CHỦ NHẬT KI TÔ VUA (34 TN A)
Khi
một quyền bính mới thiết lập, người ta thường vội vàng
tìm mọi cách để chứng tỏ mình có
nhiều khả năng để nịnh bợ ông chủ mới. Trong Nước Trời, không có gì giống như thế. Việc Đức Ki tô tỏ hiện trong
vinh quang chỉ làm cho chân lí các tâm hồn được sáng tỏ. Một câu hỏi sẽ được đặt ra:
trong tương quan với người khác, bạn có thấy Đức Ki tô không? Tất cả chúng ta
đều bị xét xử theo Tình yêu.
Sách Tiên tri Êdêkiên 34,
11-12.15-17
Tiên tri Êdêkiên đang bị lưu đày ở Babilon,
loan báo rằng sẽ đến ngày Mục tử tốt lành xuất hiện. Ngài
là Mục tử đích thật sẽ chăn dắt nhân lọai trong con đường ngay chính. Ngài sẽ là người Tôi tớ quan tâm đến những nhu cầu của đàn
chiên, lấy tình thưong nuôi dưỡng những chiên
lành, đặc biệt chăm
sóc những con
chiên yếu nhất và đi quan tâm đi tìm những con chiên lạc.
Thánh Vịnh 22
Thiên
Chúa là Mục tử tiếng tăm lừng lẩy, vì
cách chăn dẫn đoàn chiên của Ngài. Ngài dẫn chúng
đi qua những chướng ngại và bảo đảm tất cả những gì cần thiết để được phong phú.
Thư 1 Côrintô 15, 20-26.28
Thánh
Phao lô trả lời cho các câu hỏi liên
quan đến những ngày
cuối cùng và việc kẻ chết sống lại. Với những ai còn
hồ nghị về sự Sống lại, ngài đặt đối diện với sự sống lại của Đức Ki tô. Ngài sẽ dẫn đầu đoàn người đến với Thiên Chúa Cha và dẫn họ vào Nước của Cha. Bấy giờ Uy quyền Ngài xuất hiện. trong một thế giới được giải thoát
khỏi sự chết, Thiên Chúa sẽ là tất cả trong tất cả.
Tin mừng: Mt 25:31-46
NGỮ CẢNH
Đoạn văn nầy nằm ở cuối diễn từ cánh
chung (24,3- 25,46), gợi lên
hình ảnh cuộc Quang lâm của Con Người, nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng vào lúc “cuối cùng” của các hành vi bác ái mà người tín hữu thực hiện để giúp đỡ các kẻ bé mọn nhất.
Có
thể đọc đoạn văn theo bố cục sau đây:
1.
Quang cảnh phán xét cuối cùng
(31-33)
2.
Xét xử những người ở bên phải (34-40)
3.
Xét xử những người ở bên trái
(41-45)
4.
Kết luận (46)
TÌM HIỂU
Muôn
dân: có thể hiểu theo nghĩa tổng quát,
chỉ tất cả các dân nước, chứ không riêng các dân ngoại.
Tập họp trước mặt Người: CƯ đã nói đến cuộc qui tụ vĩ đại các dân
trên thế giới lại để chịu Thiên Chúa phán xét (x. Ge 4,2; Ix 66,18;
Gr 25,31..)
Như mục tử tách biệt chiên với dê: Nói
cho đúng, đây là chiên và “dê con”; ở
Palestina, việc chăn chiên chung với dê là chuyện thường. Nhưng chiều đến, người ta phải tách chúng ra, vì dê con cần được sưởi ấm suốt đêm. Vì chiên có giá trị hơn dê, nên ta dễ hiểu tại sao,
trong dụ ngôn, chúng được đứng bên hữu đấng Thẩm phán
cánh chung (bên phải là chỗ danh dự).
Đức Vua: qui chiếu đến Chúa Giê su (x.2.2;21,3;27,11;27,29.37.42).
Hãy
đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các
ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa: x. hai mối phúc thật đầu tiên:
“Vì Nước Trời là của họ” (5,3)
và “Họ sẽ được đất làm cơ nghiệp”(5,4).
