CHỦ NHẬT 34 TN. LỄ KI TÔ VUA
Chúa Giê su yêu thích tước hiệu Mục tử, Tôi tớ, Con Người, và đôi lúc, tước hiệu Thầy hoặc Messia hơn tước hiệu Vua. Thế mà để chế diễu vương quyền của Ngài thì đây là những thứ mà người ta dâng cho Ngài: Một triều thiên bằng gai nhọn, một chiếc áo choàng đỏ để nhạo báng Ngài, một bảng hiệu Nhà Vua đóng trên thập giá. Quả thật, như chính Ngài nói, Nước của Ngài không thuộc trần gian nầy.
Sách 2 Samuen 5,1-3:
Vương quyền của vua Đa vít cho phép ông thực hiện sự hiệp nhất tất cả các chi tộc Israel và khai mào thời đại lẫy lừng nhất trong lịch sử Dân Thiên Chúa. Đó là biểu tượng cho cuộc chiến thắng cuối cùng mà mọi người trông đợi theo Lời Hứa. Tuy nhiên cần phải có một cuộc biến chuyển thiêng liêng để từ cái nhìn còn rất phàm tục về cuộc chiến thắng ấy đi tới chiến thắng của Vương quyền Đức Ki tô.
Thánh vịnh 121:
Trên đường phố Giêrusalem, tín hữu Do thái hành hương hân hoan ca hát vì đã được đến gần Thành Thánh, thủ đô được Đa vít thiết lập, và chờ đợi ngày trở thành trung tâm thế giới. Đối với người Ki tô hữu, Giêrusalem đích thực chính là Hội Thánh.
Thư Côlôsê 1,12-20
Đối với Phao lô, sức mạnh chiến thắng của Tình yêu Thiên Chúa, được biểu hiện hoàn toàn trong Chúa Giê su là điều đã tiềm tàng sẵn trong Tạo Thành ngay từ nguồn gốc. Đức Ki tô, hình ảnh tuyệt hảo của Thiên Chúa vô hình đã hoạt động trong suốt dòng Lịch sử, trước khi tỏ hiện hoàn toàn nơi Chúa Giê su.
Tin mừng Lc 23, 35-43
NGỮ CẢNH
Đọan văn nầy nằm trong phần trình thuật cuộc Khổ nạn của Chúa Giê su (Lc 22-23). Phần cuối của chương 23 cho chúng thấy điểm đến con đường thập giá mà Chúa Giê su khởi sự từ cuộc xuất hành đi về Giê ru sa lem (9,31). Sau khi được ông Simon, người Ky rê nê vác đỡ thập giá (23,26), và an ủi những kẻ khóc thương Ngài (27-31), Chúa Giê su bị đóng đinh giữa hai tên gian phi (32). Bây giờ là thời điểm của quyền lực tối tăm: các thủ lãnh dân chúng và quân lính đứng dưới chân thập giá cười nhạo Chúa Giê su (35-38), nhưng đó chính là lúc Tình thương xót cứu độ lên ngôi: Chúa Giê su hứa ban Nước Trời cho người kẻ trộm sám hối.
TÌM HIỂU
Theo ý họ: Lc không muốn nói rằng chính người Do thái đã đóng đinh Chúa Giê su trên thập giá, nhưng nhấn mạnh rằng trong cái chết của Chúa Giê su trách nhiệm thuộc về dân chúng, các thủ lãnh của họ cũng như Phi la tô.
Theo sau: vác thập giá theo sau Chúa Giê su là một kiểu nói đặc biệt chỉ cách sống của người môn đệ theo Thầy mình: “Nếu ai muôn theo sau ta, hãy vác thập giá mình mỗi ngày và đi sau ta” (9,23; x. 14,27). Ông Si môn Ki rê nê trở thành mẫu mực cho người môn đệ.
Dân chúng: sau khi đã cho độc giả hiểu rằng chính đám đông dân chúng đã dự phần vào cuộc kết án Chúa Giê su (23,13), Lc giờ đây mô tả họ đi theo Chúa Giê su đến Can va ri ô. Đám đông đi sau Ngài như người môn đệ.
Nhiều phụ nữ: chỉ có Lc trong cảnh nầy cho thấy phản ứng duy nhất tỏ lòng thương xót đối với Chúa Giê su. Trong sách tin mừng, ông không kể lại việc xức dầu ở Bê ta nia (Ga 12,3-8). X. c 49. Lại một lần nữa, Lc nhấn mạnh đến sự hiện diện của các phụ nữ gần Chúa Giê su.
