GIẢI VIẾT
VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2015
BẢN TIN 03
GIA HẠN NHẬN
BÀI ĐẾN 31-3-2015
Thưa quý Ban Biên tập, quý độc giả và quý tác giả,
Thay lời Ban Tổ chức Giải Viết Văn Đường Trường,
tôi xin gửi đến quý Ban Biên Tập các trang truyền thông Công giáo, quý độc giả và
quý tác giả lời nguyện chúc một Năm mới an bình hạnh phúc trong Chúa.
Giải Viết Văn Đường Trường do Ban mục vụ Văn hóa
Giáo phận Qui Nhơn khởi xướng và đã tổ chức thực hiện đến năm thứ 3 (2015).
Chương trình này muốn gợi lên nơi các bạn trẻ Công giáo ý định thử viết một
truyện ngắn có nội dung Kitô giáo, rồi từ đó dần dần sẽ khám phá ra mình có khả
năng sáng tác và có thể trau dồi khả năng này để phụng sự Thiên Chúa và Giáo
hội.
Chúng tôi xin tiếp tục giới thiệu 8 truyện dự thi
mới được chọn qua vòng sơ loại. Xin mời quý độc giả cùng theo dõi, đánh giá và
tham gia bình chọn qua hai câu hỏi: 1. Theo bạn, truyện nào xứng đáng đạt giải
nhất? 2. Có bao nhiêu người cùng ý kiến như bạn? Ba độc giả đáp đúng nhất sẽ
được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao giải và
hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
Quý độc giả có thể gửi phiếu bình chọn ngay sau
từng đợt bài được giới thiệu. Khi đọc các truyện ở các đợt tiếp theo, nếu thay
đổi ý kiến, có thể gửi phiếu bình chọn mới. Chúng tôi sẽ tính theo phiếu gởi
sau cùng của mỗi người.
Ước mong quý độc giả khắp nơi tích cực vận động để
có thêm nhiều tác giả hưởng ứng và tiếp tục tham gia cuộc thi.
Xin mời xem Bản Thể Lệ Giải Viết Văn Đường Trường
đính kèm cuối bản tin này.
Nhân đây Ban Tổ chức xin thông báo: Nhận thấy có
nhiều tác giả muốn tham gia dự thi nhưng không kịp hoàn thành bản thảo, để tạo
điều kiện cho các tác giả có thời gian hoàn thiện bản thảo dự thi, Ban Tổ chức
xin gia hạn việc nhận bài của giải 2015 thêm một tháng. Hạn cuối nhận bài là
đến hết ngày 31-3-2015. Rất mong sẽ có thêm nhiều truyện dự thi gởi đến cho Ban
tổ chức trong “giai đoạn nước rút” này.
Nếu quý độc giả phát hiện bài nào chỉ là phóng tác
từ một tác phẩm khác đã công bố, xin vui lòng cho Ban Tổ chức được biết.
Xin chân thành cám ơn các trang truyền thông Công
giáo đã và đang hỗ trợ truyền bá chương trình này, cám ơn quý tác giả đã gửi
bài tham gia và cám ơn quý độc giả đang quan tâm theo dõi cuộc thi. Nguyện xin
Thiên Chúa giàu lòng thương xót chúc lành cho tất cả chúng ta.
Qui Nhơn, ngày 27-02-2015
Thay lời Ban Tổ chức
Linh mục TRĂNG THẬP TỰ
BÀI DỰ THI
Mã số:
15-029
Nhập Đạo
Phục vụ là cho không, phục vụ là quên mình, phục
vụ không cần đền đáp, phục vụ… Kít…ít…ít… (tiếng thắng xe).
Tôi: Xin… xin lỗi cô, cô có sao không cô?
Cô: Không sao, không sao, mà sao đi nhìn mây nhìn
trời thế hở con?
Tôi: May quá, cô không sao là tốt rồi. Dạ… dạ tại
vì… (đứng như trời trồng).
Cô: Yêu đương quá chứ gì, à mà sao lại lạc vào nhà
thờ thế hở, đăng ký kết hôn à?
(câu hỏi quá bất ngờ khiến hồn tôi sợ bay đi mất
tiêu).
Cô: Con đang nghĩ gì vậy?
(hồn tôi giờ mới trở về với chủ)
Tôi: Dạ… dạ, không có gì đâu cô, con tới đưa bài
sai giúp xứ .
Cô: À, con là thầy dòng hở? Xin lỗi cô không biết…
Tôi: Dạ lỗi gì hả cô, xém tí nữa là con đâm cô mà,
con xin lỗi cô mới đúng chứ. À, con tên Nhân, cô cứ kêu con là Nhân thì được
rồi cô.
Cô: Ừ… cũng được. Mà thầy trình cha sở chưa? Chưa
thì thầy vào trình đi, rồi còn dọn phòng nữa.
Tôi: Dạ chưa, vậy thì con chào cô, con vào trình
cha đã. Chào cô!
Cô: Chào thầy, có gì thầy với tôi nói chuyện sau
cũng được.
Cô, một dáng người nhỏ nhắn, làn da ngăm đen, đôi
bàn tay chai sạn chắc là do sự khổ cực của năm tháng. Đặc biệt đôi mắt đen của
cô như một thanh nam châm, cảm tưởng
như có thể hút những ai nhìn vào nó.
Những người giáo dân trong giáo xứ cho hay, cô là cô bếp của cha sở, mọi người
gọi cô bằng cái tên thân mật là cô Sáu, chẳng ai biết cô tên thật là gì, xuất
thân từ đâu, mà cũng chẳng ai buồn muốn biết.
Ngày tháng
như những áng mây bay, lặng lẽ trôi, những ngày tháng giúp xứ của tôi chưa biến
động gì nhiều, lúc rảnh rỗi, tôi thường tìm niềm vui với người bạn- cây đàn
guitar của tôi, cây đàn cũ kỹ in dấu những ngày tháng giúp vui cho cuộc đời.
Vào một
chiều như thế, cha sở vắng nhà, đang nghêu ngao hát- hát hay không bằng hay hát
mà! Bùm…mmmmm… Bỗng dưng trời nổi trận lôi đình, những đám mây đen ùn ùn tụ họp
lại. Mưa… Trời đã trút sự giận dữ của mình lên mặt đất, những chiếc lá non,
những chú chim non vô tội phải hứng chịu cơn giận đó. Một trận mưa lớn chẳng
biết khi nào dứt. Những hàng chữ vô hồn trong cuốn sách mà tôi vớ được trên bàn
học, cứ lượn qua lượn về trước mặt tôi- chẳng hiểu tụi nó có bay được vào tâm
trí tôi hay không chứ tôi thì ngáp dài ngáp ngắn. Một bóng dáng đang hấp ta hấp
tấp tiến lại gần.
Tôi: Chào cô, mưa lớn thế này, cô gặp con có
chuyện gì không cô?
Cô: Mưa lớn, cũng không có gì làm, nhớ tới thầy,
qua xem thầy có cần gì không thôi!
Tôi: Dạ, không có gì đâu cô, mà cũng giống cô,
chưa nghĩ ra được việc gì làm, hay cô với con ngồi nói chuyện cho qua hết cơn
mưa cũng được cô.
Cô: Ừ, nhưng mà cô không biết nói chuyện gì hết.
Tôi: Thế cô kể cho con cuộc đời của cô đi cô, cuộc
đời hào hùng của cô, con nghe giáo dân nói thế.
(Một sự bất ngờ, hiện rõ trên đôi mắt đen láy của
cô)
Cô: Ôi dào! Chuyện quá khứ mà, có gì là hào hùng
đâu.
Tôi: Dạ, chứ giờ con cũng không biết chuyện gì để
nói hết, đi cô! (một sự năn nỉ, nhỏng nhẽo kèm theo)
Cô: Thôi, sơ lược cũng được- đợi cô một tí- (1phút
sau) 2 ly sữa nóng nằm gọn trên tay cô. - Uống cho bớt lạnh thầy- Một nụ cười
kèm theo câu nói của cô.
Những tia sét hào nhoáng đánh vào không trung. Cô
bắt đầu kể- kèm theo những tiếng gầm rú của sấm, như những con thú hoang dại- Mẹ
thiên nhiên dã ban cho trái đất một cơn mưa, gột rửa những dơ bẩn của nhân
gian- Cuộc đời cô cũng bắt đầu từ đây, bắt đầu với những mưa.
Tại một căn nhà, không nói đúng hơn là một căn
biệt thự, không gian yên ắng như một buổi tâm nguyện, mọi người đang háo hức,
pha lẫn chút hồi hộp chờ đợi một sinh linh sắp chào đời…
- Oe... oe... oe…
Một bé gái, một bé gái xinh xắn- Bà đỡ chạy hối hả
ra thông báo cho gia đình, hạnh phúc hiện lên nét mặt của mọi người. Giờ đây,
sự yên ắng phải rút lui nhường chỗ cho những tiếng cười nói, chúc phúc, gia vị
được thêm vào cho có phần ngọt ngào- giọt nước mắt của người mẹ.
Không một thiên thần nào có cuộc đời may mắn như
cô- cho đến lúc thượng đế lấy nó lại. Gia đình cô có năm người: ba, mẹ, hai anh
trai và cô, gia đình cô theo nghiệp nhà binh, nên từ nhỏ cô được huấn luyện
tinh thần khá cứng cỏi. Cô sống dưới mái nhà đầy đủ tiện nghi và vật chất vào
thời đó, những con búp bê, những món đồ chơi của nước ngoài, những món quà đầy
tình thương hai anh trai, đặc biệt hơn hết, là tình yêu của ba và mẹ cô, cô chỉ
còn mỗi việc lo là kiếm cái chuyện gì để mà lo.
Nhưng đời không như mong ước, sự ra đi không bao
giờ trở về của ba và hai anh tước đi sự hạnh phúc của cô.
Một buổi sáng, mùa xuân, mưa rả rích rơi. Năm đó
cô vừa tròn mười tuổi.
Ba với hai anh đi đâu vậy ba?- Cô nói- Sao không ở
nhà chơi với con?
Ba với hai anh đi công tác, tuần sau về với thiên
thần bé nhỏ của ba. Con ở nhà ngoan, vâng lời mẹ, rồi ba sẽ mua quà cho con- Ba
cô nói: Em ở nhà chăm sóc con chu đáo nhé, chuyến đi này khá khó khăn, nên đi
có thể lâu đó- vẻ mặt hơi buồn nói với mẹ cô.
Anh với hai con đi bình an, nhớ giữ gìn sức khỏe- Mẹ
cô đáp lời- mọi việc ở nhà anh cứ yên tâm, nhớ viết thư cho hai mẹ con em.
Ba nói: Thôi anh với hai con đi đây cho kịp chuyến
tàu.- Nước mắt ba đã rơi, nhưng cơn mưa đã xóa đi dấu vết.
Đó là một cuộc chia ly, và không bao giờ được gặp
lại. Những ngày thiếu vắng bóng đàn ông trong gia đình , cuộc sống xáo trộn, mẹ
cô từ một con người hoạt bát vui vẻ trở nên trầm tính lạnh lùng, lạnh lùng ngay
với chính bản thân. Cô cũng không khá hơn, những giọt nước mắt giờ đây là trò
chơi của cô thay vì những con búp bê thường ngày, nước mắt rơi vì nhớ ba, nhớ
anh- Nhớ những ngày ba bồng ba bế, ba nựng má, nhớ những món quà của ba, nhớ
những lần tranh giành đồ chơi với hai anh, những lần bị anh đánh rùi nũng nịu
mách mẹ, để rồi sau đó hả hê khi nhìn thấy hai anh bị phạt, bị đánh- giờ không
còn nữa.
Sau những
ngày tháng đen tối, hai mẹ con chia tay căn biệt thự- chia tay những hạnh phúc,
thương nhớ đi tìm hạnh phúc mới. Mẹ cô đã đi bước nữa- một người đàn ông công
giáo- từ đây cô được tiếp xúc với đạo, nhưng cũng không lấy gì là hứng thú, chỉ
là vào đạo vì mẹ cô.
Vết thương cũ vừa mọc da non, một lần nữa, vết
thương lại bị đâm sâu hơn. Một cơn đột quỵ quái ác, đã cướp đi người thân còn
lại của cô- Những giọt nước mắt giờ đây đã không còn hiện diện trên khuôn mặt
của cô- chắc tại vì nỗi đau đã đè nén không cho nó rơi nữa.
Hôm nay là ngày mấy mà trời mưa to ghê!- Quay về
với thực tại, cô nói, nhìn lên tấm lịch treo tường phòng tôi- Ôi!ngày ông không
tha bà không tha! Thầy uống sữa đi không thì nó nguội mất, cô thấy thầy cũng gà
gật rồi đó, chắc cô không kể nữa đâu- Cô nói tiếp, mắt cô bắt đầu đỏ lên.
Cô à, con biết chuyện đời của cô buồn nhưng cô đã
kể thì cũng kể hết luôn cô, một sợi dây bị đứt nối lại vẫn được những nó lại
không có trơn tru gì hết, mà cô có khiếu kể chuyện ghê- Tôi cười.
Sau khi đưa mẹ về với đất, cô bỏ nhà ra đi, cô bắt
đầu lao vào công việc như một người điên, làm đủ mọi việc, làm từ khi mặt trời
chưa kịp mở mắt cho đến khi ông trăng cũng buồn treo trên đỉnh cây cao- Cô làm
để cố gắng quên đi những mất mát, quên đi mọi người và quên đi chính thân mình- Hình như, chỉ có thân xác cô làm
việc, chứ tâm hồn đã nằm dưới đáy vực sâu! Cô tưởng cuộc đời cô đã chết từ đây,
nhưng tình yêu đã đem nó trở lại với cuộc sống- Một lần, vào một buổi tối, vì
sự hiểu lầm của ông chủ nơi cô làm việc, cô đã bất mãn, cô chán ghét thế giới,
cô chán ghét mọi người. Trời mưa chảy nước mắt thay cô, mưa to, to lắm, cô bắt
đầu chạy, không cô lao đi, lao đi một cách vô dịnh trên cái thế giới đầy cô
đơn.
Bốp… Cô ngã lăn quay xuống mặt đường, cố gắng
ngước ngước nhìn lên, cô bắt gặp một người đàn ông cao lớn.
Xin… xin lỗi, tôi tôi không cố ý.
Cúi xuống đỡ cô dậy- Tôi không sao, cô có sao
không, sao tự nhiên lại chạy dưới mưa thế? - Người đàn ông đó nói.
Chỉ bị trầy xước nhẹ thôi, tôi…. Tôi… - Đôi mắt
không theo sự điều khiển của chủ nhân nó nữa, từ từ khép lại.
Sáng hôm sau, cô thấy mình nằm trên một chiếc
giường nệm, ấm áp, cố gắng nhớ những sự việc đã xảy ra vào tối hôm qua, những
càng nghĩ càng không nhớ gì hết- Đang lang thang trên chuỗi dài suy nghĩ- một
bóng ai đang tiến lại gần- một chàng trai.
Cô dậy rồi à, sao rồi thấy người khỏe hơn tí nào
chưa? Tối qua thấy cô sốt quá, mà không biết nhà nên tôi cõng cô về nhà tôi- Anh
ta nói.
