CHỦ NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN
Công lí là một trong những đòi hỏi của con người. Nhưng thế nào là công lí? Thường thường nó bị hạn chế trong sự thỏa mãn những gì chúng ta chờ đợi. Nếu sáng suốt hơn, chúng ta sẽ nhận ra rằng chính chúng ta không ngừng gây bất công cho người khác bằng những thái độ hay phán đoán của chúng ta. Đôi khi, nhân danh chính công lí, chúng ta tạo nên nhiều phân hóa hơn. Ước gì chúng ta có thể hiểu lời mời gọi khẩn thiết của Chúa Giê su!
Tiên tri Amos 8,4-7
Vào thế kỉ thứ tám trước CN, Amos, một người nông dân được Chúa kêu gọi, đến Vương quốc Israel giàu có phía bắc. Sau một tiền đường rực rỡ, đằng sau những Lễ nghi tôn giáo, ông khám phá một thế giới bất công và bóc lột những người nghèo. Ông lớn tiếng bày tỏ sự ghê tởm và loan báo hình phạt.
Thánh Vịnh 112
Chúc tụng Thiên Chúa đến thiết lập công lí, và nâng kẻ yếu đứng dậy. Sớm muộn gì Người can thiệp. Chúng ta hãy mong rằng đừng quá trễ.
Thư 1Tm 2,1-8
Không bao giờ Phao lô trực tiếp chiến đấu chống lại các bất công xã hội và chính trị trong các thư. Ngài cũng thường kêu gọi đến tình huynh đệ đích thực phổ quát, khi cầu nguyện cho những nhà có trách nhiệm trên thế giới khám phá ra ơn gọi và hành động theo hướng ấy. Nhiều người nghĩ đó chỉ thuần là lí tưởng không hiệu quả. Nhưng sự công chính trên thế gian nầy sẽ không bao giờ hiện thực nếu con người không bắt đầu ngừng lên án nhau.
Tin mừng Lc 16,1-13
NGỮ CẢNH
Diễn từ của Chúa Giê su trong chương 16 xoay chung quanh chủ đề trung tâm về việc sử dụng tiền bạc. Trong phân đọan thứ nhất, cần phân biệt dụ ngôn về người quản lí khôn khéo (16,1-8) và ba đoạn gom các lời Chúa Giê su nói về tiền của gian trá (16,9.10-12.13).
Mỗi đoạn có một giá trị đặc biệt về giáo huấn; nhưng tất cả ba tư tưởng soi sáng dụ ngôn bằng những ánh sáng khác nhau. Ngòai ra c.9 có thể là một câu độc lập, hoặc như kết luận của dụ ngôn. Nếu thế, thì ý nghĩa dụ ngôn chuyển hướng một chút. Trừ c. 13 (x. Mt 6,24), phần còn lại chỉ có ở Lu ca.
TÌM HIỂU
Còn : chi tiết xác đinh nầy tạo nên một liên kết (x. 15.11) giữa dụ ngôn nầy và dụ ngôn đi trước. Cách đặt sát liền nhau nầy có thể là một chìa khóa giải thích.
Các môn đệ: trong câu 15,2 người Pha ri sêu và kí lục trách Chúa Giê su về những người đi theo Ngài. Quay sang các môn đệ, Chúa Giê su không còn trong tư thế bị cáo nữa. Tuy nhiên người Pha ri sêu vẫn còn đứng đàng sau hậu cảnh (16,14). Chúa Giê su dạy các môn đệ cách sử dụng tiền của cho đúng. Đây là một chủ đề Lu ca ưa thích (x. 6,34-35;12,13-34;14,12-14;16; 18,18-27).
Nhà phú hộ: đây là một đại gia quan trọng (so sánh với 12,16;16,19;18,23;19,2), vì có một người quản lí. Từ hi lạp mà Lu ca dùng chỉ một viên chức cấp cao. Các món nợ lớn trong câu truyện (10 thùng dầu, một trăm giạ lúa) giả thiết ông nầy kinh doanh rất lớn.
Phung phí: vì phải tập trung mọi chú ý vào thiệt hại, nên dụ ngôn không nói rằng ông ta đã giấu cũng không làm giả chứng từ, nhưng công việc quản lí của ông ta không suông sẻ và đạt hiệu quả nữa. Anh ta không quan tâm đến việc làm cho gia tài chủ giao phó (x. 19,11-27) sinh lời. Anh ta không phải là một tên ăn trộm mà là một người quản lí xấu xa.