Quay lại: ngay cả trên đường thập giá, Chúa Giê su cũng giảng dạy. Lời cảnh giác của Ngài nhắm đến độc giả chỉ biết than khóc, nhưng không được hiệu quả nào cả: sự khóc than mà Chúa Giê su chờ đợi là hoa trái của lòng thống hối chân thật (3,8), cho phép thoát khỏi án phạt dành cho “cây khô héo”.
Sẽ tới những ngày: tất cả các đoạn diễn từ ngắn nầy thuộc về loại văn khải huyền, được dùng để đưa ra giáo huấn về ngày tận cùng (c.21).
Phúc thay: mối phúc bất ngờ nầy, đã được diễn đạt theo hình thức phủ định ở câu 21,23 đối chọi với mối phúc của người phụ nữ cho con bú (11,27). Sẽ đến những ngày khủng khiếp đến nỗi những người phụ nữ không con được gọi là có phúc; họ có thể chạy thoát khỏi cảnh tàn phá; họ không than khóc vì không có con cái bị thử thách hăm doạ.
Cây: người ta gom cành khô lại, bỏ vào lửa và đốt đi (x. Ga 15,6).
Hai tên gian phi: Ở câu 22,37, ông đã nhắc lại lời sấm của Isaia 53,12: “Người bị liệt vào hàng phạm pháp”. Rõ ràng có nhiều ám chỉ đến CƯ trong trình thuật Khổ nạn theo Lc.
Lạy Cha: cả hai lời cầu nguyện của Chúa Giê su trên thập giá (x.c.46) cho thấy Ngài trong tương quan với Thiên Chúa được trình bày như là Cha Ngài.
Xin tha cho họ: x. Is 53,12. Ở đây lặp lại và là đỉnh cao của chủ đề về tha thứ, như thường được nhấn mạnh trong Lc (đứa con hoang đàng, người phụ nữ tội lỗi, tha thứ cho thù địch..). Trên thập giá tình yêu lạ lùng của Thiên Chúa được mạc khải nơi Chúa Giê su cũng được nhấn mạnh. Tha thứ cho cả những kẻ Ngài đến để cứu thoát nhưng đã từ khước Ngài. Công thức không nói rõ, cho phép áp dụng cho tất cả mọi người từ khước Chúa Giê su (x. 1Pr 2,22-24).
Qua câu nói nầy, Chúa Giê su được giới thiệu như là gương mẫu cho người ki tô hữu (x. 6,36-37). Tê pha nô sẽ là người đầu tiên bắt chước Thầy mình (Cv 7,60).
Họ không biết: lời khẳng định nhằm mục đích không buộc tội những người đã đóng đinh Chúa Giê su: họ từ khước Người vì họ không biết Người. “Không một ai trong các thủ lãnh thế gian nầy đã được biết lẽ khôn ngoan ấy, vì nếu biết họ đã chẳng đóng đinh Đức Chúa hiển vinh vào thập giá” (1Cr 2,8). X. Cv 3,17.
Áo của Người: ám chỉ đến câu Tv 22,19. Có nhiều ám chỉ đến khác đến Tv nầy (như 22.8-9) cho thấy, cuộc khổ nạn của Chúa Giê su không phải là một tai ương bất ngờ mà là một điều đã được dự định trước trong thánh ý Thiên Chúa Cha.
Đứng: Lc muốn đối chọi thái độ đau buồn và lòng trung tín của dân với thái độ ngạo mạn và nhạo báng của các thủ lãnh và quân lính.
Cười nhạo: x. Tv 22,8-9.
Người được tuyển chọn: kiểu nói nầy lặp lại tước hiệu mà Chúa Giê su đã nhận lãnh trong cuộc Biến hình (9,35). Người ta thấy các tước hiệu vương đế xuất hiên nhiều trong các câu nầy (23,35.37.38.39.42). Lc còn cho các người chứng kiến lặp lại ba lần: “Hãy cứu lấy chính mình đi!”. Có lẽ đó là phần đầu của lời chào tập thể: “Hãy cứu lấy mình và cả chúng ta nữa”. Điều nầy sẽ được thực hiện trong sự Phục sinh.
Giấm: x. Tv 69,22.