Mặt đỏ ửng, cô nói- Em hơi choáng thôi, cám ơn anh
đã giúp. (Cô nghĩ người đó lớn hơn cô)
– Không sao, giúp người là việc bổn phận mà- Một
nụ cười hiền từ nở trên môi anh.
– Cứ ở đây đi, nhà tôi rộng lắm mà tôi ở có một
mình à, nên cô cứ ở khi nào thấy khỏe rồi về cũng chẳng sao- Anh nói tiếp- Mà
nhà cô ở đâu, tôi sẽ tới báo cho ba mẹ yên tâm.
– Dạ ba mẹ em qua đời hết rồi, em ở có một mình à-
Mắt cô đỏ hoe lên.
– Xin lỗi, tôi không cố ý- Anh ái ngại.
– Không sao đâu anh- Cô trả lời.
– À cô ở một mình hả, nếu không ngại thì qua nhà
tôi ở luôn, nhà tôi rộng mà tôi ở có một mình à. Đươc không?- Anh hỏi.
– Chắc
không được đâu anh, em sợ người ngoài đàm tiếu- Với lại em cũng phải đi làm
thêm nữa- Cô trả lời.
– Tôi không nói thì thôi, chứ người ngoài dám nói-
Anh cười- Cứ coi như tôi thuê em qua làm giúp tôi cũng được miễn phí toàn bộ mà
thêm lương nữa, tôi cũng hay đi vắng, nên cũng cần kiếm người trông nhà.
Sau một hồi năn nỉ anh cũng khuyên được cô- Vẻ mặt
anh lúc đó vui như một đứa trẻ được người lớn cho quà vậy đó.
Từ giờ phút đó, cô dọn qua ở bên nhà anh, còn anh
hay đi công tác, khi rãnh rỗi, hai người hay ngồi tâm sự, và cảm thấy rất hợp
nhau, giống như trời ban cho cùng một tính cũng một cảnh ngộ vậy. Sau đó, cô
với anh tiến tới hôn nhân, dưới sự chứng giám của trời và đất. Một bữa tiệc nhỏ
chỉ dành cho hai người, những hoài bão ước mơ được vẽ lên- Niềm vui ngắn chẳng
tày gang! Chưa đầy một tháng sau khi cưới, anh bị tai nạn và qua đời- cũng vào
một ngày mưa- Một cái kết ông trời trêu cô- những người thân những người yêu
lần lượt ra đi. - Giờ đây cô làm bạn với căn nhà, làm bạn với sự cô đơn, làm
bạn với những đợt sóng suy nghĩ của bản thân- hình ảnh những người thân cứ lượn
trước mặt cô, những cơn cám dỗ, sự yếu đuối đang ngày mỗi nặng gánh hơn và cô
đã suy sụp.
– Bà con ơi!bà con ơi, có người tự tử- Đó là vào
một buổi sáng mưa ngâu, cô quyết định cùng chung sống với ba mẹ, chứ không muốn
sống ở đời đầy bất công này- Vừa chạm tới mặt sông, cô cảm nhận được sự êm dịu,
hiền hòa, dòng nước gột rửa những đau khổ, những mất mát trong thời gian qua
của cô. Cô như thể trở về ấu thơ, vô tư chơi đùa với nước, chìm đắm trong dòng
nước- Bỗng ngước nhìn lên cao, cô thấy khuôn mặt quen thuộc- mẹ cô- đang mỉm
cười hiền dịu với cô.
– Mẹ ơi, dẫn con theo với- Những giọt lệ hòa với
dòng sông khiến nó trở nên mặn hơn- nước mắt cô đã trở về với cô.
– Con à, cuộc sống là phải hy sinh, phải chiến
đấu, con của mẹ không thể dễ đầu hàng như vậy được. - Mẹ khuyên cô- Đưa tay đây
mẹ giúp con về với thế giới, và hãy sống tốt, sống có ích.
– Con… con không thể… Con muốn ở bên mẹ, con muốn
có chỗ dựa tinh thần. Đừng để con bơ vơ- Nước mắt cô hình như giờ đây là vô
tận.
– Mẹ sẽ ở với con, mẹ yêu con, con bé bỏng của mẹ,
đưa tay ra mẹ giúp con.
Vâng lời mẹ cô đưa tay lên và hình bóng của mẹ mờ
dần mờ dần trong màn sương buổi sớm- M…ẹ - Cô hét lên- Giật mình tỉnh giấc, cô
thấy mình nằm trong một căn phòng nhỏ, bất giác, cô nghe tiếng chuông- không
phải tiếng chuông chùa cô thường nghe.Cô cố gắng lê từng bước chân đi quan sát-
Đó là tiếng chuông của nhà thờ- mà sau này cô mới biết đó là một tu viện nữ.
– Chị dậy rồi à ?- Một người mang lúp trắng hỏi.
– Tôi đang ở đâu đây?- Không trả lời vào câu hỏi
chính cô hỏi lại người lạ.
– Đây là dòng tu Công giáo- người đó nói tiếp- Hôm
qua có người đem cô vào đây nhờ chăm sóc, họ nói cô bị trượt chân rớt xuống
cầu.
Sau mấy phút nói chuyện, cô được cho ở lại cho tới
khi nào khỏe. Nhưng sau một tuần ở đây, cô thấy hạnh phúc lạ thường, nhưng con
người đó- những chị nữ tu- chăm sóc cô rất chu đáo, nhiệt tình, họ dạy cô nói
chuyện với ba mẹ, với thượng đế của họ. Đọc kinh… cô cảm thấy ở đây như được ở
nhà. Sau khi khỏe hẳn với tinh thần tốt nhất, cô cứ lưỡng lự ra đi hay xin ở
lại. Và, con tim cô đã hướng dẫn cô, cô xin được vào đạo và được phục vụ như
một chị giúp việc- công việc cô đã quá quen thuộc.
Cuộc đời cô đã sang trang mới, cô bắt đầu hăng say
phục vụ, kinh nguyện, cầu nguyện, và bắt đầu cảm nhận được cuộc đời, cuộc sống,
con người- Năm đó cô ba mươi tuổi- Được mấy năm, một lần nữa Thiên Chúa lại thử
thách cô- Dòng bị giải thể- Mẹ bề trên vì mến cô, nên giới thiệu cô đến với
giáo xứ này.
– Nên giờ cô mới gặp được con đó- Tôi cười.
Cơn mưa nặng hạt đã bớt giận, những tia nắng vàng
đã sưởi ấm lại cho mặt đất thân yêu, sưởi ấm cho người cho đời. Những mầm non
cũng đã vượt qua cuộc thử thách đầu tiên trong đời, để rồi sau này làm đẹp cho
đời- Tôi nghĩ thầm.
Một hồi chuông vang lên, chuẩn bị cho buổi lễ. Cô
ra về. Tôi lại nghĩ về Thánh giá Chúa trao cho tôi nhẹ nhàng nhưng cũng đầy thử
thách- Hãy tin tưởng vào Chúa quan phòng vì “Một sợi tóc trên đầu các con cũng
đã được đếm cả rồi”- Tôi nhủ thầm.
Mã số:
15-030
Phát
xít kiểu mới
Tại một trường trung học vào giờ ra chơi.
Những tia nắng nhảy nhót trên những tán lá bàng,
những nhành lá đu đưa theo nhịp từng cơn gió, những con người của tương lai tạo
thành từng nhóm nhỏ đang tranh bàn vấn đề gì đó, mà có lẽ chỉ người trong cuộc
mới có thể hiểu, tạo ra một khung cảnh của một buổi chợ- buổi chợ kiến thức. Trên
những hành lang nối dài các phòng học, một nhóm tiểu quỷ đang nghịch cùng nhau,
đùa giỡn cùng nhau.
– Ê mày, có con nhỏ nào lạ quá mày!
– Con đó mới chuyển tới trường mình năm nay đó.- Có
tiếng một thằng con trai đáp.
– Này cô bé kia! Cô là ai, cho anh xin làm quen.- Một
giọng vịt đực cất lên.
– Ôi dào, để tao!
Cô kia,
cô ở nơi nào?
Làm cho
ta thấy cũng nao nao lòng…
Má hồng
cùng với song mi
Thôi thì,
phải nói không ai sánh bằng!
– Ê… ê thầy tới tụi… tụi bây ơi…iii!
Nhốn nháo, cả bọn chen chân vào lớp- như một đám
người hốt hoảng thoát thân khỏi cảnh chết chóc. Mọi thứ bỗng dưng bất động im
ắng khác thường, trong lớp, học sinh đứng nghiêm trang như những chú lính đang
chuẩn bị duyệt binh, thiên nhiên cũng lắng theo cho hợp nhịp. Những đám mây
trắng bồng bềnh treo lơ lững trên trời xanh cố gắng giữ mình khỏi cuốn theo
những cơn gió đang mãi miết rong chơi, dưới đất những cơn gió đã chịu đứng lại,
những tán lá bàng xanh ngắt cũng đã đứng nghiêm trang. Giờ đây mọi thứ dường
như đang bất động, chỉ còn những chú côn trùng chăm chỉ làm việc với đôi cánh
không mệt mỏi. Một bóng dáng cao gầy, đầu tóc đã điểm những dải tuyết trắng
thoăn thoắt bước vào lớp.
– Chúng em kính chào thầy vào lớp ạ!- Một dàn đồng
ca vang lên, có vẻ như đã tập trước hàng ngàn lần. Bỗng dưng, ở một xó xỉnh nào
đó, nhỏ giọt những tiếng cười.
– Em nào
vừa cười xong lên đây!- Giọng khàn khàn cất lên.
Ba thằng
tiểu quỷ, hình như mới trở về từ thiên đình từ từ cúi đầu đi lên, khuôn mặt
không thấy có dấu hiệu của sự sợ hãi.
– A… à, lên đây mà còn tươi được à!- Vẫn là cung
giọng khàn khàn đó.
Lại là ba thằng phát xít. Sau đó một thằng nhận một
roi ân huệ của ông thầy nổi tiếng khó nhất trường.
- Thuộc bài
không?- Tiếp tục với giọng khàn hơn.
Hình như ba
tụi nó có một sợi dây liêt kết cùng nhau, nói đúng hơn ba đứa nhưng chỉ là một.
- Dạ chưa!- Đồng thanh đáp.
- Ra ngoài!-
Như một cơn sấm nổ vang, tưởng chừng căn phòng nhỏ bé chuẩn bị vở tung.
Nụ cười,
vẫn hiện diện trên ba khuôn mặt được gọi là phát xít, và lững thững nối đuôi
nhau ra ngoài như một đoàn tàu lăn bánh. Cả lớp nhìn tụi nó với vẻ đầy thích
thú, nhưng chẳng ai có gan làm như tụi nó.
Từ đầu năm
học tới nay, nhóm phát xít này đã nổi tiếng ở trường- một cách nổi tiếng mà từ
trước đến nay, và cả sau này sẽ không có nhóm nào nổi tiếng và dám nổi tiếng:
Được nêu tên lên cột cờ vào thứ hai đầu tuần. Những tuần đầu năm học cả nhóm
được nêu tên lên cột cờ, cả trường chú ý, chế giễu nhưng càng về sau, đề tài
bàn tán cho cả trường trong những ngày tiếp theo là việc nhóm phát xít không
được lên nêu tên trên cột cờ.
Nhưng xét cho cùng thì cũng là những trò vặt vảnh
của tuổi mới lớn. Ba đứa phát xít đó là ai? Và tại sao lại được gọi là phát xít?
Nguyễn Minh Đức một học sinh có tư chất, kiên
định, sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo, ấm áp, nhưng chẳng được bao
lâu bà mẹ đã khăn gói ra đi kiếm giấc mơ mới, năm đó Đức vào lớp tám. Từ đó trở
đi, trên khuôn mặt của Đức có mang một chiếc mặt nạ băng, trừ hai thằng bạn
thân thì việc tiếp xúc, nói chuyện với Đức hình như là điều không thể.
Võ Văn Nhật, mọi người hay gọi là “Nhật thơ”,
phóng khoáng, đa tình… được nhiều người theo, sinh ra trong một gia đình ba đời
đều là những nhạc công, sống cuộc sống khá sung túc, nhưng những vấn đề trong
gia đình làm ngôi nhà như một cái nhà tù đối với Nhật
Phan Xuân Ý, từ nhỏ sống với bà ngoại, ba mẹ đi
làm ăn xa. Cũng vì thế, nên người Ý yêu thương nhất không ai khác là bà, và
cũng vì bà, Ý đã đăng ký vào dự tu giáo xứ để trở thành linh mục, đó là ước
nguyện của bà mặc dù Ý không thích tẹo nào.
Đức, Nhật, Ý, ba thằng bạn chơi với nhau từ thuở
thiếu thời, mà chẳng hiểu tại sao với ba hoàn cảnh ba tính cách khác nhau như
thế chúng lại có thể trở thành bạn, mà còn là bạn chí thân hiểu nhau như hiểu
chính bản thân. Cách đây hai năm, vì sự đa tình của mình, Nhật đã kéo hai thằng
bạn vào cuộc ẩu đả với nhóm lớp trên chỉ vì một đứa con gái. Sau cuộc ẩu đả, cả
nhóm ba đứa, đứa nào cũng loang lỗ những vệt máu. Và đó chắc cũng là dấu chứng
kết nghĩa huynh đệ, từ đó tụi nó như hình với bóng.
Sau bốn tháng với con mắt khinh khi, chê cười của
cả trường thì một sự kiện khiến những suy nghĩ tiêu cực kia phải xét lại.
– Tụi mầy ơi, trường mình có sự kiện gì mà tụi nó
chen chúc nhau xem thông báo kìa!- Nhật lên tiếng.
- Ôi dào, ba cái tin tào lao!- Ý tiếp.
- Thì mình tới coi cho vui, chứ giờ cũng chẳng làm
gì hết mà. Được, đi thì đi!- Đức giờ mới lên tiếng.
Một đám đông ồn ào náo nhiệt. “Gì vậy tụi bây? Tránh
ra cho tao xem với…”. Mồ hôi nhễ nhại trên khuôn mặt ba đứa sau khi cố chen vào
đám đông.
- Tưởng gì chứ lại là thi thử để tuyển học sinh đi
thi học sinh giỏi- Nhật thở dài.
- Thi không tụi bây?- Đức lên tiếng.
- Ôi dào, thi làm gì cho mệt, tao còn nhiều việc
có ích hơn. - Ý đáp.
- Thi thử cho biết thôi mà, có gì to tát đâu?- Đức
nài nỉ.
- Được, thi thì thi, ba cái chuyện cỏn con. - Nhật
chen vào.
Thế rồi không biết tụi nó làm cách nào, gian lận
thi cử hay sao mà lai được trường tuyển đi thi học sinh giỏi cấp tỉnh dù mới
chỉ vào học lớp mười. Và cũng chẳng hiểu tại sao, tụi nó lại đem được vinh
quang về cho trường với ba cái giải nhất. Mà trước ngày thi, tụi nó vẫn chơi,
vẫn phá phách, thầy cô trong trường tưởng như đã đặt niềm tin nhầm chỗ.
