Lễ phong chân phước cho Đức Phaolô 6 và bế mạc Thượng HĐGM thế giới
VATICAN. Sáng chúa nhật 19-10-2014, ĐTC Phanxicô đã chủ sự
thánh lễ trước sự hiện diện của 80 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô để
tôn phong ĐGH Phaolô 6 lên bậc chân phước đồng thời bế mạc Thượng Hội đồng Giám
Mục khóa đặc biệt thứ 3 sau 2 tuần tiến hành với chủ đề “Những thách đố về việc
mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng”.
Đồng
tế với ĐTC trong thánh lễ tại Quảng trường Thánh Phêrô dưới bầu trời nắng thu
thật đẹp, có gần 200 nghị phụ, hàng trăm Hồng Y và GM Italia và các nước khác về
dự lễ phong chân phước, và gần 1 ngàn linh mục ngồi trong khu vực riêng trước
thềm Đền thờ. Đặc biệt lúc 10 giờ sáng, Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16,
trong phẩm phục đồng tế, tiến ra lễ đài và ngồi nơi hàng ghế cạnh các Hồng y đồng
tế. Các tín hữu đã vỗ tay nồng nhiệt chào đón ngài.
Khi
tiến ra bàn thờ, ĐTC Phanxicô đã đến chào vị Giáo Hoàng tiền nhiệm của ngài.
Đứng
cạnh ĐTC trên bàn thờ là 6 chức sắc của Thượng HĐGM và có thêm 4 vị GM, Hồng Y
có liên hệ đặc biệt với vị tân chân phước, đó là ĐGM giáo phận Brescia nguyên
quán của Đức Phaolô 6, ĐHY Scola kế nhiệm Người trong chức vụ TGM Milano, ĐHY
Re cùng thuộc giáo phận Brescia và sau đùng là ĐHY Vallini giám quản Roma. Áo lễ
ĐTC Phanxicô mặc cũng là áo lễ ĐGH Phaolô 6 nhận được trong dịp ngài mừng sinh
nhật thứ 80 và chén lễ cũng là chén mà Đức Phaolô 6 đã dùng.
Trong
số các tín hữu hiện diện trong thánh lễ, đặc biệt có 3 ngàn tín hữu từ giáo phận
Milano và 5.300 người khác từ giáo phận Brescia của Đức chân phước Giáo Hoàng,
trong khi các chủng sinh của hai giáo phận này đảm nhận việc giúp lễ.
Đầu
thánh lễ, sau kinh thương xót, Đức Cha Monari, GM giáo phận Brescia, cùng với
Cha Antonio Marrazzo, dòng Chúa Cứu Thế là thỉnh nguyện viên án phong, đã tiến
lên trước ĐTC xin ngài tiến hành việc phong chân phước cho Vị Tôi Tớ Chúa
Phaolô 6, Giáo Hoàng. Trong dịp này, tiểu sử của Đức Phaolô 6 cũng được trình
bày. Tóm lược tiểu sử vị tân chân phước
Đức
Giáo Hoàng Phaolô 6 tên là Giovanni Battista Montini, sinh cách đây 117 năm
(26-9 năm 1897) tại làng concesio, giáo phận Brescia, bắc Italia. Thân phụ ngài
vốn là một luật sư, làm chủ báo “Công dân Brescia” (Il Cittadino di Brescia) và
sau này làm đại biểu của 3 khóa quốc hội thuộc đảng nhân dân Italia.
Thầy
Montini thụ phong linh mục năm 1920, lúc mới 23 tuổi, tốt nghiệp triết học và
dân luật ở Roma, và giáo luật ở Milano. Gia nhập trường ngoại giao Tòa Thánh rồi
năm 1923 được gửi đi làm tùy viên ở Tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở Varsava, thủ đô Ba
Lan. Nhưng chẳng bao lâu vì sức khỏe yếu, cha trở về Roma và phục vụ tại Phủ quốc
vụ khanh và dần dần được giao phó nhiều trách nhiệm hơn. Đồng thời cha cũng làm
tuyên úy cho liên hiệp các sinh viên đại học Công Giáo Italia. Cha cố gắng giúp
các sinh viên Công Giáo thấm nhuần các giá trị để có thể kháng cự lại ảnh hưởng
của phong trào sinh viên phát xít. Cha cũng dạy về lịch sử ngành ngoại giao Tòa
Thánh tại Giáo Hoàng đại học Laterano ở Roma.
Sau
28 năm phục vụ tại Vatican, cuối tháng 11 năm 1952, cha Montini được Đức Giáo
Hoàng Piô 12 bổ làm Quyền Quốc vụ khanh Tòa Thánh đặc trách thường vụ, và 2 năm
sau ngài được bổ nhiệm làm TGM giáo phận Milano là giáo phận lớn nhất tại Âu
Châu.