Tên kia: chỉ có Lc lưu ý đến cách hành xử khác biệt của hai tên gian phi nầy. “Tên trộm lành”, tự nhận mình là kẻ có tội, làm chứng cho sự vô tội của Chúa Giê su. Nhưng điều quan trọng là nó đã cho thấy mình là một người tín hữu gương mẫu: trong giây phút khó khăn cùng cực của mình và của Chúa Giê su, anh ta đã xác định đức tin của mình vào tương lai của Chúa Giê su. Do đó, Lc trình bày ông ta như mẫu mực cho các ki tô hữu bắt chước.
Tôi bảo thật: Lc tác giả duy nhất dùng kiểu nói nầy đến sáu lần nhằm nhấn mạnh đến sự trang trọng của lời tuyên bố.
Hôm nay: từ đặc biệt của Lc. Ông sử dụng từ nầy cho các thiên sứ ở Bết lê hem (2,11), trong phép rửa của Chúa Giê su, theo một vài bản thảo (3,22), trong hội đường Nagiarét (4,21), trong việc chữa lành người tê bại (5,26), trên đường đi lên Giê ru sa lem (13,32-33), trong nhà ông Gia kêu (19,9). Ở đây, kiểu nói nầy tóm kết toàn bộ nội dung trong thời khắc mà Chúa Giê su trên thập giá hứa rằng “hôm nay” ơn cứu độ sẽ đến cho người nầy”.
SỨ ĐIỆP
Chủ nhật cuối cùng của năm Phụng vụ dành để mừng lễ Đức Ki tô Vua vũ trụ. Nhân dịp nầy, Tin mừng giới thiệu diện mạo gây ngạc nhiên của Chúa Giê su trên thập giá giữa hai tên trộm trong vòng vây các thù địch ra sức chế nhạo, còn các môn đệ bỏ Ngài chạy trốn. Tuy nhiên, chúng ta phải nhìn bên kia dáng vẻ bề ngòai: thánh Luca không trình bày cuộc Khổ nạn Chúa Giê su như một thất bại, nhưng như một chiến thắng của sự Sống. Như thế, Đức Ki tô là Vua bởi vì Ngài đã là người đầu tiên đi vào sự Sống với nhân tính của Ngài. Vương quyền của Ngài là vương quyền của một vị mục tử đi trước đàn chiên để dẫn đưa về ràn. Đó không phải là một uy quyền tìm cách chế ngự, mà là để cứu thoát. Quyền bính ấy không nhằm đàn áp, nhưng thu hút mọi người đến với Ngài và mở đường cho chúng ta Con đường sự Sống.
Mừng lễ Đức Ki tô Vua vũ trụ là một cách mừng lễ Phục sinh một lần nữa. Sau khi chết trên thánh giá, Chúa Giê su đã sống lại. Ngài đi vào Sự sống và mở lối cho mọi người cùng vào với Ngài. Người mà chúng ta gọi là “người trộm lành” đã là người đầu tiên được hưởng lời hứa nầy: “Ngày hôm nay, anh sẽ lên thiêng đàng với ta”. Và có nhiều người khác đã theo anh. Ngay cả những người tội nhân nổi tiếng nhất cũng có thể hướng về phía thập giá Đức Ki tô và nghe tin mừng ấy. Ngay giữa lòng đau khổ, đã lóe lên niềm hi vọng. Sự Sống đã có tiếng nói sau cùng. Trên thánh giá, Chúa Giê su khai mạc một đời sống mới. Hơi thở cuối cùng của Ngài là một hơi thở sáng tạo.
Trong thư Côlôsê, thánh Phao lô viết rằng Thiên Chúa “đã muốn hòa giải với tất cả mọi người qua Chúa Giê su và nhờ Ngài, trên trời và dưới đất”. Thập giá của Chúa là một giao lộ. Đó là giao lộ giữa Thiên Chúa giao ước và con người được giải thoát khỏi sự dữ và tội lỗi. Đó cũng là giao lộ của con người được hòa giải và biến đổi bởi tình yêu diệu kì đã mang lấy Đức Ki tô. Thánh giá Đức Ki tô là dấu chỉ sự hòa giải, và là lời mời gọi loại bỏ bạo lực ra khỏi cuộc đời và thế giới. Chúng ta hãy nhớ lại Đa vít, cậu bé chăn chiên ở Bết lê hem. Khi đã lên ngôi, ông đã qui tụ các Vương quốc phía Bắc và phía Nam. Hình ảnh ấy là lời loan báo công trình qui tụ của Đức Ki tô đã hòa giải mọi dân tộc trên trái đất nhờ máu Ngài. Đó cũng là lời mời gọi chúng ta, những môn đệ Chúa Giê su, nỗ lực trong việc hòa giải ấy mọi nơi cần thiết.