Những thành công của tụi nó được cả trường nhìn
với ánh mắt kẻ hoài nghi, người ngưỡng mộ, nhưng ba anh chàng với vẻ mặt thờ ờ,
chẳng quan tâm lắm tới vấn đề đó, và cũng không bị chi phối bởi những giải
thưởng cao. Ba anh chàng vẫn ngựa quen đường cũ, vẫn ăn những cái trứng ngỗng,
vẫn đứng cột cờ như thường lệ, và những điều đó tụi nó cảm thấy khoái chí hơn
khi được tung hô.
- Ê, tụi mầy… - Ý nói- Trong nhóm dự tu của xứ có
con bé cũng tuổi mình xinh ghê! - Ý bật cười- Nhưng hình như nó là con của nữ
hoàng băng giá mày à, mặt nó lạnh như tiền, chẳng thèm nói chuyện với ai hết.
- Ôi dào!- Nhật cất tiếng- Ba cái chuyện cỏn con,
tau mà đã cưa thì chỉ có mà đổ.
- Xạo vừa thôi mày!- Đức vẻ mặt thờ ơ chen vào.
- Hay tụi mình đánh cược với nhau đi.- Ý nói.
- Ai cưa đổ bé đó thì được làm đại ca- Nhật cười
vẻ đắc thắng- Tụi mầy kêu tau bằng đại ca cho nhanh, dễ như ăn cháo!
- Thằng này được, tau chẳng quan tâm nhưng vì mầy
đắc thắng tau sẽ đánh cược với mày- Đức điềm tĩnh nói- Nhưng mà tụi mình đâu có
trong dự tu mà tiếp cận?
- Chuyện cỏn con!- Ý nói- Vào dự tu là được chứ gì
đâu.
- Thôi, tau không thích đi tu- Đức, Nhật đồng
thanh.
-Thì tau có nói tụi mày đi tu đâu!- Ý giải thích- Vào
dự tu, cưa bé đó rồi ra thôi.
- Nhưng…nhưng…- Đức lưỡng lự.
- Nhưng nhị gì ở đây. Quyết định vậy đi, cứ thế mà
làm.- Ý chen vào.
- Được, vì sự nghiệp làm đại ca!- Nhật, Đức lên
tiếng.
Ngay hôm sau, ba đứa hiển nhiên có trong danh sách
dự tu. Dự tu trong giáo xứ vỏn vẹn có được mười ơn gọi. Ngày ngày, anh chị em
được tổ chức đọc kinh, tham dự thánh lễ, suy niệm, chán ơi là chán! Vì một lý
do nào đó, mà họ không thể ra khỏi dự tu, không ai biết, trừ chính họ.
Khi vào dự tu, ngoài Ý đã biết trước mùi vị, hai
anh chàng kia thì ngỡ ngàng, bàng hoàng, cảm giác khó chịu ngộp thở bao trùm
lấy họ, như người bị lôi xuống nước vậy. Họ định từ bỏ ý định, nhưng với vụ
đánh cược, lòng tự trọng không cho phép hai anh chàng kia bỏ cuộc.
Vào một buổi tối, tại giáo xứ, khi chỉ còn một
nhóm nhỏ dự tu.
- Chán quá tụi bây, biết làm gì cho hết chán bây
giờ?- Nhật ca vãn.
- Dễ ợt, về nhà đắp chăn ngủ.- Ý trả lời.
- Dẹp mày đi!- Đức đáp lại.
- A… hay là tụi bây ngồi ở đây, chờ tau dăm phút-
Nhật có sáng kiến.
- Để làm…- Ý, Đức chưa kịp nói hết câu đã thấy
thằng bạn chạy mất.
- Ngồi chờ chứ biết sao giờ!- Đức thở dài.
Năm phút sau… Mồ hôi nhễ nhại, Nhật đang phóng như
bay về phía hai thằng bạn, trên vai đang đeo một cây đàn guitar cùng với cái
trống cajon (*) đang cầm trên đôi tay.
– Tụi mày ơi, hát hò cho có tí không khí đi!- Hổn
hển khi vừa tới gần hai thằng bạn.
- Ôi dào, đúng là…- Đức lên tiếng.
- Hát cho trâu nó nghe!- Ý chen vào.
- Kệ đi, hát hay không bằng bằng hay hát mà.- Một
nụ cười nham hiểm trên đôi môi của Nhật.
- Được, ba cái trò cỏn con, hát thì hát!- Hai
thằng bạn giành nhau nói.
Vậy là cả nhóm bắt đầu. Tiếng đàn, tiếng trống
cùng với giọng ca trầm ấm vang lên. Không gian đứng sững lại, hình như đầy vẻ
bất ngờ trước sự biến đổi đột ngột. Những gương mặt ảm đạm, đôi chân nặng nề lê
bước của dự tu, giờ đây nhường chỗ cho sự vui tười, hoạt bát đúng chất của một
người dự tu. Họ cùng nhau cát tiếng hát, vui vẻ quay quần bên nhau. gắn kết với
nhau.
Kể từ ngày hôm đó, không khí dự tu có vẻ đổi khác
hẳn, những sinh hoạt bắt đầu nảy mầm, xen lẫn những giờ lễ kinh nguyện. Dự tu
từ con số mười, giờ đã nhảy lên tới con số năm mươi chỉ trong vòng hai tháng.
Ngoài những buổi sinh hoạt chung trong xứ, còn tổ chức những buổi giao lưu văn
nghệ, thể thao với các xứ bạn- đó là công sức và ý tưởng của ba đứa phát xít.
Những buối sinh hoạt, tổ chức khiến suy nghỉ ban đầu vào dự tu để tán gái đã
không còn hiện diện trong tâm trí của ba anh chàng, nhưng ý định đi tu của ba
anh chàng thì hình như cũng không hề có. Cuộc sống cứ thế nối dài thêm, ngày
ngày, tháng tháng, năm năm, ba anh chàng giờ đây phải chọn cuộc sống cho riêng
mình, đó là cuối năm mười hai trung học phổ thông.
Buổi sáng đầu tuần…
- Chào các em!- Thầy chủ nhiệm hiền lành nói- Các
em lớn hết rồi, phải tự quyết định con đường của mình. Hôm nay các em phải làm
hồ sơ đăng ký thi đại học, một con đường mới đang đợi các em, các em phải suy
nghĩ, lựa chọn cho đúng kẻo phải hối hận đấy!
Cả lớp nhốn nháo, như một bầy chim non đang đói
mồi.
- Đức mày định thi vào trường nào?- Nhật hỏi.
- Tao ấy à, Đại học Sư phạm, tao muốn làm giáo
viên.- Đức đáp như đinh đóng cột.
- Ý, còn mày thì sao?- Nhật hỏi tiếp.
- Tao thì chắc đi Đại học Y.
- Còn tao đi nhạc viện, chắc chắn rồi.
Rồi mỗi đứa chìm vào một cõi suy tư riêng. Đây là
lần đâu tiên ba anh chàng phải suy nghĩ thì phải, chẳng quan tâm đến xung quanh,
cho đến khi một hồi chuông nhà thờ vang lên (trường học gần nhà thờ). Giật mình
ba anh chàng nhìn quanh, trong tầm mắt chỉ còn lại những cái bàn, cái ghế, gió
hiu hiu thổi, nắng cũng đã hừng hực hơn. Lững thừng ra về, không còn vui vẻ như
những ngày trước nữa. Và, trong những tháng đó, dự tu bắt đầu những cuộc tĩnh
tâm, mặc dù chẳng muốn, ba anh chàng cũng phải đi vì vẫn còn tên trong dự tu,
và cuộc đời ba anh chàng đã rẽ qua một con đường mới.
Trong ngày tĩnh tâm hôm đó, cha sở giảng một bài
giảng về ơn gọi tu sĩ linh mục. Vẻ hài hước, di dỏm của cha như những thanh nam
châm hút lấy những ánh nhìn, những suy nghĩ, trái tim của ba anh chàng chai đá.
Sau đó, dự tu ra về vui vẻ bình an. Ba anh chàng đó cũng ra về nhưng đặc biệt
hôm nay ba anh chàng đi về riêng lẽ, đó chắc là lần đầu tiên trong đời.
Năm phút sau giờ tĩnh tâm. Tại giáo xứ.
– Con chào cha!- Nhật lễ phép.
- À, Nhật hả, chào con! Vào ghế ngồi đi con.- Cha
đang tưới cây cảnh- Lần đầu tiên thấy con vào nhà xứ đó nghe… - Cha mỉm cười
nhẹ nhàng.
- Dạ!- Nhật bẽn lẽn thưa.
- Có gì không Đức, sao lại đứng nấp đó? Vào đây
con! À, còn anh chàng nào đang đi tới nữa kìa. - Cha sở nhìn thấy bóng ai đó
đang thấp thoáng, khi Nhật đã vào nhà xứ ngồi.
- Dạ… dạ… con… con…- Đức không biết nói gì. Vừa
lúc Ý đi tới.
- Mày làm gì ở đây?- Ý lên tiếng khi trông thấy
Đức. Đức chưa kịp trả lời thì cha sở xen vào.
- Thôi vào nhà đi hai con, còn một anh chàng đã
đợi trong nhà xứ rồi kia!- Vừa mới cất bình tưới cây xong cha lên tiếng. Hai
anh nhìn nhau ngơ ngác.
- Hôm nay là ngày gì nhỉ, được cả ba anh phát xít
tới thăm, quá diễm phúc đi chứ!- Cha sở lên tiếng sau khi đã vào nhà xứ- Hay là
định tới phá xứ đây?- Nụ cười hiền từ nở trên môi cha.
- Dạ… dạ…con…- Ba anh chàng ấp úng.
- Thôi mày vào trước mày nói trước đi Nhật- Đức và
Ý đồng thanh.
- Ơ hay, tụi mày thích thì tụi mày nói trước đi. -
Nhật phản ứng.
- Thôi thôi…- Cha nói- Hay là tụi con nói cùng lúc
luôn đi!- Cha sở cười, một nụ cười rất khó hiểu. Thế là không cần nhìn nhau, cũng
giống như từ xưa tới giờ, cùng đồng thanh, cùng một ý nghĩ…
- Dạ, chúng con muốn đăng ký đi tu ạ!
Hình như cha cũng đã đoán được từ trước, nhưng vẫn
tỏ vẻ ngạc nhiên.
- Chuyện lạ đây, ba anh phát xít muốn đi tu, quá
tốt, quá tốt!
Ba anh chàng tỏ vẻ e lệ như một thiếu nữ.
Thời gian tiếp theo, ba anh chàng phát xít, ngày
ngày sốt sắng tham dự thánh lễ, được đích thân cha sở kèm, mọi thứ cứ tiến
triển và với khả năng của ba anh phát xít, cha sở hình như rất mãn nguyện. Sau
những ngày chăm chỉ dùi mài kinh sử, đạo cũng như đời, và đến lúc gặt hái thành
quả. Sau khi có kết quả thi tốt nghiệp phổ thông mà đối với ba anh chàng thì
như là đi chơi, ba anh chàng lai lao đầu vào thi tuyển Chủng viện. Khó khăn
hơn, gian nan hơn, lo sợ, bối rối nhưng với khả năng, lòng quyết tâm, ba anh đã
vượt qua để trở thành một thành viên của Chủng viện giáo phận. Đầu tháng chín
năm đó, ba anh chàng được giấy gọi vào Chủng viện.
Với hành trang, tay trong tay bước vào cánh cổng Chủng
viện ba anh đã đổi khác rất nhiều. Hôm đó, ánh nắng chói chang hình như đã phủ
lên ba anh chàng, như một ánh hào quang, cũng như là một lời thách thức. Phía
trước ba anh chàng con rất nhiều chông gai, con đường phía trước còn rất dài, vì
“Chúa đã chọn con từ giữa muôn người”…
Mã số:
15-032
CHỨNG
NHÂN ĐỜI THƯỜNG
Nghe tin bà Hoa từ bệnh viện trở về, họ hàng chòm
xóm kéo đến rất đông để chia vui chúc mừng bà đã tai qua nạn khỏi. Qua biến cố
bà bị tai nạn, ai cũng tấm tắc khen con dâu của bà: Người thì bảo bà Hoa thật
có phước vì có người con dâu ngoan ngoãn hiếu thảo, người lại khen con bé ấy
chu đáo quá, nó thương mẹ chồng hơn cả mẹ ruột của nó. Nghe mọi người khen bà
Hoa chỉ tủm tỉm cười. Nụ cười của bà mang thật nhiều ý nghĩa. Nó vừa diễn tả
niềm vui sướng tự hào, vừa nói lên sự chua chua mặn mặn hăng nồng của cõi nhân
sinh. Bà chặc lưỡi: “Đúng là thế gian, cũng những khuôn mặt, giọng nói thân
thương vừa khen bà hồi nãy đã có lúc chê bai con dâu bà ra mặt”. Chê con dâu bà
cũng có nghĩa là người ta chê bà không biết dạy con.
Tiễn mọi người về hết, bà lẩn thẩn bước vào nhà,
thu dọn những chiếc ly còn ngổn ngang trên bàn vào cái khay. Chiếc quạt máy
quay phả vào tường phần phật làm cho khung ảnh cưới của vợ chồng Long trên vách
tường cứ đung đưa. Bà Hoa lại tắt chiếc quạt rồi đứng ngắm nghía bức ảnh, khuôn
mặt bà rạng rỡ hẳn lên. “Ừ mình không biết dạy con nhưng bây giờ nó ngoan, nó
chịu khó đi nhà thờ nhà thánh, biết nghĩ đến Chúa và mọi người là tốt rồi. Kệ
cho mọi người nói sao cũng được. Còn mình tốt hay xấu chỉ cần Chúa biết là đủ”.
Đang còn miên man với một mớ hỗn tạp trong đầu thì ông bà sui gia đến làm gián
đoạn dòng suy tư của bà.
- Chào bà, nghe tin bà bình phục trở về chúng tôi
rất mừng.
- Cảm ơn ông bà, ông bà hình như mới đi đâu về?
- Vâng! Mấy ngày nay cha xứ đang khảo kinh bổn,
giáo lý để thứ bẩy Tuần Thánh này chúng tôi được gia nhập Giáo Hội.
- Ồ vậy hả, tạ ơn Chúa với ông bà nhé!- Bà Hoa tay
bắt mặt mừng ôm chầm lấy hai ông bà để tỏ dấu hiệp thông và nói lên niềm vui
của mình với ông bà sui gia.- Nhanh quá ông bà nhỉ, dễ ông bà học được mấy
tháng rồi?
- Tôi không nhớ rõ nhưng khoảng bốn năm tháng gì
đó.
- Ông bà giỏi quá. Hôm trước vợ chồng Long phải
học mất hơn ba tháng mới thuộc giáo lý hôn nhân. Ấy chết, mời ông bà ngồi chơi
uống nước chờ hai cháu chắc nó sắp về rồi đó.
- Có giỏi gì đâu bà, về tối nào hai ông bà và
thằng Thao cũng phải đọc đi đọc lại vì cháu Long bảo ba mẹ ráng học để phục
sinh năm nay được rửa tội. Vậy nên chúng tôi đã gắng học. Mà lạ lắm nha! Càng
đọc Kinh Thánh tôi càng thấy mê bà ạ… Các cháu đi đâu hả bà?
- Không biết ông Chánh Trương mới gọi cháu Long đi
họp gì ấy, chắc là tổ chức lễ lạy sắp tới. Còn cháu Vân thì mới chạy ra chợ.