Quản gia: ông chủ không có ý đinh thộp cổ một con nợ bất lương, nhưng chỉ cho nghỉ việc một người đã là người thân tín của ông.
Đón rước: việc tiếp nhận lẫn nhau có một giá trị lớn. Ngày từ đầu Chúa Giê su rao giảng một năm hồng ân (tiếp nhận: 4,19). Luca nói đến việc tiếp nhận Lời (8,13; Cv 2,41), Nước (18,17); và cả việc tiếp nhận người môn đệ nữa (9,5.48; 10,8.10), tiếp nhận Chúa Giê su (8,40;18,38;19,6) và việc Chúa Giê su tiếp nhận các tội nhân. Sự tiếp nhận là con đường đưa đến sự sống. Người quản gia biết rằng việc làm của mình sẽ không đủ. Còn như ăn mày thì không được tiếp đón (x. 16,20), nếu không thì không còn là một người ăn mày nữa. Thông thường tiền bạc chia rẽ và cô lập, nhưng người quản gia sẽ dùng nó để bắt người ta đón rước và mở cửa cho ông.
Có nhiều điểm tương đồng giữa dụ ngôn nầy và dụ ngôn người con trai hoang đàng: cả hai nói về những tương giao giữa người với người, người nầy tùy thuộc người kia. Điểm khởi đầu là sự phung phí tiền của và rời xa. Tất cả đưa đến ước muốn được tiếp nhận. Chính trong sự sử dụng tiền bạc mà cả hai thảm kịch cuộc sống con người diễn ra: độc lập, mất trật tự, thất bại, trở lại trật tự và tái hòa nhập.
Năm chục thôi: việc giả mạo hóa đơn nầy khiến cho người quản lí bị đánh giá là bất lương. Có lẽ đó là một sự đánh giá sai lầm. Ông nầy hoàn toàn khác với một người ăn lương của chủ. Theo tục lệ đương thời, của cải của ông chủ có thể được giao cho người quản gia để sinh lời. Làm cho nó sinh lời và bảo đảm cho mình nguồn lợi riêng là tùy thuộc vào cách sắp xếp của người quản gia như những người thu thuế vẫn làm. Do vậy, có thể số tiền mà con nợ buộc phải trả thuộc về phần của người quản gia. Ông ta đành mất bây giờ để bảo đảm cho tương lai mình khi ông được họ tiếp đón.
Ông chủ: là ai đây? Người phú hộ? hoặc Chúa Giê su, ở đây được gọi bằng tước hiệu vinh quang: Chúa (trong tiếng hi lạp Kyrios) ? Tất cả tùy thuộc vào cách đọc bản văn. Câu 8 có còn thuộc vào dụ ngôn không? Nếu còn, ông chủ là người chủ nhà, nhạy cảm trước cách xử sự của người quản gia hơn là sự trâng tráo của anh ta. Còn trong trường hợp ngược lại, dụ ngôn kết thúc ở c. 7, thì ở đây, tác giả ghi lại một suy tư của chính Chúa Giê su.
Nhưng còn câu hỏi thứ hai: Ai là người quản gia? Tất cả mọi người chúng ta hay là chính Chúa Giê su? Có tác giả đề nghị một cách đọc biểu tượng. Người quản gia ấy, bị cáo buộc, nhưng không có tội, lấy phần tiền thuộc về mình để biến thành một phương thế cứu độ trong một nhà khác, tha nợ nhân danh chủ của mình, biết cách làm cho các con nợ tiếp đón mình (như ông Da kêu chẳng hạn: 19,6) lại không có nhiều nét giống như đấng Cứu độ sao? Trong cách nhìn nầy, thì ông chủ là chính Thiên Chúa, ngợi khen người dùng chính gương mẫu về sự khôn ngoan của mình để dạy cách sử dụng sự giàu có của mình. Tuy nhiên vẫn còn sự kiện là nếu sự so sánh đúng từng điểm một, thì tổng thể không tạo thành một bức tranh hòan chỉnh. Thế nên việc Chúa Giê su muốn ban cho các môn đệ một giáo huấn về sự sử dụng tiền của dường như phù hợp với ý của tác giả tin mừng.