Vì
Ta đói.. Ta khát..: Các nỗi đau khổ của con người được Mt gợi lại ở đây một cách rất thực tế, cụ thể: bị đói,
khát, yếu đau, trần truồng, bắt bớ, giam cầm. Dù sao
đi nữa, thì những con người thống khổ ấy cần được giúp đỡ. Con Người liên đới với mọi nỗi khổ đau của nhân loại theo mọi chiều kích rộng và sâu
của nó.
Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói: Không phải những người nầy quên những gì họ đã làm,
nhưng đúng hơn, họ không biết rằng mình đã làm cho chính Con Người trong bản thân của những kẻ khốn khổ. Hành vi của họ chỉ bộc lộ trọn vẹn ý nghĩa
vào lúc cuối cùng, và điều nầy phù hợp với toàn bộ luân lí của Mt:
“Cha ngươi, Đấng thấy suốt nơi kín ẩn, sẽ hoàn trả lại cho ngươi” (6,4).
Đi
đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời: Hình
phạt dành cho những kẻ đã không có lòng nhân từ thật khủng khiếp. Rõ
ràng, những ai đã không cứu giúp anh em của Con Người cũng mắc lỗi nặng nề như phạm tội ác. Sau nầy, thánh
Gioan sẽ nói: ai không yêu thương thì tức là giận ghét vậy (1Ga).
SỨ ĐIỆP
Trong
thánh lễ Đức Ki tô
Vua vũ trụ, chúng ta mừng quyền tối thượng của Đức Ki tô.
Ngài thực sự là Vua,
nhưng không phải theo kiểu cách trần gian nầy. Họ tìm cách áp đặt quyền bính và quyền uy của mình. Còn Đức Ki tô,
mọi sự khác hẳn. Khi các nhà đạo sĩ đi tìm “Vua người Do thái vừa mới sinh ra”, thì họ đã gặp được một đứa bé mới sinh,
trong những điều kiện hèn hạ thiếu thốn trong
hang bò lừa.
Trong
bài đọc thứ nhất, tiên tri Ê dê ki ên cho chúng ta thấy Thiên Chúa như một Mục tử tốt lành. Ngài đã nhìn đến dân của Ngài,
và đã thấy nó đã quá sức tệ hại. Nên đã
đến lúc Ngài phải nắm lại đàn
chiên: tất cả đã quá tồi tệ và giờ đây là lúc phải sửa chữa. Vị mục tử nầy vui mừng vì những con
chiên tốt đã biết lợi dụng những đồng cỏ tốt. Nhưng trong đàn,
còn có những con chiên đi lạc và những con
khác đang đau yếu. Tất cả đều thuộc về Ngài và Ngài không muốn mất đi con
nào.
Đức Ki tô là vị Mục tử tốt lành cho chúng ta. Ngài hiến trọn cuộc sống
mình cho từng con
chiên một. Ngài thấy nỗi đau khổ thân xác
và tinh thần của những con nầy. Ngài nhìn thấy đời sống thiêng
liêng thiếu thốn và mong manh, và Ngài không chấp nhận điều đó. Ngài đến với chúng ta để cứu chữa chúng
ta, nâng chúng ta lên và làm sống lại niềm hi vọng của chúng
ta. Và chính vì thế mà chúng
ta có thể có thể lặp lại cho mình
lời ca tạ ơn rất đẹp trong
thánh vịnh 22: “Chúa là Mục tử tôi; tôi
không còn thiếu gì”. Đó là lời mời gọi nhìn nhận và công
bố rằng chúng
ta thuộc thành phần dân
Chúa và ơn Cứu độ chỉ đến từ Ngài mà thôi. Nhưng đặc biệt đó là lời mời gọi hi vọng: Chúa
không bao giờ bỏ rơi tôi. Ngài đến với tôi để nói với tôi về tình yêu
và lòng nhân ái của Ngài.