- Bà ạ, chúng tôi chẳng biết mua cái gì, mang cho
bà hộp sữa cân đường để bà uống cho đỡ mệt.
- Đi thăm tôi là quý rồi còn quà cáp làm gì, các
cháu mua cho tôi đường sữa và hoa quả vẫn còn trong tủ kìa.
- Bà nhận cho chúng tôi vui.
- Vậy cảm ơn ông bà nhiều nhé.
- Thôi chào bà chúng tôi về. Bà cố gắng ăn uống
cho khỏe để thứ bảy đi lễ cầu nguyện cho chúng tôi nhé.
- Vâng tôi sẽ cố gắng đi vì đấy là niềm vui lớn
cho gia đình, cho giáo xứ và cả Giáo Hội nữa mà. À dịp này cháu Thao có chịu
phép rửa tội cùng ông bà không?
- Có bà ạ. Cảm ơn bà và Long đã cầu nguyện nhiều
cho gia đình chúng tôi và nhất là thằng Thao. Bây giờ nó cũng tu trí làm ăn
rồi. Thật tôi cứ thầm cảm ơn Chúa mãi. Bà và cháu Long đúng là chiếc phao cứu
gia đình tôi trong lúc tưởng chừng đã chết đuối. Từ ngày biết Chúa gia đình
luôn bình an và hòa thuận. Ai cũng muốn làm điều tốt để người thân của mình
được vui và hạnh phúc.
- Vậy là tốt rồi. Đó là điều làm cho tôi vui và
hạnh phúc nhất.
- Thôi chào bà chúng tôi về nhé.
- Vâng chào ông bà.- Ông bà sui gia về rồi bà Hoa
thấy vui, vậy là Mẹ Giáo hội sắp sinh thêm cho Chúa những người con mới.
Bà Hoa bước vào nhà ngước mắt nhìn lên bàn thờ để
tạ ơn Chúa. Bất chợt bà gặp ánh mắt của Chúa. Ánh mắt nhân từ, dịu dàng đang
nhìn bà trìu mến. Bà tự hỏi: “Ánh mắt thân thương ấy mình đã gặp ở đâu rồi?”.
Bà huy động tất cả bộ nhớ của mình để lục lọi. Và cuối cùng cuốn phim ký ức
quay ngược thời gian lần lượt đưa bà về lại với quá khứ của mười năm về trước.
Hôm ấy Long có vẻ khác mọi ngày, với giác quan
nhạy bén và trái tim từng trải của người mẹ, bà phát hiện ra con bà đang bắt
đầu thay đổi. Cái tuổi mới lớn, cái tuổi mà trái tim đang độ chín. Bà vừa mừng,
vừa lo. Mừng vì con bà đã trưởng thành nhưng bà lo vì dạo này thấy con bà có
nhiều biểu hiện khác quá. Nó ít đi lễ hơn và hình như bà còn nghe nói nó hay đi
chơi với mấy đứa bạn xấu. Long cứ đi ra, đi vào. Bà vẫn ngồi ở chiếc ghế bành theo
hướng quay về phía bàn thờ. Biết Long có điều gì đó muốn nói nên bà đi bước
trước để gợi ý cho con bà dễ cởi mở. “Long này, con đang muốn nói gì với mẹ
phải không?”. Long giật bắn người vì bị mẹ phát hiện ra bí mật của mình. Lúc đó
Long mới rón rén bước vào và nói lí nhí với mẹ. Long biết có xin chắc mẹ cũng
sẽ không cho vì Long là đứa con bà quý mến nhất, bà vẫn ước ao và muốn nó đi
tu. Dù gia đình bà chỉ có mình nó. Có những lúc bà mơ nó làm một linh mục thật
thánh thiện. Bà cảm thấy hạnh phúc và tự hào khi nó trở thành “người của Chúa”.
Còn nếu lấy vợ thì phải đứa nào tầm cỡ xứng đáng với nó. Bà đã nhắm được một
vài đứa trong xứ. Nó vừa ngoan và gia đình cũng nề nếp, gia phong. Bà đã có lần
gợi ý với nó về ước nguyện của bà nên điều mà Long muốn xin này… “Long”, tiếng
bà gọi làm cho Long trở lại với thực tại. “Con muốn nói gì với mẹ sao không nói
đi?”. Long lắp bắp: “D…ạ… x..i..n mẹ cho con cưới V..â…n xóm trên”. Nghe Long
nói bà trợn tròn mắt nhìn nó với vẻ ngạc nhiên lắm. Một điều bà chưa bao giờ nghĩ
tới.
- Con nói gì? Lấy Vân nào, có phải con bé mà làng
trên xóm dưới đang bàn tán…? Con nghĩ kỹ chưa. Con có biết luật hôn nhân Công
giáo? Khi con đã lấy nó về con không được phép thay đổi vợ mình như đổi một
chiếc xe. Mẹ tôn trọng tự do của con nhưng có lẽ trong việc này mẹ không thể
đồng ý. Con đã biết gia đình Vân như thế nào rồi đó. Bố mẹ nó quanh năm suốt
tháng lúc nào cũng cãi vã lục đục. Hai đứa con, một đứa thì trộm cắp vào tù ra
tội. Một đứa thì bỏ nhà theo trai. Rồi sau này khi về với con, liệu con có chấp
nhận một người vợ vẫn thói “ngựa quen đường cũ?”, một người vợ không còn trinh
tiết? Chưa kể làng trên xóm dưới sẽ cười chê. Mẹ còn mặt mũi nào nhìn bà con xứ
đạo này. Rồi đường nội sẽ bảo bố con chết, mẹ không biết dạy con nên để cho con
đi lấy một đứa con gái hư hỏng.
- Mẹ ạ! Con biết mẹ rất thương con và chỉ muốn cho
con hạnh phúc. Nhưng con lại nghĩ khác, có lẽ suy nghĩ của con không giống với
suy nghĩ của mọi người. Con không muốn trở thành một cái mô-típ mà bấy lâu nay
mọi người rập khuôn để ra hàng loạt những sản phẩm giống nhau. Bởi con nhận
thấy, những người ở xóm mình xưa nay vốn được xem là những con chiên ngoan đạo,
là một xóm văn hóa, có tình làng nghĩa xóm khi tối lửa tắt đèn…điều đó thật
tốt. Nhưng hình như đấy mới chỉ là thành tích, còn thực tế con thấy lối sống
đạo của họ hình như giống lối đạo đức của người biệt phái và Phariseu mà Chúa
Giêsu hay lên án trong Tin Mừng. Phải chăng sống đạo chỉ để quan tâm đến những
người cùng tôn giáo, chỉ yêu quý và quan tâm tới những người được xem là đạo
đức theo lăng kính của người đời. Còn những người được xem là “tội lỗi” thì bị
kết án và loại trừ. Nếu chỉ yêu và giúp đỡ những người đạo đức thì quá dễ. Con
nghĩ ai cũng có thể làm được. Nhưng con muốn làm điều mà không ai dám làm cơ.
Con muốn cảm hóa những người “tội lỗi” bằng tình yêu, bằng sự đồng cảm và bằng
chính cuộc sống của mình. Con nghĩ đó là cách truyền đạo hữu hiệu nhất, vì qua
đời sống và tình yêu chân thành của mình họ sẽ nhận ra Chúa là một người Cha
thật gần gũi, bao dung, luôn yêu thương và quan tâm đến họ. Chứ không phải một
Thiên Chúa nghiêm minh, hà khắc như họ vẫn thấy nơi những cơ chế hủ tục. Đó là
lý do tại sao con lại muốn lấy Vân. Con lấy Vân chẳng phải vì sắc dục nhưng vì
yêu mến Chúa nơi những người bị bỏ rơi ấy.
Thấy Long bày tỏ lập trường của mình bà như thức
tỉnh. Từ trước đến giờ bà không nghĩ tới điều đó, hay nói đúng hơn bà chưa dám
vượt qua ranh giới của những hủ tục. Phải chăng đã đến lúc bà cũng cần phải làm
cuộc cách mạng tinh thần như con trai mình. Bà suy nghĩ nhiều về những gì con
bà nhận thấy nơi xóm đạo thân yêu này. Nhưng làm sao vượt qua được “vách ngăn”
của luật lệ? Chấp nhận bị loại trừ hay buông xuôi bỏ cuộc? Chính lúc bà đang
còn băn khoăn “giữa đôi dòng nước” bà đã gặp được ánh mắt của Chúa. Ánh mắt
nhân từ và bao dung đang nhìn xoáy sâu vào tận tâm can của bà. Ánh mắt ấy như
một động lực đang thôi thúc lương tâm bà hoán cải. Hoán cải để nhìn lại chính
mình, để thấy được những nhu cầu của tha nhân. Để nghe được những tiếng khổ đau
và để đem họ về với ánh sáng của Tin Mừng.
Từ đó bà bắt đầu “dòng chảy” của con bà. Đúng là
“lội ngược dòng” mới cực khổ làm sao. Khi chấp nhận một người con dâu ngang
bướng, lỳ lợm và chua ngoa ấy bà như chấp nhận một cuộc “lột xác mới”. Có những
đêm bà khóc một mình vì những hành động, cử chỉ của một đứa con gái không được
giáo dục đàng hoàng. Biết bà đồng ý cho Long lấy Vân hàng xóm châm chọc: “Bà
Hoa ơi! Chuẩn bị có con dâu nhớ phải ngoan với nó nhé”. Có người lại bảo: Bà
Hoa giàu nứt vách còn ham của. Người khách quan hơn thì bảo: Ừ, rước nó về rồi
từ từ giáo dục nó. Từ ngày Long lấy Vân, bà như mất luôn những người bạn già
trong xóm. Họ xa tránh bà như xa tránh một người ô uế. Thấy bà đi đường này họ
tránh đi đường khác. Có những lúc bà thấy tủi thân ghê gớm. Vì thương con bà đã
chấp nhận tất cả sự xem thường và dèm pha của mọi người. Lời của mấy bà hàng
xóm cứ văng vẳng bên tai “phải ngoan với nó nhé”, bà lại khóc… Bà có thể chịu
đựng được hết, kể cả những ngang bướng ngỗ nghịch của con dâu. Nhưng có một
điều làm cho bà đau khổ tâm nhất và không thể chấp nhận được là Vân không chịu
đi lễ. Cứ mỗi khi đến giờ lễ thì Vân lại nằm ở nhà xem phim. Dù đau khổ nhưng
bà vẫn kiên nhẫn chờ đợi sự trở về của Vân. Bà tin rằng chính tình yêu, sự hy
sinh và những lời cầu của bà dành cho cô, một ngày nào đó Chúa sẽ biến đổi. Và
khi đó cô sẽ trở nên một người Kitô hữu thật tốt. Nước mắt và những hy sinh của
bà đã được Chúa nhận lời. Hôm ấy khi bà và Long đã đi lễ rồi. Vân nằm ở nhà một
mình, vì nhà bà cách nhà thờ có một con đường nên cha giảng gì, bên nhà bà nghe
hết. Nhưng từ trước tới giờ Vân đâu nghe thấy gì ngoài tiếng nói của tivi. Vậy
mà hôm nay sao từng lời cha nói cứ dội vào như một lời kết án lương tâm Vân.
Không phải là cha nói gì đụng chạm đến Vân nhưng có lẽ lúc này Vân mới để cho
Thánh Thần hoạt động mãnh liệt trong mình. Vân bắt đầu suy nghĩ: Không biết
“thánh lễ” có gì hấp dẫn mà ngày nào người dân ở đây hễ nghe chuông là vội vàng
chỉnh tề quần áo đến nhà thờ. Có những ngày mẹ chồng Vân vừa đi làm về nghe
chuông là tất tưởi đi nhà thờ rồi về mới ăn tối. Sao ngày nào cũng thấy cha đọc
bằng ấy công thức, có thay đổi gì đâu mà sao họ không chán? Ở xóm đạo này đã
khá lâu mà Vân mới chỉ đến nhà thờ có hai, ba lần gì đó. Mà lần nào Long cũng
phải dỗ dành Vân mới chịu đi. Vân thấy tất cả mọi người trong xóm đạo này họ
đều hạnh phúc. Hiếm khi thấy họ lục đục cãi nhau như khi cô còn ở gia đình với
ba mẹ, ngày nào cô cũng phải chứng kiến những cuộc ẩu đả của ông bà. Chính vì
thế mà Vân mới bỏ nhà ra đi.
Cô lại nghĩ đến mẹ chồng: “Tại sao khi nào mẹ cũng
nở nụ cười trên môi với mình. Tại sao trước đây bà gia giáo lắm mà từ ngày mình
về đến nay chưa khi nào thấy bà to tiếng và gắt gỏng mình. Có những lúc mình
sai phè phè mà bà vẫn nhỏ nhẹ?”. Mình đâu là gì, một đứa con gái hư thân, gia đình
thì bê bối, từ nhỏ tới ngày Vân lên xe hoa ít khi thấy ai lui tới nhà mình.
Hình như mọi người đều muốn tẩy chay và loại trừ gia đình cô. Vậy mà bà Hoa,
một người được dân làng tin cậy vì đời sống gương mẫu, đạo hạnh ấy lại là người
tiên phong phá đổ bức tường ngăn cách để đến với những con người tội lỗi. “Tại
sao bà lại đồng ý cho Long lấy một con “đi ngã” như mình???”. Biết bao câu hỏi
cứ chất vấn lương tâm Vân.
Từ đó, Vân như thay đổi cuộc sống của mình hoàn
toàn. Mỗi ngày Vân đều cùng mẹ và chồng đi lễ. Vân luôn tỏ ra kính trọng mẹ
chồng, không còn ăn nói chỏng lỏn, chanh chua như trước. Và nhất là Vân biết
nghĩ tốt và nói tốt cho mọi người. Điều đó làm cho bà cảm thấy vui và hạnh
phúc. Bà thầm cảm tạ Chúa đã từng bước huấn luyện để Vân trở thành một người
Kitô hữu tốt như vậy. Chúa quả là một nhà huấn giáo đại tài. Chúa dùng tất cả
mọi cơ hội có thể để đưa con người đến gần Ngài hơn. Điều đó cho thấy Ngài yêu
con người như thế nào. Chỉ cần họ sẵn sàng cộng tác với Ngài qua những trung
gian mà Chúa gởi đến. Thấy Vân thay đổi như vậy mọi người đều vui và chúc mừng
bà đã thành công trong việc hoán cải các tâm hồn bằng chính cuộc sống âm thầm,
hy sinh của mình.
Giờ này ánh mắt của Chúa vẫn đang tiếp tục nhìn bà
“như một lời biết ơn”. Bà nghe như Chúa đang nói với mình: “Cảm ơn con đã trở
nên chứng nhân cho Tình yêu của Cha”. Bà rưng rưng nước mắt vì vui sướng, bà
thưa với Chúa: “Không phải con mà chính Chúa đã hành động trong cuộc đời con”.
Mã số:
15-033
NGHẸN
LÒNG
Tiếng mẹ nó vang lên, đều đều và tha thiết:
“Chịu
khó ăn đi con, ăn cho giỏi để còn đi học”.
“Không!”.