Đức
TGM Montini dành trọn 8 năm để tái thiết và tổ chức lại giáo phận Milano bấy giờ
đang ở trong tình trạng rất khó khăn và bấp bênh về kinh tế cũng như do hiện tượng
di cư từ miền nam Italia, sự lan tràn chủ nghĩa vô thần và mác xít nơi giới lao
động. Đức Montini tìm kiếm sự đối thoại và hòa giải với mọi lực lượng xã hội và
khởi sự công trình Kitô hóa thực sự nơi giới công nhân, nhất là qua hiệp hội công
nhân Công giáo Italia, gọi tắt là Acli. Sau khi ĐGH Gioan 23 qua đời hồi tháng
6 năm 1963, ĐHY Montini được bầu làm Giáo Hoàng. Ngài là vị giáo hoàng cuối
cùng đội triều thiên 3 tầng; và 5 tháng sau, ngài long trọng đặt triều thiên
này trên bàn thờ ở Đền thờ Thánh Phêrô như một dấu chỉ từ bỏ “vinh quang và quyền
lực phàm nhân”.
Đứng
trước một thực tại xã hội ngày càng có xu hướng tách rời khỏi linh đạo, và bị tục
hóa, đứng trước một quan hệ khó khăn giữa Giáo Hội và thế giới, Đức Giáo Hoàng
Phaolô 6 đã luôn biết chứng tỏ đâu là những con đường đức tin và nhân đạo, qua
đó có thể tiến tới một sự cộng tác liên đới với nhau để mưu công ích. Ngài cố gắng
duy trì sự hiệp nhất của Giáo Hội Công Giáo, trước sự kiện một đàng phe siêu bảo
thủ tố giác ngài là cởi mở thái quá, nếu không muốn nói là theo phe duy tân, và
đàng khác có những phe giáo sĩ gần gũi với các chủ trương xã hội chủ nghĩa, thì
phê bình ĐGH là bất động.
Đức
Phaolô 6 đã mở đầu thói quen viếng thăm mục vụ tại các đại lục từ Thánh Địa với
cuộc gặp gỡ Đức Thượng Phụ Chính Thống Athenagoras, cho tới Ấn độ, LHQ, Fatima,
Thổ nhĩ kỳ, Colombia, Genève và Uganda, Viễn Đông, Australia và Đại dương châu,
và rất nhiều cuộc viếng thăm khác ở Italia. Ngài công bố 7 thông điệp, bắt đầu
là thông điệp Ecclesiam Suam cách đây đúng 50 năm, và sau cùng là thông điệp
Humanae vitae, Sự sống con người, về hôn nhân và điều hòa sinh sản. Đức Phaolô
6 đã áp dụng các giáo huấn của Công đồng và tiếp tục công trình canh tân Giáo Hội,
thiết lập Ngày Hòa Bình thế giới. Ngài cũng chịu đau khổ nhiều vì cuộc khủng hoảng
nơi các chi thể của thân mình Giáo hội và đáp lại bằng sự can đảm thông truyền
đức tin, bảo đảm đạo lý chắc chắn trong một thời kỳ có nhiều đảo lộn ý thức hệ.
Đức
Giáo Hoàng Phaolô 6 qua đời ngày 6-8-1978 tại Castel Gandolfo, sau một cơn bệnh
ngắn, hưởng thọ 81 tuổi. Sau khi ĐTC đọc công thức phong chân phước, thánh tích
của Đức Phaolô 6 được nữ tu Giacomina Padrini, cùng với nước người cầm hoa nến
tháp tùng rước lên bàn thờ. Thánh tích này là một mảnh áo của Đức Phaolô 6 bị
thấm máu vì ngài bị mưu sát ngày 28-11 năm 1970 trong chuyến viếng thăm mục vụ
tại Manila, Philippines.
Bài
giảng của ĐTC: Chúng ta vừa nghe một trong những câu thời danh nhất trong toàn
Tin Mừng: “Vậy hãy trả lại cho Cesar điều gì thuộc về Cesar, và trả lại cho
Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa” (Mt 22,21). Trước sự khiêu khích của những
người Biệt Phái, là những người có thể nói là muốn khảo hạch Chúa Giêsu về đạo
và kéo vào chỗ sai lầm, Ngài trả lời bằng một câu nói mỉa mai và khéo léo ấy.
Đó là một câu trả lời hiệu nghiệm mà Chúa gửi cho tất cả những người đặt vấn đề
lương tâm, nhất là khi có liên quan tới lợi lộc, của cải và uy tín, quyền hành
và danh tiếng của họ. Và điều này vẫn luôn xảy ra trong mọi thời đại.