Bạn bè: của cải mà tiền bạc là biểu tượng phải được dành cho tất cả mọi người sử dụng. Do vậy cần phải dùng nó để phục vụ tình hiệp thông huynh đệ (Cv 1,42-45). Như thế nó sẽ tạo nên những dây liên kết tình bạn, quí giá hơn là tiền của. Sự giàu có sẽ biến mất khi chết đi, còn tình yêu mới vững bền mãi mãi.
Tiền của: câu nầy có nhiều khả năng là câu kết luận của dụ ngôn. Sự giàu có đặt chúng ta trong một viễn tượng sai lầm. Nó lường gạt chúng ta khi chúng ta coi nó như là một bảo đảm cho hiện tại và tương lai. Nó làm chủ ta và dụ chúng ta dùng một vài tài khéo để củng cố thế đứng của chúng ta, khiến cho chúng ta không còn chờ đợi gì từ Thiên Chúa nữa và đặt chúng ta ở thế đối kháng với người khác. Trở thành môn đệ có nghĩa là từ bỏ đi theo con đường không có lối thoát đó. Nó còn có nghĩa là bắt sự giàu sang phục vụ một điều cao cả và đích thực hơn.
Ở đây Lu ca dùng từ a ra mai ca mammona có nghĩa là tiền của ba lần (16, 9.11.13),. Bằng cách dùng từ khá hiếm trong Tân Ước (chỉ có trong Mt 6,24), Chúa Giê su gán cho tiền của một nhân cách xấu xa: Thần Tài Mammon được coi như Người-Chống lại-Thiên Chúa (x. c.13), do đó các môn đệ bắt buộc phải làm một cuộc chọn lựa căn bản. Việc sử dụng tiền của không bao giờ là trung dung cả.
Nơi ở: hình ảnh độc đáo chỉ trời của những người được tuyển chọn được sống thân mật với Thiên Chúa vì đã lắng nghe lời Thiên Chúa. Bắng cách bố thí và đoạn tuyệt với của cải trần gian, họ đã chuẩn bị cho mình một kho tàng ở trên trời (6,20;12,15.33). Kho tàng ấy là sự hiệp thông tình yêu không bao giờ hao mòn. Giáo Hội đã là sự hình thành của vương quốc tương lai, trong mức độ sống chia sẻ ở trần gian.
Trung tín: x. Mt 25,21; Lc 19,17. Hai lời đối chọi nhau trong câu nầy là những câu ngạn ngữ khôn ngoan và chuẩn bị áp dụng giáo huấn cho các môn đệ (16,11-12). Đối kháng “ít-nhiều” chỉ sự bất cân xứng giữa của cải trần gian nầy và của cải thuộc về Nước. Nó còn chỉ mối tương quan giữa hai thứ của cải: sự sử dụng của cải trần gian, bên ngoài con người và do đó có tính ngoại lai, đưa đến của cải đích thực, của cải của Nước Trời làm cho tâm hồn được no thỏa một cách hòan toàn. Kết luận: các môn đệ Chúa Giê su phải biết làm cho của cải vật chất của họ trở nên có ích lợi theo tin mừng và nhờ đó làm chứng cho lòng trung thành của họ đối với Thiên Chúa.
Làm tôi: theo nghĩa một sự thờ phượng và một sự thần phục dâng hiến (như Đức Maria: 1,38). Thiên Chúa không chấp nhận bụt thần. Tiền của có thể trở thành bụt thần. X. Mt 6,24.
SỨ ĐIỆP
“Một nhà phú hộ có một người quản lí phung phí hết gia sản của ông”. Khi đọc tin mừng nầy, chúng ta nghe quen quen, dường như gặp ở đâu đó trong các báo hằng ngày: đủ mọi lọai tham ô đầy dẫy trong xã hội ngày nay. Tất cả điều đó đã bị Tiên tri Amos tố cáo vào thời ông. Ông đưa ra những lời trách cứ nặng nề chống lại những người giàu “mua người nghèo bằng giá một đôi dép”. Nhưng điều làm cho chúng ta ngạc nhiên trong bài tin mừng đó là câu kết luận: chủ khen ngợi cách hành xử của người quản lí và đòi chúng ta phải khôn ngoan như ông để có bạn bè trong Nước Trời.
Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng vào thời đó, người quản lí không được trả lương trực tiếp, nhưng được nhận tiền lương nơi các con nợ bằng cách tăng thêm số nợ và số lời mà những người nầy phải trả. Nếu cách giải thích nầy là đúng, thì điều đó có nghĩa là người quản lí từ chối phần lợi lộc mà ông có quyền được hưởng. Và như thế, thì đây là cách xoay sở lương thiện, cho phép người ấy tìm được bạn bè có thể tiếp nhận mình khi không còn làm quản lí nữa.