Chỉ một tiếng đáp lại lời mẹ, kèm theo đó là sự
vùng vằng của cậu ấm được chiều chuộng từ nhỏ, trắng trẻo và mập mạp. Ngày nào
cũng thế, mẹ nó luôn mất nhiều thời gian trước khi nó ăn. Mẹ phải năn nỉ nó
mãi.
Với ý nghĩ trong đầu: “Đồ gì mà khó ăn, chán
ngắt”, nó đưa tay hất mạnh chiếc bánh bao mà mẹ nó đang cầm. Chiếc bánh lăn dài
trên đất và dừng lại dưới chân một cậu bé khác, đen nhẻm, gầy gò. Cậu mồ côi cả
cha lẫn mẹ từ rất sớm. Nhà cậu ở thì di động mọi nơi. Cuộc sống của cậu là
những tháng ngày tự lo cho bản thân.
Cúi xuống nhặt chiếc bánh, mắt em trở nên long
lanh:
“Tạ ơn
Chúa, ngày hôm nay con không phải chịu đói đi ngủ”.
Ba ánh mắt đã kịp nhìn thấy nhau. Mẹ và con không
ai nói ai được điều gì. Sự khác biệt là quá lớn.
Có cái gì đó nghèn nghẹn xuất hiện nơi cổ họng.
Mã số: 15-034
NƠI
ĐÂU LÀ HẠNH PHÚC?
Chìm dần, nhẹ dần, không giãy dụa, giành giật gì
nữa ...
Tự mình kết thúc chuỗi ngày buồn đau, sự cô độc lẫn
cả trong hơi thở.
Bỗng dưng đâu đó, một tiếng nói vọng về.
Như ngọn đèn bừng lên giữa đêm khuya ...
Chỉ một chút le lói tựa niềm hi vọng cứu vớt cuộc
đời một con người ...
Hai giờ sáng.
Ngân chợt tỉnh giấc. Nhìn sang chiếc nôi bên cạnh
giường, tiếng thở đều đều nhẹ nhàng vang lên làm cô an tâm. Cô bất giác mỉm
cười. Giờ thì gương mặt cô không còn đẫm nước mắt nữa. Nhìn đồng hồ, Ngân đưa
chiếc nôi nhè nhẹ rồi tự dỗ mình vào giấc ngủ. Một con cừu, hai con cừu rồi ba
con cừu ...
Mấy tháng trước, đêm nào Ngân cũng mất ngủ. Hễ đến
khuya là Ngân lại giật mình tỉnh giấc. Nước mắt bao trùm lấy cô cả trong mơ. Từ
ngày có nhóc Min, cuộc sống xung quanh cô bỗng trở nên sinh động hẳn lên. Sáng
ra, một ngày của bà mẹ trẻ bắt đầu. Cô vội vàng băm thịt nấu cháo rồi tưới cho
mấy luống rau trong vườn, chờ nhóc nhà cô tỉnh dậy. Min đang tập nói, cứ “À,
ơi” rồi bập bẹ kêu “mẹ, mẹ”. Chưa bao giờ Ngân vui và hạnh phúc như thế này.
Giờ cô mới thấm thía câu lời Chúa mà Cha quản xứ từng giảng: “Cứ tin thì sẽ
được, cứ tìm thì sẽ gặp, cứ gõ thì sẽ mở cho”(Lc 11,9). Quả là Chúa không bỏ
rơi cô. Thế mà có lúc cô đã muốn buông xuôi tất cả, muốn kết thúc cuộc sống
hiện tại nhiều đau khổ này. Nhìn cánh môi chúm chím, nụ cười như ánh mặt trời
của nhóc Min, là Ngân lại tràn đầy sức sống. Cô như tỉnh mộng sau cái quyết
định dại dột của mình ...
Ngày đó mẹ mất, ba bỏ đi, Ngân trở thành đứa bé mồ
côi và được bà đem về nuôi dưỡng. Ngân không phải máu mủ, ruột rà gì với bà cả,
chỉ là hai người phụ nữ đơn độc tựa vào nhau mà sống. Mười hai tuổi, cô đã biết
thế nào là mất mát...
- Thưa bà, con đi học !
- Ừ, Ngân của bà học ngoan nhé!
- Bà ơi, trưa nay mình ăn gì thế ạ?
- Cô Ba nhà bên bán rau có đem qua một ít nè. Bà
nấu xong rồi, lát bà cháu mình ăn.
- Dạ, ăn rau cho mát bà nhỉ!. Bà nhìn cô cháu nhỏ
cười móm mém. Bà có tuổi rồi, tóc bạc nhiều, dáng đi còng hẳn.
- Bà này, bà cháu mình cứ sống với nhau như thế
này mãi nhé bà. Sau này lớn lên, con sẽ đi làm, sẽ kiếm thật nhiều tiền để nuôi
bà, đưa bà đi du lịch nữa. Bà phải hứa là luôn khỏe mạnh đấy! Thế mà, sau một
buổi học về, Ngân thấy cô chú hàng xóm tập trung nơi nhà mình rất đông. Bước
vội vào nhà, Ngân mới hay bà đã đi rồi. Đi xa lắm. Không một ai bên cạnh. Năm
ấy Ngân 18 tuổi.
Tựa như cánh bèo lênh đênh giữa mênh mông sóng
nước, gió cứ vô tình thổi, chao đảo, ngã nghiêng không biết đi đâu về đâu ...
Thế mà Ngân tự đứng dậy được. Cô làm nhiều việc để
không có thời gian ngồi suy nghĩ mông lung. Học một buổi, buổi còn lại cô xin
phụ làm ở một quán cà phê nhỏ. Tối về, nỗi nhớ bà cứ đau đáu quanh quẩn. Cô
giấu nổi đau vào đáy mắt để không ai biết rồi khi đêm về, tháo lớp vỏ bọc ấy,
Ngân vẫn là một cô gái yếu đuối cần được che chở, cần được quan tâm. Anh đến,
như một luồng sáng kéo cô ra khỏi nơi tối tăm đó. Lần đầu tiên, ngoại trừ Bà và
Mẹ còn có một người thật lòng yêu thương, quan tâm, chăm sóc cô.
Một lễ cưới đơn giản diễn ra nhưng cũng không kém
phần trang trọng tại nhà thờ gần gia đình anh sống. Cô yêu anh và yêu Chúa của
anh nữa. Ngài có một nụ cười thật hiền. Trong chiếc váy trắng ngần, cô khoát
tay anh đi vào nhà thờ với niềm hạnh phúc vô bờ bến. Hôm ấy nắng vàng và ấm
lắm. Nhìn lên bầu trời xanh kia, cô như thấy Bà và Mẹ mỉm cười chúc phúc ...
Một năm, rồi hai năm mà cô và anh vẫn chưa có tin
vui. Công việc tài xế của anh vẫn vậy, cứ đi đi rồi về về. Nhà anh thúc giục,
cô cũng nôn nao lắm. Tổ ấm gia đình đâu chỉ hai người là đủ. Những ngày Chúa
nhật đến nhà thờ dự lễ, cô càng khát khao hơn ai hết thiên chức làm mẹ khi nhìn
những cặp vợ chồng bồng bế thiên thần nhỏ ríu rít nói cười. Và cô cầu nguyện
với Chúa ...
Cuộc đời mà, mấy ai trọn vẹn cả. Người được thứ
này thì lại mất cái kia. Phải chăng là quy luật? Nhìn giấy kết quả xét nghiệm
trên tay, Ngân như chết lặng. Cô cứ đờ người như không tin vào sự thật quá phũ
phàng. Chỉ một tờ giấy thôi, tất cả hi vọng về tương lai cô coi như sụp đổ. Chỉ
với một lời kết luận tưởng chừng đơn giản của bác sĩ : “Cô không thể có cơ hội
làm mẹ”... Giờ thì nội tâm cô giằng xé dữ dội. Cô biết phải nói gì với anh, với
hạnh phúc gia đình mà cô đang vun vén. Anh - chồng cô sẽ như thế nào khi biết
tin này, rồi mai đây ánh mắt khao khát có con, nghe tiếng gọi “ba” từ con thơ,
đưa con đi dạo công viên mỗi chiều ... nhưng chỉ là mong chờ bởi cô không thể
sinh con? Rồi ba mẹ chồng sẽ khó chịu với người con dâu bất lực này như thế
nào? Những bữa cơm sẽ trở nên lạnh nhạt, sẽ không còn cử chỉ ân cần, thân mật
với nhau bên từng món ăn ngon mà thay vào đó là ánh mắt lạnh lùng, cố tạo ra
khoảng cách vời vợi ...!
Cơn mưa chiều mỗi lúc như nặng thêm, Ngân không
biết mình rời bệnh viện thế nào. Chỉ là giờ đây, cô đang ngồi trong bậc ghế
cuối nhà thờ. Nhìn lên Thánh Giá, nước mắt lăn dài ...
- Con đã làm gì nên tội mà giờ con phải chịu nổi
đau như thế này? Tại sao lại là con? Tại sao không cho con một chút niềm tin
sót lại? Con chỉ còn mỗi gia đình này để nương tựa, sao lại đối xử bất công với
con thế này? Chúa ơi, sao Ngài không ghé mắt nhìn con dù chỉ một phút thôi? ...
Ngân không dám nhìn vào mắt anh, bởi vì cô sợ. Ba
mẹ, kể cả anh, đều im lặng. Không một sự trừng phạt nào có thể nặng nề hơn sự
im lặng đó. Gần như cả một thế kỉ trôi qua với Ngân, dài vô cùng tận. Rồi anh
đến, ôm Ngân vào lòng : “Không sao đâu em, sẽ ổn cả thôi” mà mắt rưng rưng.Tối,
Ngân nghe mùi khói thuốc lảng bảng, bóng anh bên cửa sổ càng nhạt nhòa hơn. Ngân
không nói gì, chỉ biết câm lặng mà khóc ...
Không khí trong nhà như có một tầng mây bao phủ.
Lặng im, vật vờ. Cái náo động trước đây đã đi đâu mất. Ba mẹ anh như ít nói hơn
nhưng vẫn động viên, lo Ngân nghĩ không thông. Công việc tài xế của anh cứ đi đi
về về. Anh vẫn vậy, vẫn ân cần với cô, chỉ là vòng ôm của anh cứ thưa dần, thưa
dần, không đủ sưởi ấm cô nữa ...
- Em ngồi đi, chúng ta nói chuyện một lát!- Ngân
ngồi xuống ghế, nhìn vào mắt anh, chờ anh nói.
.... Sau một vài phút im lặng.
- Chúng ta li hôn đi. Anh có người khác rồi. Và cô
ấy đang mang thai đứa con của anh. Anh biết anh có lỗi nhưng chúng ta không thể
nào tiếp tục được nữa, em cũng hiểu điều đó mà ...
Anh đặt ra cho cô một câu trả lời, chẳng cần cô
níu kéo. Đúng rồi, cô hiểu chứ, hiểu rất rõ ràng. Nhưng chỉ là đột ngột quá. Mà
cũng đâu phải đột ngột... Tim bỗng dưng thắt lại... Như cái ngày cô biết mình
không thể có con.
- Mày không sinh con được mà Ngân, mày đang nghĩ
gì vậy? Lẽ ra khi biết điều đó mày phải trả lại cho anh cuộc sống tự do đi chứ.
Mày đang cướp đi cái quyền làm cha của những đứa con, quyền ẵm bồng cháu của
ông bà đang tuổi xế chiều. Mày phải để anh tìm hạnh phúc mới, bên người vợ và
những đứa con xinh xắn, đó mới là điều đúng đắn nhất...
Hôm nay, trời cũng mưa. Và Ngân đã quyết định. Cô
kí vào tờ đơn trước mặt. Nét chữ cứng cõi và kiên cường như chính bản thân cô.
Chưa bao giờ Ngân tỉnh táo như lúc này. Anh đi khỏi nhà từ lúc nào cô chẳng rõ.
“Muối đã nhạt đi thì lấy gì muối nó cho mặn lại?” (Mt 5,13). Đã đến lúc cô nên giải
thoát cho cả hai, cho tình yêu không đến hồi kết này.
“Gửi ba mẹ!
Cho con một lần cuối được gọi ba mẹ là ba mẹ của
con nhé. Con luôn muốn được phụng dưỡng cha mẹ đến hết đời vì trong lòng con,
hai người như là cha mẹ ruột của con vậy. Con từ nhỏ đã mồ côi, Mẹ và Bà bỏ con
mà đi xa, con chỉ còn một mình. Rồi con yêu anh và con có ba mẹ. Ngày con về
làm dâu, con đã được ba mẹ yêu thương, dạy dỗ. Con lại có Cha trên trời, đó là
hạnh phúc lớn lao mà ngay cả trong mơ con cũng không dám nghĩ đến. Con xin cầu
chúc ba mẹ luôn được Cha giữ gìn và thật khỏe mạnh để vui hưởng tuổi già. Có lẽ
con không còn có phúc phận được làm con của ba mẹ nữa. Vậy thì con đành ra đi,
để cho anh tìm hạnh phúc mới. Ba mẹ đừng trách anh ấy. Và cuối cùng cho con xin
lỗi!” . Lá thư cô để kèm tờ đơn trên bàn.
Đứng bên bờ sông lộng gió, Ngân nhìn ra mông lung.
Toàn nước là nước. Cứ chìm dần, nhẹ dần. Và suy nghĩ của cô ngưng hẳn. Cuộc
sống của cô, tình yêu của cô, hi vọng của cô, và cả hơi thở này... Tất cả đều
sẽ biến mất. Bóng đen bao trùm lấy cô. Lạnh lắm, nhưng không sao, cô không thể
quay đầu lại nữa rồi. Xa xa kia, cô thấy Bà và Mẹ đang vẫy tay : “Chờ con theo
với. Con không muốn sống một mình nữa !” Cô chạy theo. Thế nhưng, bóng hai
người nhạt dần rồi mất hẳn. “Xin đừng bỏ con lại, Mẹ ơi, Bà ơi”. Cô gục đầu
khóc nức nở thì bỗng dưng, có tiếng nói vọng lên, một luồng sáng bao quanh lấy
cô.
- Ngài là ai?
- Ta là Chúa của con đây! Đừng thất vọng, đừng bị
ma quỷ che mờ đôi mắt. Thập Giá ta trao cho con, con không vác được ư? Đừng lo
lắng, đừng sợ cô độc. Ta sẽ che chở cho con.
Vâng, là Chúa của cô thật rồi, Ngài đã gọi cô như
ngày cô lãnh nhận bí tích Rửa tội: “Ta đã gọi tên con, con thuộc về Ta” (Is
43,1).
...
- Mẹ ơi! Mẹ ơi!
Ngân giật mình ngẩng đầu lên. Min lại gần, nhìn
vào cuốn sổ Gia đình Công Giáo trên tay mẹ.
- Ồ ! Sách gì đẹp vậy mẹ? Mà sao mẹ khóc? Min làm
mẹ buồn à?- Giọng cậu tiu nghỉu.
- Đâu, mẹ có khóc đâu nào! Con nhìn nhầm rồi đó.
Lại đây, con trai muốn khoe mẹ thứ gì đúng không?- Lau vội khóe mắt, Ngân cười
nhìn con trai.
- Đúng rồi mẹ ạ, hôm nay cô cho con hẳn hai con
mười vào sổ bé ngoan nè. Cô còn khen con hát hay nữa...