Chắc
chắn điều mà Chúa Giêsu nhấn mạnh là phần hai trong câu nói: “Và hãy trả lại
cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa”. Điều này có nghĩa là - đứng trước bất
kỳ loại quyền bính nào - cần nhìn nhận và tuyên xưng rằng chỉ một mình Thiên
Chúa là chúa tể của loài người, và không có ai khác. Đây là một sự mới mẻ ngàn
đời cần phải tái khám phá mỗi ngày, vượt thắng sự sợ hãi mà nhiều khi chúng ta
cảm thấy trước những điều ngạc nhiên về Thiên Chúa.
Chúa
không sợ những điều mới mẻ! Vì thế, Ngài liên tục làm cho chúng ta ngạc nhiên,
mở ra và dẫn đưa chúng ta vào những con đường chưa được nghĩ tới. Chúa đổi mới
chúng ta, nghĩa là liên tục làm cho chúng ta 'trở nên mới'. Một Kitô hữu sống
Tin Mừng là “một sự mới mẻ của Thiên Chúa” trong Giáo Hội và trong thế giới. Và
Thiên Chúa yêu mến “sự mới mẻ ấy” dường nào! “Hãy trả cho Thiên Chúa điều thuộc
về Thiên Chúa” có nghĩa là cởi mở đối với Thánh Ý Chúa và tận hiến cuộc sống của
chúng ta cho Chúa, và cộng tác vào Nước từ bi, yêu thương và an bình của Ngài.
Đây
chính là sức mạnh đích thực của chúng ta, là men khơi dậy sức mạnh và là muối
mang lại hương vị cho mỗi cố gắng của con người chống lại thái độ bi quan thịnh
hành mà thế giới đang đề nghị cho chúng ta. Đây chính là niềm hy vọng của chúng
ta vì niềm hy vọng nơi Thiên Chúa không phải là một sự trốn chạy thực tại,
không phải là một cớ thoái thác: đó là hoạt động trả lại cho Thiên Chúa điều
thuộc về Ngài. Chính vì điều này mà Kitô hữu nhìn thực tại tương lai, thực tại
của Thiên Chúa, để sống trọn vẹn cuộc sống - với đôi chân đặt vững trên mặt đất
- và can đảm đáp lại vô số những thách đố mới.
Chúng
ta đã thấy điều này trong trong những ngày Thượng HĐGM khóa đặc biệt - Sinodo
có nghĩa là đồng hành. Thực vậy, các vị chủ chăn và giáo dân từ các nơi trên thế
giới đã mang đến Roma này tiếng nói các Giáo hội địa phương của họ để giúp các
gia đình ngày nay tiến bước trên con đường Tin Mừng, với cái nhìn chăm chú vào
Chúa Giêsu. Đó là một kinh nghiệm lớn trong đó chúng ta đã sống công nghị tính
và cộng đoàn tính và chúng ta đã cảm thấy sức mạnh của Chúa Thánh Linh hướng dẫn
và luôn canh tân Giáo Hội, Giáo Hội không ngừng được kêu gọi mau mắn chữa trị
các vết thương rướm máu và khơi lên niềm hy vọng cho bao nhiêu người không có
hy vọng. Vì hồng ân Thượng HĐGM này và vì tinh thần xây dựng mà mọi người mang
lại, cùng với thánh Phaolô Tông Đồ: “chúng ta hãy luôn cảm tạ Thiên Chúa cho tất
cả anh chị em, nhắc nhớ anh chị em trong kinh nguyện của chúng tôi” (1 Ts 1,2).
Và Chúa Thánh Linh, trong những ngày làm việc này, đã ban cho chúng ta quảng đại
hoạt động với tinh thần tự do đích thực và với tinh thần sáng tạo khiêm tốn,
xin Chúa tháp tùng hành trình, trong các Giáo Hội trên toàn trái đất, chuẩn bị
chúng ta tiến hành Thượng HĐGM thế giới khóa thường lệ vào tháng 10 năm 2015.
Chúng ta đã gieo vãi và chúng ta sẽ còn tiếp tục gieo vãi trong kiên nhẫn và
kiên trì, chắc chắn rằng Chúa sẽ làm tăng trưởng điều mà chúng ta đã gieo vãi
(1 Cr 3,6).
Chân
phước Phaolô 6
Trong
ngày phong chân phước cho Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 hôm nay, tôi nhớ đến những lời
của Người, khi thành lập Thượng HĐGM: “Khi chú ý xem xét những dấu chỉ thời đại,
chúng ta tìm cách thích ứng cuộc sống và các phương pháp với những nhu cầu gia
tăng ngày nay và với những hoàn cảnh biến đổi của xã hội” (Tông thư Tự Sắc
Apostolica sollicitudo).