Tiếp nối chiều hướng ấy, bài tin mừng cho
chúng ta thấy Chúa Giê su ở gần những kẻ bé mọn, gần đến nỗi Ngài tự đồng hóa với họ. Hình ảnh mục tử luôn hiện diện ở đó, nhưng rõ nét nhất, lại là hình
ảnh của vị quan án. Ngài sẽ gợi lại cho chúng ta những gì làm nên giá trị thật của cuộc đời chúng ta. “Ngày xưa, Ta đói.. Ta bệnh.. Ta là người khách lạ..”. Ở đây Chúa
Giê su tự tỏ mình dưới tấm áo mong
manh nhất, hèn hạ nhất, của những người nghèo
khổ nhất. Ngang
qua nét mặt khổ đau của bệnh nhận, tù
nhân, phế nhân, không cơm ăn, không áo mặt, không
tình yêu chính là Ngài mà chúng ta đã ân cần tiếp đón hoặc nhẫn tâm khước từ.
Vì
thế thật là khẩn cấp lời mới gọi thể hiện lòng xót thương, xây dựng Nước công bình và bình an mà Chúa Giê su mong muốn. Tiêu chuẩn của chúng ta không phải là “mỗi người vì mình”, mà là “mình vì tất cả”, là
chia sẻ và liên đới. Bài
tin mừng nầy chỉ cho chúng ta thấy Thiên Chúa tách biệt nhân loại ra làm
hai, người tốt bên phải, người xấu bên trái. Điều đó nhắc chúng ta nhớ lại trình thuật về việc tạo dựng vũ trụ: Chúng ta đọc thấy trong đó, Thiên Chúa tách ánh sáng ra khỏi bóng tối, nước phía dưới bầu trời và nước phía trên, đất và biển.
Vì
thế, trong trình thuật phán xét, đó là hình ảnh nói lên một tạo dựng mới, một thế giới mới xây trên tình yêu và huynh đệ. Tiêu chuẩn duy nhất để tách biệt đó là tình yêu đối với những kẻ bé mọn. Sẽ không
còn phân biệt tôn giáo nầy với tôn
giáo khác, khuynh hướng chính
trị nầy với khuynh hướng khác,
người giàu với người nghèo, mà chỉ còn có một tiêu chuẩn tách biệt duy nhất: một bên những người đã yêu thương anh em mình và bên kia những người đã
không làm như
thế.
“Ngày
xưa, Ta đói”. Chắc chắn, không
chỉ có cái đói vật chất, mà còn những cái
đói khác. Hằng triệu người sống trong suốt cuộc đời mình với cái đói dai dẳng. Ở thành phố hay ở thôn quê, lúc nào chúng ta có thể tìm thấy những người không
có gì để ăn. Nhưng cái đói đáng sợ hơn cả là đói tình yêu, đói được nhìn nhận, được đánh giá, đói công bình và hòa bình, đói việc làm. Cả khi
chúng ta không có lời giải đáp cho tất cả các vấn đề của họ, chúng ta vẫn có thể lắng nghe họ, làm một điều gì đó giúp họ, vì qua
họ, chính Chúa Giê su đòi được nhìn nhận và đón
tiếp.
“Ta
là khách lạ và các ngươi đã đón tiếp.. hoặc các ngươi đã không đón
tiếp”. Thường chúng
ta nghĩ đến những người di cư từ các nước khác đến để trốn chiến tranh
và nghèo đói. Nhưng còn những người khách lạ trong
chính gia đình mình thì sao? Các đôi vợ chồng xa cách nhau bởi những cuộc tình không thể hàn gắn, cha mẹ và con
cái xa cách nhau vì không hiểu và chống đối nhau,
hàng xóm, láng giềng xa
cách nhau vì xung đột vv..
Chính Chúa đi ngang qua cuộc đời mà chúng ta tưởng là người khách lạ.
Tuy
nhiên Đức Ki tô tù nhân là điều gây sửng sốt cho chúng ta nhất. “Ta đã ở tù..”.
Có những tù nhân vì lỗi lầm của họ. Nhưng cũng có những người bị giam
trong chính ngục tù người khác tạo ra: định kiến của chúng ta, tai tiếng, ý thức hệ của họ, tất cả đều có thể trở thành những tù ngục khó
lòng phá bỏ. Đức Ki tô hiện thân nơi chính những tù nhân đó, nhưng chúng ta
không biết: “Ta bị tù nhưng các ngươi đã không thăm viếng..”