Cô hôn chụt vào đôi má phúng phính của Min. Thiên
thần nhỏ mà Chúa đã gửi đến để sưởi ấm cho cuộc đời Ngân. Ngày đó, cô được
người ta vớt lên ngay lúc tưởng không thở nữa. Tỉnh dậy, quanh cô rất đông
người. Họ ân cần hỏi han cô, người bảo cô còn trẻ mà sao dại dột. Đúng rồi, sao
cô lại yếu đuối đến mức độ ấy? Sao ngay cả mạng sống của mình mà cô không níu
giữ nổi? Ngay lúc này đây, tiếng Chúa vẫn còn văng vẳng bên tai cô : “Đừng lo
lắng, đừng sợ cô độc. Ta sẽ che chở cho con”.
Ngân đã đi qua những thời khắc tăm tối nhất của
cuộc đời. Và điều gì đang chờ đón cô phía trước? Cô chưa rõ. Nhưng sẽ không bao
giờ có suy nghĩ ngốc nghếch này một lần nữa. Ngân về lại mảnh đất tuổi thơ cô
từng gắn bó. Quả là một quãng thời gian khó khăn với Ngân. Đêm nào cô cũng mơ
thấy ác mộng. Nửa đêm là giật mình tỉnh giấc. Và điều kì diệu đã đến với cuộc
đời cô. Hôm ấy, một ngày cuối tháng năm, trời không xanh và đẹp, vừa đi chợ về
cô trông thấy một chiếc nôi nhỏ đặt bên đường làng. Cô lại gần và nhìn quanh,
một mảnh giấy đập vào mắt : “Xin hãy nhận chăm sóc giùm đứa con bé bỏng của
tôi!” Và bên cạnh là hàng chữ ngày sinh nhật. Cô nhìn vào đôi mắt bé con ấy.
Thương quá! Cô luôn ao ước có một đứa con thế này thì không được. Người có được
lại không quý trọng. Nhưng âu là cái số. Ai cũng có lý do để tự biện minh cho
mình. Cô đặt tên con là Quang Nhật - là ánh sáng mặt trời, là hi vọng của cô
ngay khi cô yếu đuối nhất. Và “Min, Min” - tên gọi ở nhà của con. Mới đó mà đã
ba năm, Min cũng tròn bốn tuổi. Min càng lớn càng ngoan, không hay nhóc nhè hay
vòi vĩnh gì cả. Lúc nào cũng quấn lấy mẹ và đòi giúp mẹ công việc nhà. Dù con
có lớn đi chăng nữa vẫn là thiên thần bé bỏng của cô ngày nào. Cô sống một cách
bình dị, làm những công việc đơn giản. Trồng rau, trồng hoa rồi đem ra chợ bán.
Đưa Min đến nhà trẻ. Và cứ mỗi Chúa nhật, Ngân lại dắt con đến nhà thờ dự lễ.
Cảm giác bình yên trong tâm hồn.
Cô cũng đã qua cái thời gục đầu vào thương nhớ, về
một người tưởng chừng sẽ không bỏ rơi cô. Cô không gặp lại người đàn ông đó,
cũng không biết họ sống như thế nào, có khi nào anh nhớ đến người vợ cũ là cô
không? Mọi thứ phải được gói ghém lại thật kĩ. Giờ cô mới biết, yêu đôi khi còn
là dám buông tay. Cô không biết niềm tin của cô từ đâu mà có, nhưng chắc chắn
một điều, Thiên Chúa đã đoái nhìn đến cô. Phó thác vào Ngài sẽ không bao giờ
thất vọng.
Ngoài kia, tiết trời bỗng dưng ấm hẳn. Lật giở
những tờ lịch... Xuân đến rồi. Ngân viết đôi dòng lên bức tranh treo tường :
“Mùa xuân - mùa của yêu thương
Trao người hơi ấm, tâm dường vui hơn
Dẫu rằng lắm lúc cô đơn
Chúa thương ban xuống ngàn ơn dư đầy”.
Năm mới sẽ chữa lành những vết thương cũ ...
(Dựa vào câu chuyện có thật mà tôi được nghe kể )
Mã số:
15-036
NGƯỜI
GIEO HẠT
Không ai ngờ giữa một ngôi làng dân tộc nhỏ bé,
nghèo nàn lại có một ngôi nhà nguyện. Nhà nguyện cất như một nhà sàn nằm kiêu
hãnh trong ngôi làng của bà con Raglai. Một vị linh mục đã đến làng dân tộc,
thăm bà con trong xóm. Bà con dân tộc nghèo quá. Những người chưa có áo ngài
cho áo. Con nít đói ăn ngài cho gạo. Các cụ già ốm đau ngài cho thuốc. Những
người Raglai hiền lành đã xúc động vì ngài. Họ truyền tai nhau, hết người này
đến người kia theo đạo.
Rồi vị linh mục không còn ở ngôi làng dân tộc nữa.
Ngài đi đến những ngôi làng khác, xa hơn và nghèo hơn. Trước khi đi ngài xây
dựng một nhà nguyện nhỏ để những con chiên tội nghiệp đói ăn, thiếu ăn, thiếu
cả nhiều thứ khác cuối cùng cũng có một nhà nguyện để thờ phượng Chúa hằng
ngày. Khi vị linh mục đi, nhiều con chiên đã khóc. Không ít người dân tộc bỏ
đạo. Họ thất vọng vì người quan tâm tới họ đã bỏ họ mà đi. Nhưng cũng có nhiều
người kiên quyết không bỏ đạo, một số người trở lại đạo. Vì họ hiểu rằng: Niềm
tin của họ là Chúa, dù vị linh mục không ở bên họ nữa nhưng Chúa vẫn ở bên và
đồng hành cùng họ.
Nhà nguyện đã ở đó, nhỏ bé, ấm cúng như một lời
cầu xin thầm thì. Đều đặn bốn giờ sáng, cha phó ở giáo xứ lân cận phóng xe tới
làm lễ. Đường vào làng chưa rải bê tông, khô quắt vào mùa nắng, lầy lội vào mùa
mưa, chưa kể phân bò, phân dê rải đầy đường. Nhưng cha phó vẫn chạy xe vào làm
lễ vì trong ngôi nhà nguyện bé nhỏ, vào lúc bốn giờ sáng khi gà còn ngủ, bò, dê
chưa thức dậy, khi những người không theo đạo trong làng còn đang say giấc thì
đã có một đám đông người Raglai tập họp ở nhà nguyện. Những mái đầu đen, tóc
đen, làn da ngăm đen, một màu đen tuyền háo hức ngồi chờ lễ sáng.
Khi chờ thánh lễ mọi người đọc kinh. Họ đọc kinh
bằng tiếng Kinh và tiếng Raglai lẫn lộn. Nhiều người Raglai không biết tiếng
Kinh nên họ đọc bằng tiếng Raglai. Khi hát thánh ca cũng là những âm thanh
Kinh, Raglai vang lên cùng nhau. Người Raglai hát khá hay. Toàn thể những người
dự lễ đều là ca đoàn. Mọi người cùng hát, cùng đọc kinh, cùng chờ cha phó đến.
Chúa có vui khi nghe bản hợp xướng trong ngôi nhà
nguyện này? Không có dàn âm thanh nào xịn cả. Cây đàn trong nhà nguyện là cây
đàn cũ xin được ở nhà thờ khác. Những cuốn sách hát thánh ca cũng là những cuốn
sách quăn bìa. Người Raglai không biết chữ nên họ cũng chẳng cần cầm sách hát.
Một người thuộc bài hát sẽ dạy cho người kia, rồi người kia dạy cho người nọ.
Chúa không phàn nàn khi nghe những âm thanh lộn xộn vừa Kinh vừa Raglai. Dù
không đồng đều nhưng gương mặt họ rất thành tâm, tôn kính, háo hức. Họ yêu Chúa
và tin rằng Chúa cũng yêu họ. Chúa giống như vị linh mục đã đến làng họ: ai đói
ngài cho gạo, ai không có áo ngài cho áo, ai thiếu tình thương ngài cho tình
yêu thương của Ngài...
Những buổi lễ sáng luôn có mặt một cô bé Raglai
chừng mười ba, mười bốn tuổi. Em đi lễ một mình, đều đặn, trong thánh lễ đứng
nghiêm trang. Em giống như tất cả những cô bé Raglai khác: nhỏ con, gầy gò, bận
quần áo cũ, làn da ngăm và đôi mắt rất sáng. Em còn ấn tượng bởi đôi chân không
mang dép.
Có rất nhiều người Raglai trong ngôi nhà nguyện
nhỏ bé này không mang dép. Sao lại lạ thế? Đã đi dự lễ thì phải mang dép chứ? Ở
nhà hay ở ngoài đường mặc quần áo xấu xí cũng được. Nhưng bước vào nhà nguyện
phải mặc bộ quần áo đẹp nhất để cho Chúa ngắm. Lẽ nào người Raglai không nghĩ
như vậy?
Họ có nghĩ như vậy, chỉ có điều nhiều
người...không có dép. Một đôi dép, một đôi giày hay là nhiều đôi giày đối với
người Kinh quá đỗi bình thường. Nhưng nhiều người Raglai không có tiền mua dép.
Họ giống như một bộ tộc nào đó ở Châu Phi. Bộ tộc này đi trong rừng, băng qua
sa mạc với đôi chân trần không mang dép. Người Raglai họ cũng lên rừng, leo
núi, đi rẫy, đi chăn bò, cừu, dê trong cái nắng chẳng khác gì sa mạc với đôi
chân trần. Đôi chân Chúa ban cho họ khi họ sinh ra. Họ cứ thế bước vào cuộc đời
mà chẳng cần trang trí nó. Có người không có tiền mua dép và nhiều người thì
không quen mang dép.
Cô bé Raglai hay đi lễ sáng cũng không mang dép.
Nhà em ở tít trên rẫy cao. Mỗi sáng, em thức dậy chính xác như một chiếc đồng
hồ. Không nghe tiếng chuông nhà nguyện nhưng em luôn đi lễ đúng giờ. Em ra khỏi
nhà khi trời còn tối, những vì sao còn lung linh trên bầu trời. Không ít lần
ánh trăng lung linh sáng khi em tỉnh giấc và đi lễ cùng em. Con đường từ rẫy
nhà em đến nhà nguyện không có nhiều người đi dường như chẳng có ai ngoài em
đi. Đâu phải người nào ở ngôi làng nghèo nàn bé nhỏ này cũng giống như em: tin
Chúa, siêng năng đi lễ. Nhưng em kiên trì với niềm tin và tình yêu trong trái
tim bé nhỏ của em.
Khi vị linh mục tốt bụng và nhân ái đến làng thì
em hãy còn là một cô bé nhỏ xíu. Em đã len vào dòng người đứng vòng tròn, nhìn
ngắm gương mặt của vị linh mục. Một ông mặc áo dài đen (sau này em mới biết đó
là áo dòng), gương mặt phúc hậu, mắt sáng ẩn sau cặp kính đã nhìn hết những
người xung quanh và nhìn thấy em. Ông đã mỉm cười với em. Em luôn nhớ mãi nụ
cười ấy.
Cả gia đình em đều theo đạo. Sáng nào cha mẹ em,
chị gái và em cũng đi lễ sáng. Nhưng rồi cha em mất, chị gái em cũng mất, chỉ
còn mẹ và em đi lễ. Nhưng giờ chỉ mỗi mình em đến nhà nguyện vì mẹ em bị căn
bệnh thấp khớp không thể đi lại được. Con đường từ rẫy đến nhà thờ ban đầu là
bốn người đi, sau còn hai, giờ chỉ còn một. Em rất buồn vì điều đó. Mùa gió
lạnh em gần như co ro đến nhà nguyện trên đôi chân trần và chiếc áo phong
phanh. Em không có áo lạnh cũng không có dép. Nhưng điều đó không ngăn được em
đi dự lễ. Em đi một mình trên con đường vắng, đầy đá sỏi, phân bò, phân dê,
lạnh lẽo và cô độc. Em muốn cầu nguyện cho linh hồn của ba và chị em ở thế giới
bên kia. Em cũng cầu nguyện cho mẹ em nữa. Và em cứ đi dự lễ, trong đêm, lạnh
lẽo, một mình, chỉ có trăng sao làm bạn.
Chúa thích nhìn cô bé Raglai trong ngôi nhà nguyện
bé nhỏ này biết bao. Một cô bé không mang dép, có đôi mắt sáng, nghiêm trang và
thành kính. Em yêu Chúa và tin Chúa. Em tin Chúa cũng yêu thương em giống như
em yêu Chúa vậy.
Trong ngôi nhà nguyện này còn rất nhiều những
gương mặt quen thuộc. Người đàn ông Raglai luôn mặc chiếc áo màu xanh đi lễ vì
ông không có cái áo nào khác. Người phụ nữ Raglai bên kia đã đẻ đến mười đứa
con vì không biết kế hoạch hóa gia đình. Chắc chị thiếu ăn vì gương mặt tái
xám. Nhưng lúc nào chị cũng mỉm cười tin vào Chúa. Cậu bé một chân kia luôn có
mặt trong nhà nguyện và hát rất hăng.
Cha phó đứng trên bàn thờ nhìn xuống, một màu đen
tuyền đang hướng lên: tóc đen, da ngăm đen nhưng khi họ cười những hàm răng
trắng sáng. Chắc cha cũng chạnh lòng khi nhìn những bàn chân không mang dép
trong ngôi nhà nguyện bé nhỏ này.
Cha phó làm một việc hết sức cảm động. Cha mua
những đôi dép nhựa, dép lào, đủ mọi kích cỡ để trước cửa ra vào nơi nhà nguyện.
Những người Raglai dự lễ ai mang vừa đôi nào thì cứ lấy đôi ấy. Cha muốn tặng
họ một đôi dép như một món quà.
Không có cảnh giành nhau những đôi “dép lạ”. Một
số con chiên của Chúa bỡ ngỡ và rụt rè khi xỏ đôi bàn chân to xù vào đôi dép
mới, cười bẽn lẽn rồi rộ lên. Lễ sáng đó nhà nguyện vui hơn bao giờ hết. Từ bàn
thờ nhìn xuống cha phó thấy những đôi dép chứ không phải là những đôi chân trần
trên sàn nhà nguyện nữa. Mọi người đều hoan hỉ với niềm vui bé nhỏ này. Cô bé
Raglai cũng có dép. Suốt thánh lễ, thay vì đứng nghiêm trang như mọi ngày, lâu
lâu em lại nhìn xuống dưới chân mình, mỉm cười e lệ như một bông hoa.
Nhưng khi đọc kinh thì vẫn như mọi ngày. Những âm
thanh lộn xộn tiếng Kinh và Raglai hòa lẫn vào nhau như là một dàn hợp xướng.
Ngày nào Chúa cũng nghe dàn hợp xướng đặc biệt này nên Ngài chắc cũng quen tai.
Cha phó mỗi ngày đi hai mươi cây số đến nhà nguyện
làm lễ sáng cho các con chiên Raglai dù mưa hay nắng, mua dép cho những con
chiên Raglai không có dép, nhẫn nại và hiền lành rao giảng Tin Mừng... Cha còn
đặt một tượng Chúa bằng đồng đen vào nhà nguyện. Vậy là cả nhà nguyện đều có
một màu đen tuyền. Cha muốn những con chiên Raglai thấy Chúa cũng có màu da
ngăm đen giống như họ.
