của các Ki-tô hữu ở nhiều vùng khác nhau.
Vào tháng Hai, chiến dịch trả lại tài sản bị chiếm đoạt cho các chủ sở hữu hợp
pháp của họ đã được phát động.
Hồng Thủy - Vatican News
Trích nguồn: https://www.vaticannews.va/vi/church/news/2021-03/kito-huu-iraq-hien-dien.html