Tình
yêu sẽ là tiêu chuẩn duy nhất chúng ta sẽ bị xét xử. Nhưng sự xét xử ấy, không chỉ dành cho
ngày chung thẩm, nhưng ngay sau khi
chết. Nên chính giờ đây là cơ may để chúng ta đón tiếp Đức Ki tô.
Trong suốt cuộc sống,mỗi người tự xét xử khi tiếp nhận hoặc từ chối Vương quốc tình yêu. Còn Thiên Chúa, Ngài sẽ không làm gì khác hơn là vạch trần những gì còn ẩn khuất trong cuộc sống hằng ngày của chúng
ta.
Trong
Thánh Thể mà chúng ta cử hành Chủ nhật hôm
nay, chúng ta học nhận biết Đức Ki tô trong Lời và Bánh
sự Sống, và nhất là nơi những người nghèo mà chúng ta gặp gỡ. Chúng
ta được sai đi đến gặp họ nếu chúng ta muốn gặp gỡ chính Đức Ki tô.
ĐÀO SÂU
1. HỎI: Bài đọc một nội dung như thế nào?
THƯA: Tiên tri
Êdêkiên loan báo cho những người lưu đày ở Babilon, rằng sẽ đến ngày Mục tử tốt lành xuất hiện. Khác với các Mục tử giả hiệu, Ngài là Mục tử đích thật sẽ chăn dắt nhân lọai trong con đường công
chính. Ngài quan tâm đến các nhu
cầu của đàn
chiên, lấy tình thưong nuôi dưỡng những chiên
lành, đặc biệt chăm
sóc những con chiên yếu và lo lắng đi tìm những con
chiên lạc. Người sẽ xét xử, không
phải để lên án
nhưng để mỗi người tự xét xử chính mình.
2. HỎI: Cựu Ước gợi lên
hình ảnh Mục tử và đàn chiên để làm gì?
THƯA: Cựu Ước thường dùng
hình ảnh Mục tử và đàn chiên để gợi lên các tương quan giữa Thiên
Chúa và Dân Người. Tân Ước cũng sẽ tiếp tục đi theo
hướng nầy, đặc biệt trong
bài tin mừng hôm nay.
3. HỎI: Bối cảnh bài đọc thứ nhất như thế nào?
THƯA: Trong cuộc khủng hoảng lưu đày ở Ba by
lon, các lãnh đạo và tư tế Ítraên đã không làm tròn trách nhiệm mục tử của mình.
Vì thế, Thiên Chúa nhờ tiên tri
Ê dê ki ên loan báo sẽ loại trừ các mục tử giả hiệu đó và
chính Người sẽ trực tiếp chăm
sóc đàn chiên.
4. HỎI: Bài đọc một gửi đến dân Do thái những tin mừng nào?
THƯA: Bài đọc một cho thấy Ít ra ên vẫn còn là
đàn chiên của Thiên Chúa. Người vẫn trung
thành với Giao Ước trong mọi hoàn cảnh. Người sẽ qui tụ và dẫn đàn
chiên về đồng cỏ. Và chính Người sẽ ra tay chăm sóc đàn chiên.
5. HỎI: Nơi mà đàn chiên tản mác, và
đồng cỏ là đâu?
THƯA: Nơi mà đàn chiên tản mác là Ba by lon, và đồng cỏ là Giê
ru sa lem và Đất Hứa.
6. HỎI: Lời Tiên
tri có nhắm tới đấng Messia
không?
THƯA: LờiTiên tri không nhắm đến đấng Messia, mà chỉ nhắm đến tương lai gần, chấm dứt lưu đày ở Ba by lon và quay trở về quê hương. Lúc nào thực hiện lời hứa thì
tiên tri không biết nhưng chắc rằng nó sẽ đến.
7. HỎI: Bài đọc một cho thấy Thiên
Chúa là đấng nào?
THƯA:
Bài đọc một cho
chúng ta thấy Thiên Chúa là Mục Tử nhân
lành, hết mực chăm lo
cho con cái Người như người chăn chiên tốt lành
chăm sóc, qui tụ, tìm kiếm, đưa về, băng
bó, chữa lành, vỗ béo và
chăn dắt đàn chiên của mình.