Nhưng không phải con chiên nào cũng thích
Chúa...da ngăm. Có một bà cụ già, sáng nào sau khi dự lễ xong cũng tới trước
tượng Chúa, lén lấy vạt áo lau trên mặt Chúa. Bà thấy rất lạ khi tượng Chúa bà
tin yêu đã từng nhìn thấy trước đây màu trắng, giờ không hiểu sao lại màu đen.
Bà tưởng rằng có sự nhầm lẫn. Bà lén lấy áo lau để Chúa...trắng lại như xưa. Bà
không muốn Chúa đen. Bà muốn Chúa trắng. Lau hoài lau mãi tượng Chúa bằng đồng
đen không thể nào trắng được, nhưng sáng nào bà cũng lén lau.
Thánh lễ sáng trong nhà nguyện luôn rất bình yên.
Khi cha phó làm lễ, những con chim sẻ nhỏ đậu trên nóc nhà nguyện, hót ríu rít.
Những con chiên Raglai của Chúa thành tâm và tôn kính dự lễ. Họ cầu xin điều gì
trong thánh lễ? Họ có cầu xin những điều khôn ngoan giống như người Kinh khi đến
xin Chúa không? Là sức khỏe, việc làm ăn thuận lợi, thu nhập khá hơn hay mơ hồ
trừu tượng là có hạnh phúc? Những con chiên Raglai có xin những thứ đó không
hay họ xin những thứ đơn giản hơn là có gạo ăn hàng ngày là đủ? Hay họ chẳng
xin gì hết vì họ tin rằng Chúa nhìn thấy hết, Chúa muốn làm gì thì làm, không
cần phải xin đâu...Cô bé Raglai cầu nguyện với Chúa và xin Chúa điều gì trong
ngôi nhà nguyện bé nhỏ này? Em xin linh hồn ba em, chị em mau lên thiên đàng
(chắc chắn rồi) và xin mẹ hết bệnh (điều này cũng chắc chắn luôn). Em có cầu
xin điều gì cho em không? Em đã có một đôi dép nhưng lẽ nào đời em chỉ một đôi
dép là đủ? Em xin Chúa điều gì trong những thánh lễ sáng?
Cuộc sống của ngôi làng dân tộc cứ bình yên trôi
đi như vậy. Những người Raglai ít học, thánh thiện và hiền lành sáng nào cũng
đi lễ trong ngôi nhà nguyện trước khi trở về ngôi nhà của họ để tiếp tục đi
rẫy, đi chăn bò, dê, cừu...
Rồi một ngày ngôi nhà nguyện bé nhỏ như cái nhà
sàn được dỡ bỏ. Thay vào đó một ngôi nhà thờ khang trang, xây bằng bê tông với
tháp chuông cao vút. Ngôi làng dân tộc đã có nhiều người theo đạo hơn. Nhà thờ
đã được xây. Một vị linh mục đã đến. Họ có ca đoàn, có giáo lý viên, có các hội
đoàn khác, nói chung là một giáo xứ chứ không chỉ là một ngôi nhà nguyện bé nhỏ
cô liêu của ngày trước.
Ngôi nhà thờ khang trang không còn đầy đủ những
gương mặt quen thuộc. Nhiều người đi làm ăn xa, không ít người đi vào “chốn
đông người nhất” với tên gọi mới là “những linh hồn”. Cô bé Raglai từng không
mang dép đi lễ một mình cũng không còn đi lễ sáng trong ngôi nhà thờ mới. Chúa
ơi cô bé đó đi đâu mới được? Lẽ ra em đã trở thành một thiếu nữ, lấy chồng, có
con (người Raglai kết hôn rất sớm) và dẫn chồng con đi lễ trong nhà thờ khang
trang này. Nhưng nhà thờ không có em trong khi em từng là một cô bé siêng năng
đi lễ.
Có khi nào cô bé Raglai nản lòng rồi bỏ đạo? Có
rất nhiều thứ để nản lòng: đói nghèo, bệnh tật, cảm thấy Chúa không yêu thương
mình, không cho mình những thứ như mình kì vọng... Có khi nào mẹ em không hết
bệnh và em nản không tin vào Chúa nữa? Hay em bị sóng gió cuộc đời vùi dập và
cũng chán nhà thờ nhà thánh rồi?
Nhưng ơn Chúa nhiều người bảo rằng cô bé Raglai đã
đi tu. Tin nổi không? Cô bé Raglai đi lễ không mang dép ngày nào giờ đã trở
thành nữ tu. Em không kết hôn sớm giống như những cô bé Raglai trong làng. Em
yêu Chúa và muốn trở thành nữ tu của Chúa. Em muốn trở thành “người gieo hạt”
giống như vị linh mục khi xưa, đem tình yêu và ánh sáng Tin Mừng của Chúa đến
cho những người khác. Em không biết chữ và chỉ có một đôi dép. Thời này có ma
sơ nào xuất phát điểm như vậy không? Nhưng em có một lòng tin tuyệt đối vào
Chúa. Em yêu Chúa và tin rằng Chúa cũng yêu em.
Chính vị linh mục khi xưa đến truyền đạo cho ngôi
làng dân tộc đã làm cha đỡ đầu cho em, giúp em đi học và đi tu. Có một nữ tu
Raglai với làn da ngăm đen, đôi mắt sáng. Chắc Chúa vui lắm với nữ tu mới của
Ngài.
Lẽ nào trong ngôi nhà nguyện bé nhỏ lúc xưa cô bé
Raglai không mang dép đã cầu nguyện Chúa để trở thành một ma sơ và Chúa đã nhận
lời?
Ngôi làng Raglai vẫn còn nghèo. Người Raglai yêu
Chúa theo kiểu của họ, tin Chúa theo kiểu của họ, đọc kinh theo kiểu của họ.
Nhưng hay làm sao họ không coi Chúa phải là Chúa của riêng họ. Họ để Chúa tự do
giống như Chúa từng có. Chúa không cần phải da...ngăm đen. Họ không ép Chúa
phải thuộc về họ, giống như họ. Họ muốn Chúa luôn là Chúa, vẫn là Chúa. Họ yêu
Chúa vì Chúa là Chúa.
Tính yêu như vậy thật văn minh, tự do và dân chủ.
Nếu ai cũng yêu nhau theo kiểu như vậy chắc rất ít cảnh li hôn.
Sẽ có một ngày có một ma sơ Raglai đứng tập hát,
cầu nguyện trong nhà thờ, đi vào các ngôi làng nghèo, đến từng nhà tắm cho các
em bé dân tộc, cho áo những người không có áo, cho gạo những người đói ăn, cho
thuốc những người bệnh tật không có tiền mua thuốc, chia sẻ niềm vui và nỗi
buồn với những người cần chia sẻ và nói với họ về tình yêu mà ma sơ trải
nghiệm. Một tình yêu vô vị lợi, tự do và văn minh của một Người đã xuống trần
gian làm con người bé nhỏ. Tình yêu đó vĩnh hằng.
Ma sơ Raglai đang đi cùng hướng với vị linh mục
ngày trước: gieo hạt giống Tin Mừng ở những mảnh đất khô cằn, bị lãng quên. Gõ
những cánh cửa chưa ai từng gõ bằng ánh sáng Tình Yêu trong tim.
Ma sơ Raglai ấy đi bằng đôi chân đã từng không
mang dép...
Mã số:
15-037
THĂM
VIẾNG
Bà Tám quá tuổi bát tuần cứ chiều chiều đứng nhìn
chân trời xa tít tắp như ngóng chờ ai đó. Cứ đúng hẹn Hoa lại đến thăm. Lần nào
đến Hoa cũng có một chút gạo, ít hoa quả biếu Tám. Hôm nay, Hoa mang theo cái
giỏ to hơn người.
Bà Tám: Con có cái gì vậy?
Hoa: Dạ, con có chục con vịt con biếu Tám nè.
Bà Tám: Để đâu được con.
Hoa: Tám để con.
Vừa
nói, Hoa vừa chạy từ trước ra sau cái canh nhà trống huơ trống hoắc với ba cặp
mắt trong cái tối tăm tù mù liếc nhìn theo. Hoa quen ba cặp mắt ấy rồi. Ba đứa
con của bà Tám bị bệnh đao, cứ y như chỉ biết ngồi một chỗ và cười cười
Hoa hỏi ba anh em: Ăn gì chưa?
Ba anh em: Hê Hê…
Hoa: Cười
cái gì? Đói không?
Ba anh em: Hê Hê…
Bà Tám đỡ lời: Chúng ăn cháo rồi.
Hoa: Bánh nè, ăn đi.
Ba anh em: Hê Hê… cám ơ…n!
Hoa ra phía sau nhà lấy cái sọt úp mấy con vịt
vào. Đàn vịt kêu ầm ĩ. Ba anh em chạy ra chúi đầu vào cái sọt ngó xem đàn vịt.
Bà Tám: Tội nghiệp chúng chưa thấy con vịt bao
giờ.
Hoa nhìn ba anh em nói: Gọi tên chúng đi. Vịt …Vịt
…
Ba anh em: Vịt … Vịt …
Hoa cầm cọng rau đưa cho ba anh em, đẩy tay vào
cái sọt vịt. Đàn vịt tranh nhau ăn cọng rau. Ba anh em cười giòn giã.
Bà Tám: Lâu lắm rồi, Tám mới thấy chúng cười vui
thế này. Cám ơn con Hoa à.
Hoa mải đùa chơi với ba anh em và đàn vịt chắc
chẳng nghe thấy.
Bà Tám nói to: Sao con tốt với Tám vậy?
Hoa: Không phải con tốt đâu. Chúa của con mới tốt
với Tám. Chúa cho người đưa đến cho con gạo, rau, vịt để thăm Tám đó. Chứ con
còn đi học đâu có tiền đâu mà. Con chỉ đến thăm Tám tôi. Tám cám ơn Chúa đi!
Ba anh em bập bẹ : Chúa … Chúa...
Suốt tuần qua, canh nhà thêm tiếng cười những
tiếng nói bi bô: "Vịt … Vịt" chen lẫn "Chúa… Chúa…" chẳng
rõ ràng. Nhưng nhờ vậy ba anh em chạy nhảy tung tăng y như thể mấy chú bé mới
lên ba. Lúc thì ba anh em bắt con vịt lên ôm vào người, khi thì cười giòn giã
nhìn những con vịt ăn. Riêng mình ba Tám cứ trầm ngâm hoài.
Hoa: Tám có chuyện gì sao ít nói vậy?
Bà Tám: Uhm…
Hoa: Tám giấu con nha. Mai con hổng chơi với Tám
nữa.
Bà Tám: Con đến chơi với Tám nha, Tám nói…
Hoa: Tám nói đi, con đến chơi hoài luôn.
Bà Tám ập ừ hồi lâu: Con có thể xin cha xứ đến cho
Tám gặp không?
Hoa: Tám cũng biết cha xứ hả?
Bà Tám gật đầu: Lâu lâu cha có đến thăm Tám.
Hoa: Tám cần ngay không?
Bà Tám gật đầu: Ngay.
Hoa ù chạy đi mời cha xứ. Chỉ một loáng là cha xứ
đến.
Cha xứ: Chào bà Tám. Tôi nghe bé Hoa nói bà có
chuyện muốn gặp tôi?
Bà Tám thấy cha xứ mà hai dòng nước mắt cứ trào
ra. Hoa trố mắt nhìn. Hoa chưa thấy bà như thế bao giờ.
Cha xứ : Sao bà khóc? Có chuyện gì vào nhà rồi
nói.
Bà Tám : Dạ. Cha có thể giải tội cho con không?
Cha xứ : Bà Tám nói thật hay đùa vậy. Từ hồi tôi
về tới giờ có thấy bà Tám đi nhà thờ đâu.
Bà Tám: Dạ. dạ… Con là người Công giáo nhưng từ
ngày lấy chồng tới giờ…
Cha xứ gập gù: Tôi hiểu rồi. Bà còn nhớ dọn mình
không?
Bà Tám gục mặt xuống.
Cha xứ khẽ nói: Tôi sẽ giúp Bà.
Cha xứ lớn tiếng gọi: Hoa, con ra ngoài sân chơi
với các anh đi con.
Chiều nay, căn nhà trống huơ trống hoắc bừng sáng
chen lẫn tiếng cười giòn của ba anh em và gió chiều nhè nhẹ thổi bay những bụi
bậm bám trên khe cửa gỗ.
Hoa đang thả hồn ngắm cảnh hoàng hôn, cha xứ từ
phía sau xoa đầu Hoa.
Cha xứ: Cha cám ơn con. Ngày nào con cũng thăm bà
Tám à?
Hoa: Dạ, nhưng sao cha cám ơn con.
Cha xứ: Nhờ con mang lại tiếng cười cho nhà này mà
bà Tám trở lại đạo sau hơn 60 năm đó.
Hoa bẽn lẽn: Con có làm được gì đâu cha. Tại con
thấy tội Tám quá, Ở vậy nuôi ba con bị bệnh thế này, nên chiều chiều không đến
thăm cũng nhớ.
Cha xứ: Một chút nho nhỏ mỗi ngày con dành cho Tám
là quà tặng rất lớn cho Tám và cả các anh đây nữa. Nó làm cho Bà Tám từng ngày,
từng ngày trở về với Chúa đó con. Con có thấy đây là phần thưởng cho con không?
Hoa cười: Dạ, con thấy cha giải tội cho Tám mà con
vui như thể con được quà quý vậy.
Cha xứ cười: Cha cám ơn con!
Hoa e thẹn: Cha đừng cám ơn con. Cha cám ơn Chúa
á.
Cha xứ: Ừ, cha con mình cùng đọc kinh tạ ơn Chúa
nha.
Ngay trong khoảng sân bé tí teo, cha và Hoa râm
râm đọc kinh, phía sau bà Tám và ba anh em cũng bập bẹ đọc theo. Thiên nhiên
như thể hòa cùng điệp khúc cảm tạ, nên mặt trời dâng cao trên đỉnh đồi và gió
se se nhẹ như ướp lòng người trong hương chiều của hoa đồng nội quanh vườn.
Đọc kinh xong cha và Hoa quay lại.
Bà Tám lí nhí: Con quên kinh rồi.
Hoa nhanh nhẩu: Để mai con đến đọc kinh với Tám
…
Một chút bé nhỏ tưởng chẳng là chi. Như một giọt nước
nhỏ trong biển cả chẳng là gì, lại có thể làm tràn ly. Một cánh én không làm
nên mùa xuân nhưng báo hiệu cho mùa xuân đang đến. Thăm viếng tưởng chừng chẳng
là gì nhưng có thể đổ đầy trái tim và cuộc sống của những ai được gặp gỡ, được
viếng thăm niềm vui của Tin Mừng.