Ngày chủ nhật hôm nay, chúng ta dành thời giờ hướng về Đức Ki tô trên thánh giá. Ngài đã chịu nhiều bất công, chế nhạo và nguyền rủa. Nhưng Ngài không đáp trả. Trái lại Ngài vẫn tỏ lòng thương xót và tha thứ: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Thông thường, để đánh dấu ngày nhậm chức, các vua và tổng thống thường có thói quen xử dụng quyền ban ân xá của mình cho các tội phạm. Các tù nhân được miễn án. Đức Ki tô lên ngôi trên thập giá cũng tha thứ cho người trộm lành sám hối. Ngài đưa anh ta vào con đường phục sinh. Người tử tội ấy lợi dụng giây phút cuối cùng để tuyên xưng đức tin và nhờ vậy mà được cứu thoát. Anh nhận ra nơi Chúa Giê su đấng khai mạc một Vương quốc mời gọi tất cả những người tội lỗi. Người môn đệ vào những giây cuối cùng nầy là người tháp tùng bất ngờ với đấng đầu tiên sống lại từ cõi chết. Tin mừng ấy cũng là tin mừng cho mỗi người trong chúng ta. Đức Ki tô sống lại muốn nối kết tất cả vào trong chiến thắng của Ngài và đưa chúng ta vào Vương quốc của Ngài.
Khi hướng về thập giá Đức Ki tô, chúng ta sắp hàng dưới bóng cờ của vị vua đầy lòng thương xót và tha thứ ấy. Trước nhan Ngài, chúng ta nhận rằng mình là người có tội và xin Ngài thương xót: “Lạy Chúa, xin nhớ đến chúng con”. Xin hãy nhớ đến chúng con đã làm nhiều điều xấu xa cần được tha thứ và làm hòa khi chúng con bị thương tổn vì những lời nói hay bài viết của những người mà chúng con tưởng rằng bạn bè. Xin hãy nhớ đến chúng con đã muốn mắt đến mắt, răng đền răng đối với những ngừơi đã làm điều sai quấy đối với chúng con. Xin hãy nhớ đến thế giới chúng con, thường là nạn nhân của sự thù hằn và leo thang bạo lực và trả thù. Chính trong thế gian nầy mà Ngài đã sai chúng con đến. Xin hãy giúp chúng con trở thành những người kiến tạo hòa bình, công chính và huynh đệ.
Đó là Vương quốc Đức Ki tô mà chúng ta hướng về trong ngày chủ nhật hôm nay. Nó không thuộc về thế gian nầy, nhưng được du nhập vào trong thế gian qua các hành vi tha thứ và bình an của chúng ta trong cuộc sống. Vương quốc nầy được mở ra cho tất cả mọi người không trừ ai, đặc biệt những người nghèo và bé nhỏ nhất. Khi hướng về thập giá Đức Ki tô, chúng ta nhớ đến sự khốn khổ của hằng triệu người, phụ nữ và trẻ em hôm nay. Nhiều người đau khổ vì nghèo đói. Một số khác mất tất cả vì chiến tranh hay thiên tai. Và chúng ta cũng không quên tất cả những nỗi đau khổ thầm lặng có thể rất gần với chúng ta. Chính nơi những người ấy mà Đức Ki tô đang chờ đợi chúng ta. Họ có vị trí ưu tiên nơi trái tim Ngài. Hơn nữa, chính Ngài hiện thân nơi mỗi người trong họ.
Vương quyền ấy của Đức Ki tô mà chúng ta mừng hôm nay đặt nền tảng trên tình yêu của Thiên Chúa và tình yêu tha nhân. Ngài tin tưởng nơi mỗi người chúng ta để chúng ta cùng với Ngài đến gần những người đang đau khổ. Khi cử hành Thánh lễ, chúng ta dâng lên lời kinh tha thiết: “Lạy Chúa, xin hãy nhớ đến chúng con trong Nước của Chúa. Xin hãy nhớ đến những người đang sống không hi vọng, không tình yêu!” Và chúng ta xác tín rằng một ngày nọ, Ngài sẽ trả lời chúng con: “Hôm nay, con sẽ ở với Ta trên thiêng đàng”.