8. HỎI. Ngang qua lời sấm tiên tri Edêkiên, Thiên Chúa đưa ra một bản án cực kì nghiêm khắc cho ai,
và tại sao?
THƯA: Đó
là những mục tử xấu, thay
vì yêu thương,
chăm sóc đàn chiên được giao
phó, họ chỉ biết lợi dụng khai thác cho mục đích và ích lợi riêng tư của mình. Vì thế, chính
Thiên Chúa sẽ lấy lại đàn
chiên, tức là dân Ngài, để hướng dẫn và quan tâm chăm sóc theo nhu cầu của từng người một. Còn các mục tử xẩu sẽ bị xét xử nghiêm khắc bởi vì chẳng những đã không làm tròn mà còn lạm dụng sứ mạng mục tử của mình.
9. HỎI. Tại sao họ lại bị xét xử nghiêm
khắc đến như thế?
THƯA: Bởi vì theo văn hóa Kinh Thánh, ở Israen, Vua, Tư tế giữ vai trò đại diện, coi sóc đoàn dân thay cho Thiên Chúa là Mục tử tối cao. Trước mặt Thiên Chúa, các lãnh đạo Israen phải bảo đảm sự công chính, giúp những người yếu nhất và
nghèo khổ, tạo điều kiện để mọi người không phân biệt tầng lớp thực hiện các đặc sủng và tài
năng nhận được. Đáng
tiếc là họ đã làm
ngược lại, khai
thác người nghèo, tạo ra vô số qui định làm
cho lề luật của Thiên Chúa trở nên nặng nề khó giữ, chỉ làm lợi cho những người giàu có và quyền thế.
10. HỎI. Thánh vịnh 22
(23) có phải là một lời tuyên xưng đức tin vào một Thiên
Chúa là Mục tử nhân lành.
THƯA: Đúng,
đó là một bài thánh ca đặt trọn niềm tin tưởng vào
Thiên Chúa. Ngài không để cho đàn
chiên của Ngài thiếu thốn bất cứ điều gì:
Ngài đưa chúng tới đồng cỏ xanh rì và dòng nước trong mát. Đàn chiên (hình ảnh chỉ dân)
không sợ hãi, vì Chúa ở với họ: Ngài hướng dẫn, bảo vệ, và gắn bó với họ.
11. HỎI: Bài tin mừng được đặt trong
ngữ cảnh nào?
THƯA: Đoạn tin mừng nầy là trích đoạn phần cuối diễn từ cánh
chung (Mt 24,3- 25,46), gợi lên
hình ảnh cuộc Quang
lâm của Con Người. Ngày ấy Chúa Giê su sẽ ngự đến trần gian trong vinh quang để xét xử loài người. Ngài sẽ cho thấy giá trị các hành
vi bác ái mà người tín hữu đã thực hiện để giúp đỡ các kẻ bé mọn nhất.
12. HỎI: Hình ảnh ‘Con
Người ngự đến trong vinh quang, .. .’ muốn diễn tả điều gì?
THƯA: Hình ảnh ấy muốn diễn tả ngày Chúa Giê su trở lại trần gian với tư cách một vì Vua uy phong ngự trên ngai
báu để xét xử chung thẩm loài người.Hình ảnh ấy cho thấy Chúa Giê su là Thiên Chúa và là Vua.
13. HỎI: Câu‘Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách
chiên ra khỏi dê’ mốn nói điều gì?
THƯA: Qua sự phân chia người lành kẻ dữ, trước tiên Chúa Giê su muốn nhắm đến thái độ sống trước khi đề cập đến số phận cuối cùng của mỗi người (người lành- kẻ dữ). Thiên Chúa là
Đấng tạo dựng loài người nên biết rõ mỗi người chúng ta đều có những khoảng tối tăm và ánh sáng, những chọn lựa đúng sai trong cuộc đời mình.
14. HỎI: ‘Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc’ có nghĩa gì?
THƯA: Câu ấy cho thấy là Thiên Chúa đấng công
chính như thế nào. Sự công
chính của Ngài trước tiên
không phải là
cân nhắc những việc lành dữ của con người, mà là
chúc phúc cho chúng ta mỗi khi
chúng ta giúp đỡ những người nghèo
khổ bất hạnh.