Đối
với vị Đại Giáo Hoàng, là Kitô hữu can đảm và là tông đồ không biết mệt mỏi
này, trước Thiên Chúa ngày hôm nay, chúng ta chỉ có thể nói một lời rất đơn sơ
cũng như lời chân thành và quan trọng này: cám ơn Người! Xin cám ơn Đức Giáo
Hoàng Phaolô 6 yêu quí và được yêu mến của chúng con! Cám ơn vì chứng tá khiêm
tốn và ngôn sứ của Người về lòng yêu mến Chúa Kitô và Giáo Hội!
Trong
nhật ký riêng, Vị Đại Hoa Tiêu của Công đồng này, sau khi bế mạc Công đồng đã
ghi chú: “Có lẽ Chúa đã gọi tôi và ủy cho tôi công tác phục vụ này không phải
vì tôi có tài năng nào đó, hoặc để tôi cai quản và cứu vãn Giáo Hội khỏi những
khó khăn hiện nay, nhưng để tôi chịu đau khổ cách nào đó vì Giáo Hội, và để rõ
ràng là Chúa, chứ không ai khác, là vị đang hướng dẫn và cứu vãn Giáo Hội” (P.
Macchi, Paolo VI nella sua Parola, Brescia 2001, pp.. 120-121). Trong sự khiêm
tốn sáng ngời này, sự cao cả của Chân Phước Phaolô 6 đã biết hướng dẫn một cách
khôn ngoan và sáng suốt tay lái con thuyền Phêrô mà không bao giờ đánh mất niềm
vui và tín thác nơi Chúa, giữa lúc một xã hội tục hóa và thù nghịch đang xuất
hiện ở chân trời.
Đức
Phaolô 6 thực sự đã biết trả lại cho Thiên Chúa những gì là của Thiên Chúa khi
dành trọn cuộc đời của Người cho “sự dấn thân thánh thiêng, trọng đại và rất
quan trọng: đó là tiếp tục trong thời gian và mở rộng sứ mạng của Chúa Kitô
trên trái đất” (Bài Giảng lễ đăng quang: Insegnamenti I, 1963, p.26), bằng cách
yêu mến Giáo Hội và hướng dẫn Giáo Hội để “Giáo Hội đồng thời là người mẹ yêu
thương của tất cả mọi người và là người ban phát ơn cứu độ” (Thông điệp
Ecclesiam Suam, Lời Tựa).
Ý
nguyện và kinh Truyền Tin
Trong
các ý nguyện được xướng lên trong phần lời nguyện giáo dân có lời cầu xin Chúa
thánh hóa sự kết hiệp của các đôi vợ chồng Kitô bằng ơn thánh sự hiện diện của
Chúa và xin Chúa cho phẩm giá của các trẻ em và người già được bảo vệ trong mỗi
gia đình; xin Chúa làm cho mọi người được biết sự khôn ngoan của thập giá Chúa
nhờ chứng từ của các vị tử đạo và những người bị bách hại; xin cho các nhà lãnh
đạo chính trị và tất cả những kẻ cường quyền từ bỏ con đường oán hận và chiến
tranh.
Cuối
thánh lễ, ĐTC đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin. Ngài chào thăm các tín hữu
hành hương từ Italia và nhiều nước, cũng như các phái đoàn chính thức, và đặc
biệt là các tín hữu từ các giáo phận Brescia, Milano và Roma có liên hệ đặc biệt
tới cuộc sống và sứ vụ của ĐGH Montini.
ĐTC
cũng nói rằng “Đức tân Chân phước là người hăng say nâng đỡ sứ vụ truyền giáo
cho dân ngoại, bằng chứng đặc biệt là Tông Huấn Evangelii Nuntiandi của Người,
qua đó Người muốn thức tỉnh đà tiến và sự dấn thân cho sứ mạng truyền giáo của
Giáo Hội. Cần đặc biệt để ý đến khía cạnh này trong triều đại Giáo Hoàng của Đức
Phaolô 6, nhất là hôm nay chúng ta cử hành Ngày Thế Giới Truyền giáo.
ĐTC
không quên đề cao lòng sùng kính sâu xa của Đức Chân Phước Phaolô 6 đối với Đức
Mẹ. Dân Kitô giáo luôn biết ơn vị Giáo Hoàng này vì Tông Huấn Marialis cultus về
lòng tôn sùng Đức Mẹ và vì đã tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Giáo Hội nhân dịp bế mạc
khóa III của Công đồng chung Vatican 2.
G.
Trần Đức Anh OP