Mã số:
15-038
NẮNG
ĐẦU MÙA
Ông cố Hoan ngồi tựa ghế trước thềm. Ông nheo nheo
mắt dõi nhìn cậu con trai đang lúi húi sửa lại giàn mướp. Thỉnh thoảng, cha
Hân, con trai ông, quay vào nhờ ông tư vấn. Ông cố cười vui vẻ. Lâu lắm rồi,
ông mới có lại được cảm xúc hạnh phúc, bình an như lúc này. Từ ngày con trai
vác balô vào Sài Gòn đi tu, ông đã luôn lo lắng. Ông sợ, nỗi sợ đã ăn sâu ngay
từ hồi ông còn trẻ. Không biết cái ý nghĩ “nghèo sẽ không tu được” đã theo ông
từ bao giờ? Có lẽ là vào cái ngày ông rời bỏ Tu Viện. Ngược dòng thời gian, ông
trở lại cái ngày con trai ngỏ ý đi tu.
Sáng mùa đông năm ấy, trời xám ngắt và lạnh buốt.
Thời tiết khắc nghiệt nơi đây đã làm cớ cho cái nghèo nó cứ bám riết gia đình
ông và bà con xóm đạo. Ông ngồi nhâm nhi ly trà xanh, Hân đến bên ông, lễ phép
thưa:
- Thưa bố, con muốn đi tu. Bố cho phép con được
không ạ?
- Cái gì? Đi tu? – Ông đặt mạnh ly nước xuống bàn,
trừng mắt nhìn Hân.
- Dạ! Con muốn tu dòng Donbosco.
Trời ơi, đó chẳng phải là ước muốn bấy lâu nay của
ông sao? Chỉ cần ông một tiếng “ừ” của ông là niềm vui của hai bố con đều sẽ
nên trọn. Nhưng sao tiếng đó nó không thể bật ra được. Kí ức ngày ấy trở về đã
chặn nó lại. Bà Hoan ngồi cạnh bên, nhìn chồng, chờ đợi. Ông đáp cụt:
- Không tu tác gì hết! Ở nhà đó!
- Bố, sao…
Không đợi Hân nói hết câu, ông quày quả bước đi.
Hân thất vọng, ngồi sụp xuống. Bà Hoan ngạc nhiên trước phản ứng và quyết định
của chồng. Ông là người đạo đức, ông rất quý mến những người đi tu. Nhưng sao
ông lại… Bà tỏ vẻ không hiểu.
Bữa cơm chiều hôm đó, Hân gặng hỏi:
- Sao bố không cho con đi tu? Đó là ước mơ của con
mà.
- Ăn cơm đi, đừng nói nhiều!
Bà Hoan nháy mắt bảo Hân im lặng, bà lên tiếng:
- Sao ông cản nó? Tương lai cả đời của nó, ông ép
nó làm gì? Con cái đi tu, đó là phúc phần của bố mẹ. Ông…
- Bà thì hiểu cái gì chứ?
- Đàn ông các ông lúc nào cũng thế, cứ thích áp
đặt lên người khác. Ông chẳng coi tôi ra gì cả. Tôi không biết gì, nhưng ít ra
tôi cũng là mẹ nó, tôi hiểu con tôi.
- Tôi đâu có ý chê bà gì đâu, chỉ là…nó không tu
được đâu.
- Thưa bố, ơn gọi là do Chúa ban, con chỉ cần đáp
trả là được. Bố đừng lo, con sẽ cố gắng mà. – Hân nhanh nhẩu.
- Nó nói phải đó. Chỉ cần nó cố gắng thì Chúa sẽ
ban đủ sức cho nó.
- Bà coi, nhà mình nghèo thế này thì nó tu sao
được?
- Thì ra là bố lo chuyện đó. Bố yên tâm đi ạ, vào
dòng người ta đâu có đòi hỏi vật chất đâu.
Nghe Hân nói, ông nhíu mày nghĩ ngợi. Đã hẳn Chúa
không đòi các môn đệ về tài năng, tiền bạc, nhưng đó là chuyện ngày xưa. Thời
nay, không có tiền thì làm sao học hành được, làm sao có gì để mà cho người
khác. Vả lại, người ta bây giờ đâu phải là Chúa. Bỗng nhiên, ông thấy thương
Hân vô cùng. Con trai ông luôn là niềm tự hào của ông. Hân hiền lành, đạo đức,
lại thông minh nữa. Nhưng nó lại có một tội: nghèo. Mà…đó đâu phải là tội của
Hân, là tội của ông. Phải rồi, chỉ vì ông nghèo mà con trai ông phải dập tắt
ước mơ. Ông đã chẳng cho gia đình được một mái nhà to, con cái được ăn ngon mặc
đẹp, mà ngay cả ước mơ của con cũng bị hủy hoại. Cảm giác tội lỗi làm nước mắt
ông chảy dài. Thấy ông khóc, mẹ con Hân bối rối. Hai người không hiểu được
những suy tư trong đầu ông. Ba người cúi đầu ăn cho qua bữa, chẳng ai nói với
ai thêm câu nào nữa. Bữa cơm chiều hôm đó thật buồn.
Hân có vẻ buồn, ông Hoan biết điều đó. Mấy ngày
hôm nay ông suy nghĩ nhiều lắm. Có lẽ không thể cấm con được. Con buồn, ông
buồn, cả nhà đều buồn. Nhưng mà cho con đi, ông lại không thể yên lòng được.
Ông nhìn lên cây Thánh Giá, thầm thĩ điều gì đó rồi thở dài. Ông gọi Hân lại,
hỏi:
- Con vẫn còn muốn đi tu chứ?
- Dạ! Vâng ạ! – Hân ngạc nhiên trước câu hỏi của
bố.
- Tương lai của con, con tự quyết định lấy. Bố
chẳng làm được gì cho con nên bố không thể dập tắt ước mơ cao đẹp của con được.
Nhưng mà con phải nhớ, tu không dễ đâu, phải cố gắng nhiều đó.
- Vâng, con cảm ơn bố! – Hân suýt nhảy lên vì sung
sướng.
Ngay sáng hôm sau, như sợ bố đổi ý, Hân vác balô
lên đường ngay. Hân ra đi với niềm hăng say và lòng xác tín, còn ông ở lại với
nỗi trăn trở, lắng lo. Chưa sang xuân, bầu trời vẫn khoác trên mình chiếc áo
màu xám, cảnh vật vẫn còn như chưa thức dậy. Cô quạnh, đìu hiu. Trời lạnh, lòng
ông còn lạnh hơn. Ông vẫn luôn cầu nguyện cho con nhưng trong lòng vẫn đinh
ninh rằng, không sớm thì muộn, con ông rồi cũng phải đi về. Nghèo không tu
được, ông tin chắc là thế.
Cứ thế, nỗi lo lắng theo ông dai dẳng. Mãi đến
ngày con ông được gọi là “thầy”, ông mới bớt lo hơn một chút. Không phải ông đã
hoàn toàn trút bỏ được gánh nặng đó, nhưng có vẻ như ông vui tươi hơn, hi vọng
hơn. Và cho đến hôm nay, khi được tận mắt chứng kiến con trai bước lên Bàn
Thánh, niềm hạnh phúc trong ông như vỡ òa. Ừ thì nhà ông vẫn nghèo đó, nhưng
con ông đã thành linh mục. Chà, cái lý luận xưa nay của ông là cái lý luận
quèn, không hề có căn cứ. Mình tính không bằng Chúa tính. May mà…
- Con chào cha! Ông cố nghĩ gì mà đăm chiêu thế?
- Dạ, chào bác ạ !
Tiếng ông Bình và cha Hân kéo ông về thực tại.
- Tôi có nghĩ gì đâu. Ông vào nhà chơi.
- Tôi qua đây là để được nói chuyện với cha Hân.
Mấy hôm nay, bà con xóm đạo nghèo này được vui vẻ là nhờ cha đó.
- Dạ, là nhờ ơn Chúa và công ơn của bố mẹ con và
cả họ đạo mình đấy chứ ạ.
- Hề…hề, cha nói cũng phải. Công lớn là của ông bà
cố đây.
- Công trạng gì, may mà tôi chưa phá hủy ơn phúc
của Chúa ấy chứ. Vì óc định kiến sai lệch của tôi mà suýt nữa thì… May mà Chúa
vẫn thương. Giờ tôi mới nghiệm ra – Ông cố Hoan dõng dạc tuyên bố - vật chất
không quan trọng, nghèo vẫn tu tốt.
Ba người cười nói vui vẻ dưới giàn hoa mướp. Mùa
đông qua, trời cao và trong xanh quá. Mặt trời đang tỏa những tia nắng ấm
áp xuống trên xóm đạo. Những tia nắng đầu mùa như đang nhảy múa với hoa lá.
Mọi thứ từ cảnh vật thiên nhiên đến con người đã khoác lên mình màu áo tươi
sáng hơn.
Nắng đã
lên!
BẢN THỂ LỆ
GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG
Cập nhật cho cuộc thi lần thứ ba - 2015
GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG được Ban mục vụ Văn hóa
& Giáo dục Giáo phận Qui Nhơn thực hiện trong khuôn khổ dọn mừng kỷ niệm
400 năm Tin Mừng của Chúa đến với giáo phận Qui Nhơn (1618-2018), nhằm đào tạo
cho Hội Thánh Việt Nam nhiều cây bút văn xuôi. Thể lệ, chủ đề và cơ cấu tưởng
thưởng của cuộc thi được ấn định như sau.
I. THỂ LỆ
1. Cuộc thi kéo dài sáu năm, năm năm đầu
(2013-2017) mỗi năm trao giải một lần, năm thứ sáu (2018) dành cho những người
đã đạt giải trong các năm trước và trao giải tổng kết.
2. Cuộc thi dành cho các bạn trẻ Công giáo, trong
cũng như ngoài giáo phận Qui Nhơn, dưới 40 tuổi (năm dự thi – năm sinh theo sổ
rửa tội ≤ 40). Người đã đạt giải một lần, các năm sau có thể dự thi tiếp, dù đã
hơn 40 tuổi. Các bạn trẻ dự tòng cần có chứng từ đang theo học giáo lý dự tòng.
3. Thể loại: Truyện ngắn, mỗi truyện không quá
3000 từ. Không nhận truyện phóng tác. Phải là sáng tác mới, chưa đăng báo,
website hay blogs và chưa gửi dự thi ở bất cứ đâu.
4. Truyện lấy ý từ một tác phẩm khác, xin ghi rõ
xuất xứ tác phẩm gốc. Nếu bị phát hiện sao chép của người khác hoặc dựng lại
theo ý tác phẩm khác mà không ghi xuất xứ, sẽ bị loại và cấm thi các năm tiếp
theo.
5. Đề tài: Truyện cần mang nội dung Kitô giáo, có
tác dụng xây dựng đức tin cho Dân Chúa và loan báo Tin mừng cho người chưa biết
Chúa.
6. Mỗi năm, mỗi tác giả có thể tham gia tối đa 05
bài dự thi, có thể gửi chung một lần hoặc nhiều lần.
7. Chỉ nhận bài dự thi qua điện thư email, gửi
attach file với định dạng .doc hoặc .docx, không nhận bài gửi qua đường bưu
điện.
8. Đầu bài dự thi phải ghi rõ: họ và tên, bút
danh, năm sinh, rửa tội tại đâu, năm nào, địa chỉ nhà, giáo xứ, giáo phận, số
điện thoại liên lạc, địa chỉ email. Dù đã gửi nhiều email dự thi, đầu mỗi bài
đều cần ghi như thế. Những bài thiếu các chi tiết này sẽ không được nhập hồ sơ
dự thi.
9. Mỗi bài dự thi sẽ được nhập hồ sơ theo lần gửi
đầu tiên, mọi chỉnh sửa về sau đều không được chấp nhận.
10. Địa chỉ nhận bài, xin gửi cùng lúc về 2 điện
chỉ email: tinmunggiesu@gmail.com và gopnhattho@yahoo.com.
11. Thời gian nhận bài: trước ngày 01-3 mỗi năm.
Những bài gửi về muộn hơn sẽ được đưa vào hồ sơ dự thi năm sau.
12. Tưởng thưởng: Mỗi năm sẽ có 06 giải thưởng
chính thức và 15 giải triển vọng, theo cơ cấu và sinh hoạt như sẽ nói dưới đây.
13. Kết quả cuộc thi hằng năm sẽ được công bố ngày
15-8 mỗi năm
14. Lễ trao giải vào ngày 21-9 mỗi năm.
15. Những tác giả được vào chung khảo mà không đạt
giải sẽ được hỗ trợ một phần tiền xe về dự ngày họp mặt trao giải.
16. Các thông tin về cuộc thi sẽ được đăng trên
trang mạng giáo phận Qui Nhơn http://www.gpquinhon.org
và những trang mạng ủng hộ chương trình này.
17. Các tác phẩm đạt giải sẽ được in thành tuyển
tập do Ban Tổ Chức giữ bản quyền.
II. TƯỞNG THƯỞNG
Cơ cấu giải thưởng
Mỗi năm, có 6 giải thưởng chính thức và 15 giải
triển vọng.:
- một giải nhất: 20.000.000
$VN
- hai giải nhì, mỗi giải 12.000.000 $VN
- ba giải ba, mỗi giải 8.000.000 $VN
- 15 giải triển vọng, mỗi giải 3.000.000 $VN
Tuyển tập truyện ngắn riêng
Ngoài phần thưởng bằng tiền mặt, những tác giả đạt
giải, nếu có nhiều truyện khác có giá trị, sẽ được Tủ Sách Nước Mặn hỗ trợ xuất
bản một tuyển tập riêng dưới 200 trang với những truyện ngắn mang nội dung Kitô
giáo.
Những tác giả không đến dự lễ trao giải sẽ chỉ
được nhận 50% tiền giải thưởng và không được hỗ trợ in tuyển tập riêng. Những
tác giả chỉ dự lễ trao giải 21-9 mà không tham gia hành hương 22-9 chỉ được
nhận 75% tiền giải thưởng, nhưng vẫn được hỗ trợ in tuyển tập riêng.
III. TƯỞNG THƯỞNG DÀNH CHO ĐỘC GIẢ
1. Bình chọn
Các truyện dự thi đã qua vòng sơ tuyển sẽ lần lượt
được đưa lên mạng internet. Mời độc giả tham gia bình chọn qua hai câu hỏi: 1.
Theo bạn, truyện nào xứng đáng đạt giải nhất? 2. Có bao nhiêu người cùng ý kiến
như bạn? Ba độc giả đáp đúng nhất sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ
trợ tiền xe về dự họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
2. Giúp phát hiện trường hợp sao chép
Những độc giả giúp phát hiện đầu tiên những bài dự
thi sao chép của người khác (xin ghi rõ xuất xứ bài gốc) sẽ được tặng quà lưu
niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao giải và hành hương “dấu
chân Hàn Mạc Tử”.
Ban Tổ Chức chân thành biết ơn sự giúp đỡ của các
ân nhân. Các hỗ trợ tiền bạc hoặc hiện vật cho cuộc thi xin gửi về: Linh mục Võ
Tá Khánh, 116 Trần Hưng Đạo, TP Qui Nhơn – Email: gopnhattho@yahoo.com – Điện thoại:
0935-424-449.
Cập nhật
Qui Nhơn, ngày 23-9-2014
TRƯỞNG BAN TỔ CHỨC
Lm Gioan Phêrô Võ Tá Khánh (Trăng Thập Tự)
Trưởng Ban MV Văn hóa & Giáo dục Giáo phận Qui
Nhơn