15. HỎI: ‘Có bao giờ chúng
con thấy Chúa đói....’ có nghĩa gì?
THƯA: Câu ấy muốn nói rằng để được chúc
phúc không cần thiết phải nhận ra Chúa Giê su nơi người anh em
chúng ta mà chỉ cần yêu mến họ là đủ. Đối với Chúa
Giê su vấn đề không phải là có những tâm
tình hay ý hướng tốt, mà cần phải có những hành
vi cụ thể. Yêu mến Thiên Chúa là yêu thương người lân cận, phục vụ họ, cho họ những gì họ cần. Chính đó làm nên giá trị cuộc sống của chúng
ta.
16. HỎI. Các bài đọc hôm nay
phác họa chân dung Vua Ki tô như thế nào?
THƯA: Các
bài đọc hôm nay lần lượt giới thiệu Chúa Giê su như là Vua Mục Tử chăm sóc
chiên mình, Vua Chiến Thắng đánh bại các quyền lực chống đối và cho
ta thông hiệp vào cuộc thắng trận của Ngài,
Vua Thẩm Phán phân biệt những kẻ đã biết chấp nhận quyền bá chủ của Ngài,
Vua Tôi Tớ giao quyền thống trị lại cho
Chúa Cha. Thật khó mà tóm kết trong vài câu một hình ảnh vừa đa dạng vừa đầy đủ về Chúa Giê
su như thế.
17. HỎI. Tân Ước trình
bày cho chúng ta vương quyền của Đấng Messia
như thế nào?
THƯA: Theo
Tân ước và một vài bản văn Cựu ước, Vương quyền của Đức Ki tô
không thực hiện bằng chứng tỏ uy quyền, nhưng bằng tình yêu cứu độ. Theo ngôn ngữ Thánh
kinh, tước hiệu Vua chỉ rằng đấng Messia cứu độ là Mục tử hiến ban sự sống cho
đàn chiên mình.
18. HỎI. Lời tiên
tri trong Mt 25,31-47 là dụ ngôn cuối cùng nói về “những sự cuối cùng”, lời ấy muốn nói lên
điều gì?
THƯA: Lời ấy cho thấy án xử chung thẩm, lúc mà Chúa Giê su tỏ cho thấy tình
yêu cụ thể. Ngài là
Mục tử nhân
lành, nhưng trong lúc xét
xử, Ngài là vị Quan án
công minh. Ngài là một vì
Thiên Chúa đầy lòng thương xót, nhưng vào lúc cuối cùng sẽ tách người tốt ra khỏi kẻ xấu, xử phạt những ai đã
lãnh nhận tình yêu nhưng không yêu thương Ngài trong bản thân
anh em.
19. HỎI. Đâu là tâm điểm của sứ điệp tin mừng ấy?
THƯA: Sứ điệp tin mừng hôm nay có chủ điểm là tình
yêu. Tòan thể lịch sử Cứu độ được tóm gọn trong
khẳng định và tôn
vinh Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu là quà tăng Thiên Chúa ban cho loài người. Ai có cảm nghiệm mình được yêu thương sẽ có thể yêu thương. Tình yêu
Thiên Chúa chủ yếu là “trải nghiệm về sự sống” làm nền tảng cho đời sống chúng
ta và làm cho nó có ý nghĩa.
20. HỎI. Tình yêu Thiên Chúa là trải nghiệm sự sống theo
nghĩa nào? Có thể là sự sống thiêng
liêng chăng?
THƯA: Không,
nhưng là sự sống toàn
diện: thể lí và
thiêng liêng. Khi còn sống trên
trần gian chúng ta phải chuẩn bị thân xác chúng ta cho sự sống vinh
quang. Trong cuộc sống xã hội, chúng
ta phải đào tạo nhân
cách sẽ theo chúng ta vào cõi vĩnh hằng; ngang qua các tương quan nhân lọai, chúng ta phải đào tạo cái “tôi” một ngày
nào đó sẽ sống mối tương quan với Ba Ngôi
Thiên Chúa, các thánh và thiên thần.