ĐÀO SÂU
1. HỎI: Thành Hê-bron ở đâu?
THƯA: Hê-bron là thành phố miền núi Giu đê, nằm trên độ cao 1000 mét, cách Giê-ru-sa-lem 40 ki lô mét về phía Nam. Hê-bron là thành phố quan trọng đối với ba tôn giáo lớn, vì đó là nơi A-bra-ham mua một ngôi mộ chôn cất bà Sa-ra, trong hang Mak-pe-la. Đó cũng là nơi an nghỉ của nhiều tổ phụ: A-bra-ham và Sa-ra, I-sa-ac và Rê-béc-ca, Gia-cóp và Lê-a, và sau cùng là Giu se được đưa từ Ai cập trở về.
2. HỎI: Bối cảnh bài đọc một như thế nào?
THƯA: Vào thời xa xưa, ở vùng Trung đông, nhà vua thường được gọi là đấng được Xức dầu, đấng Messia. Sở dĩ như thế vì các Vua được trao quyền bính trong một nghi thức xức dầu một cách long trọng. Sau khi vua Sa-un băng hà, không có người kế vị, nên toàn thể các chi tộc đồng ý tấn phong Đa- vít làm vua Ít-ra-ên.
3. HỎI: Tại sao Đa-vít đã là Vua mà các kì mục Ít ra ên lại còn đến tìm ông ở Hêbron để xin ông làm vua họ?
THƯA: Đúng là Đa vít đã được công nhận là Vua nhưng chỉ trên một phần dân thôi. Vì thế ngày hôm đó, ở Hê-bron ngài chính thức trở thành Vua của 12 chi tộc Ít ra ên.
4. HỎI: Tại sao lại có tình trạng như thế?
THƯA: Như chúng ta đã biết, con cái Ít ra ên đi vào đất hứa vào khoảng năm 1200 trước Công Nguyên, sau khi ông Mô sê qua đời. Trong khoảng hơn một thế kỉ sau đó, mười hai chi tộc sống độc lập với nhau, tuy vẫn giữ một mối dây liên kết là có một lịch sử chung, và nhất là đức tin vào một Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sự. Đứng đầu chi tộc là một Thủ lãnh vừa lãnh đạo, vừa làm tiên tri. Về sau dân muốn có một Vua như các dân tộc chung quanh. Sau nhiều do dự, Samuên xức dầu phong Sao lê làm vua. Khi Xa-un qua đời, tình hình thêm phức tạp. Đa vít được xức dầu làm vua, nhưng chỉ trên chi tộc Giu đa ở phía Nam. Còn ở phía Bắc thì lại do một người con của Xa-un làm vua trong một thời gian. Sau khi ông nầy bị ám sát, các chi tộc phía bắc mới quay về Vua Đa vít. Và bắt đầu câu chuyện của bài đọc một.
5. HỎI: Tại sao gọi Vua là Đấng chăn dắt Ít ra ên?
THƯA: Để được làm Vua, phải được xức dầu, dầu ấy là dấu chỉ Thiên Chúa đã chọn lựa và ban Thần khí ở với Ngài. Và chính Thiên Chúa xác định cho ngài nhiệm vụ làm người chăn dắt, người mục tử cho dân Người.
6. HỎI: Bài tin mừng hôm nay có chủ đề nào?
THƯA: Bài tin mừng có chủ đề Vua: vừa là đối tượng của những lời nhạo báng (cc. 35-39); vừa là đối tượng của niềm tin phó thác và được tưởng thưởng (cc.40-43).
7. HỎI: Việc dân chúng nhìn Chúa Giê su nhắc lại điều gì?
THƯA: Việc dân chúng đứng dưới chân thập giá nhìn Chúa Giê su hoàn thành điều mà Thánh vịnh 22 đã nói đến ở câu 8: “Tất cả những kẻ nhìn con đều nhạo báng con..”.
8. HỎI: Các lãnh đạo tôn giáo nhạo báng Chúa Giê su như thế nào?
THƯA: Các lãnh đạo tôn giáo nhạo báng bằng cách nại đến việc Chúa Giê su tự xưng là vua Thiên Sai. Nếu Ngài là Đấng được xức dầu của Thiên Chúa tuyển chọn, là Đấng Cứu thế, như Ngài nói thì hãy tự cứu mình đi.