21. HỎI. Trong ngày quang lâm, làm sao được ở bên tay
hữu Đức Ki tô,
giữa những người được chúc
phúc?
THƯA: Bằng cách bắt chước Chúa Giê su Ki tô, như đã được dạy trong
các sách Tin mừng.
22. HỎI. Trong các sách Tin mừng, chúng ta có tìm thấy quan niệm về việc bắt chước Đức Ki tô không?
THƯA: Có,
trong cách sách tin mừng có lời khuyên nhủ hãy đi
theo Chúa Giê su làm môn đệ của Ngài. Tin mừng thánh
Mát thêu khẳng định rằng người môn đệ phải từ bỏ cuộc sống riêng để gắn bó với Chúa
Giê su. Trong Lu ca, việc bắt chước Đức Ki tô phải được thể hiện bằng việc từ giả gia đình (“Hãy để kẻ chết chon người chết”, Lc 9,59-62). Khẳng định chính
yếu của Chúa
Giê su về vấn đề nầy xuất hiện trong
Mt 16,24: “Nếu ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình,
vác thập giá mà theo Thầy”. Việc bắt chước Chúa
Giê su được trình bày một cách trừu tượng hơn trong các thư Thánh Phao lô
và trong sách Khải Huyền của thánh
Gioan.
23. HỎI. Còn những người ngoài ki tô giáo, không biết Đức Ki tô,
làm sao có thể thuộc vào số những người được Chúa Cha chúc phúc trong ngày quang lâm của Chúa Giê su?
THƯA: Họ có thể được vào số những người được chúc phúc bằng cách cố gắng sống theo
Luật Thiên Chúa, nghĩa là luật tình yêu, được ghi khắc trong trái tim mọi người. Đấng Tạo dựng mọi vật hữu hình
cũng như vô hình đã ghi
luật Cứu độ trong tâm hồn của tất cả mọi người, cả những người tự nhận là vô
thần, nghĩa là những người không tin có Thiên Chúa.
24. HỎI. Chúa Giê su nói về “những kẻ được Cha ta
chúc phúc...”, trong Cựu Ước có quan niệm về sự chúc
phúc không?
THƯA: Có,
những lời chúc
phúc thường được nói đến trong Cựu Ước: lời chúc
phúc cho Isaac (Stk 27), của Aaron
cho con cái Israel (Ds 6, 22-26), chúc phúc lương thực (1 Sm
9, 13), vv.. Trong CƯ và TƯ, lời chúc
lành là một công thức cầu nguyện, cầu khẩn trực tiếp với Thiên
Chúa, xin Ngài nhân từ đóai
nhìn đến dân Ngài đang lâm cảnh khó khăn.
25. HỎI. Trong Kinh Thánh, phúc lành có giá trị tùy theo sự thánh
thiện của người cầu phúc
cho người khác không?
THƯA: Có,
Kinh Thánh cho chúng ta thấy rằng phúc lành của người công chính và của cả những người được Thiên Chúa đã giao phó cho một một nhiệm vụ quan trọng (giáo chủ, linh mục, quan án, vua) có nhiều giá trị trước mặt Thiên
Chúa.
26. HỎI. Chúa Giê su có chúc lành không?
THƯA: Có,
các sách Tin mừng nói rằng Chúa Giê su chúc lành cho các trẻ em mà người ta đưa tới Ngài (x. Mt 19, 13-15), chúc lành cho bánh
(x. Mc 6, 41; 16, 22); chúc lành cho các tông đồ trước khi lên trời (x. Lc
24, 50-51); vv...
27. HỎI: Vậy chúng
ta phải làm gì trước lời mời gọi của Lời Chúa?
THƯA: Để thực hiện giáo huấn của Lời Chúa
hôm nay, mỗi người hãy làm 2 việc này:
Việc thứ nhất là khám phá và cảm nghiệm sự chăm sóc mà Thiên Chúa dành cho mình trong đời sống cá
nhân và gia đình, trong lãnh vực vật chất, tinh
thần và tâm linh.
Việc thứ hai là
kiểm điểm xem
mình đã cư
xử như thế nào với những người xung quanh, nhất là với những người cần đến sự giúp đỡ (về vật chất, tinh
thần, thời gian) của mình.