9. HỎI: Lời nhạo báng ấy nhắc lại điều gì?
THƯA: Lời nhạo báng ấy nhắc lại các cơn cám dỗ mà Chúa Giê đã trải qua: khi bắt đầu sứ vụ (4,3). Ở Na gia rét, quê hương của Ngài (4,23), trong sa mạc (4,1-13).
10. HỎI: Quân dữ nhạo báng và khiêu khích Chúa Giê su những gì?
THƯA: Mỗi người tùy theo địa vị của mình mà khiêu khích Chúa Giê su về quyền năng cứu độ của Ngài: Các thủ lãnh do thái giáo thì thách thức: “Nếu mày là đấng Messia..”. Còn quân Rôma thì: “Nếu mầy là Vua dân Do thái”. Còn tên trộm bên trái thì gọi: “Nếu mày là Đấng cứu độ.”
11. HỎI: Chúa Giê su có trả lời không?
THƯA: Trên Thánh Giá Chúa Giê su không trả lời, Ngài hoàn toàn im lặng không đáp lại những lời khiêu khích của quân dữ. Vì Ngài biết rằng chỉ có Thiên Chúa mới cứu thoát, Ngài chờ đợi ơn cứu độ từ Thiên Chúa mà thôi. Ngài chờ đợi trong lòng tín thác vì biết rằng Thiên Chúa không bỏ rơi Ngài trong sự chết. Và nhờ đó, Ngài đã chiến thằng các cơn cám dỗ và trung thành với sứ mạng cho đến cùng và cũng không trốn tránh những hậu quả theo sau.
12. HỎI: Chúa Giê su đã đáp trả lời khiêu khích của người trộm dữ như thế nào?
THƯA: Người trộm dữ thách thức Chúa Giê su hãy tự cứu để sau đó cứu anh ta khỏi chết, Nhưng Ngài đã không chấp nhận lời thách thức ấy. Ngài đã không tìm cách né tránh cái chết nhưng biến nó thành lối đưa đến sự sống đời đời.
13. HỎI: Người trộm lành có thái độ như thế nào?
THƯA: Anh thống hối vì quá khứ tội lỗi của mình, và nói lên sự vô tội của Chúa Giê su. Đặc biệt hơn hết anh tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giê su là Đấng Messia và là Vua.
14. HỎI: “Ngày hôm nay” có nghĩa gì?
THƯA: Ơn cứu độ được thực hiện ngay tức khắc, chứ không ở tương lai, như sau khi Chúa Giê su sống lại hay vào ngày thế mạt.
15. HỎI: “Với tôi” diễn tả hạnh phúc như thế nào?
THƯA: Hạnh phúc hứa ban cho người trộm lành chính là cuộc sống thân mật với Chúa Ki tô mà anh đã chia sẻ số phận của Ngài trên thập giá.
16. HỎI: Thiên Đàng là nơi nào?
THƯA: Thiêng đàng là từ được dùng ba lần trong Kinh Thánh chỉ một khu vườn có trồng cây (Dtc 4,13; Nk 2,8; Qo 2,5). Trong bản 70 từ Thiên đàng (= paraeisos) có nghĩa là vườn địa đàng (St 2,8.9.10.15.16). Đó là vườn tuyệt diệu, hạnh phúc. Ở trên thiêng đàng là cuộc sống hạnh phúc tuyệt vời mà người Ki tô nào nhắm tới: “Ở với đức Ki tô là hạnh phúc; nơi nào có Ngài nơi đó có sự sống và có vương quốc”.
17. HỎI: Vương quyền của Đức Ki tô được diễn tả như thế nào?
THƯA: Bài tin mừng cho thấy Đức Ki tô thi hành vương quyền một cách rất thần linh, không phải bằng vũ khí khuất phục, nhưng bằng tình yêu chinh phục. Ngài không xuống khỏi thập giá để đè bẹp đối phương, nhưng bằng cách kéo mọi người lên với Ngài. Bằng cách bình tĩnh chấp nhận đau khổ, ngay trên thập giá, Ngài đã bắt đầu cuộc chinh phục mọi người. Bắt đầu là tên trộm lành (23,43), sau đó viên sĩ quan ngoại giáo (23,47), rồi đến đám đông (23,48), và sau cùng tất cả những ai tin vào Ngài.