Nhưng điều cốt yếu của sứ điệp tin mừng ở chỗ khác. Trước tiên bài tin mừng muốn giúp chúng ta suy nghĩ về cuộc sống riêng của mỗi người. Chúng ta không ở trong trạng thái hoàn toàn an ninh. Các biến cố có thể ập đến bất cứ lúc nào và tất cả đều bị xáo trộn: chỉ cần một tai nạn, chỉ cần một cơn bệnh, những khó khăn trong đời sống gia đình, những cuộc tranh chấp địa phương hay trên thế giới, và tất cả mọi sự thay đổi.
Chúng ta thường cậy dựa vào những điểm tựa lung lay và dễ đổ nhào, và phải rất nhanh chóng mới tìm được một mặt bằng để tránh. Như người quản lí trong bài tin mừng, khi phải đối đầu với tình huống khẩn cấp, chúng ta được mời gọi phải tỏ ra tỉnh táo và khôn ngoan, như “con cái sự sáng”. Tình bạn chính đáng mà chúng ta phải tìm kiếm đó là tình bạn với Thiên Chúa. Người là sự giàu sang tột đỉnh cho phép chúng ta được tiếp nhận “trong nhà muôn đời”.
Do đó, bài tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta dành vị trí ưu tiên trong tâm hồn cho Thiên Chúa. Tất cả những gì chúng ta là, tất cả những gì chúng ta có đều thuộc về Người. Tay trắng khi mở mắt chào đời, rồi khi ra đi, cũng hòan trắng tay. Điều phải luôn tự nhủ, là chúng ta chỉ là những người quản lí của cải mà chúng ta đang có và đang hưởng dùng. Trong khi sử dụng của cải vật chất, chúng ta phải hành xử như là những người quản lí của Thiên Chúa. Chính Người đã giao phó cho chúng ta, không phải để lạm dụng nhưng là dùng cho tất cả mọi người.
Vậy, chúng ta được mời gọi hãy thay đổi cách nhìn. Không phải vô cớ mà Chúa Giêsu nói với chúng ta về “tiền của bất chính”. Sự giàu có vật chất là cái mã bên ngoài lừa dối chúng ta. Nó không đảm bảo rằng con người là tốt, thông minh hoặc hạnh phúc. Thường nó chỉ là một bức bình phong lôi kéo những ham muốn của chúng ta. Thỉnh thoảng nó che giấu những bất hạnh về luân lí hay thiêng liêng. Điều làm nên giá trị cho cuộc đời chúng ta không phải là tiền bạc mà chúng ta đang có. Tiền bạc ấy là giả trá vì nó khiến người nghèo tin rằng cuộc đời của họ không có giá trị vì không có lợi lộc. Thay vì phục vụ, nó có thể bắt chúng ta làm nô lệ. Khi nó chiếm được một người, nó sẽ làm chủ và trở thành thượng đế. Nó sẽ gây ra những tổn thất khủng khiếp. Tâm hồn con người trở nên cứng cõi, lạnh lùng và vô cảm trước mọi sự. Tiền bạc có thể gây ra những bất lương to lớn và những bất công khủng khiếp.
Vậy bài tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta thay đổi cái nhìn và cách xử sự của chúng ta đối với tiền bạc giả trá. Thay đổi để giúp chúng ta biết sử dụng của cải để phục vụ người nghèo và phục vụ việc truyền giáo. Ở một vài nước, phải có mười tháng lương để có thể mua được cuốn Kinh thánh trong khi sách Thánh kinh đầy dẫy trong các thư viện thậm chí cũng không được mở ra.
Thánh Luca trình bày cho chúng ta thấy Chúa Giê su như là đấng Cứu độ của những người nghèo, những người bị bỏ rơi, những tù nhân. Nước Trời thuộc về họ, còn người giàu có chỉ được vào chính là nhờ sự bảo vệ và giới thiệu của người nghèo mà họ chọn làm bạn bè. Bấy giờ một câu hỏi được đặt ra cho chúng ta: Anh đã làm gì với của cải của anh ? Một câu hỏi khó trả lời nhưng cũng là một Tin Vui cho những người giàu bây giờ biết cách tự cứu và đi vào nơi ở muôn đời một khi tiền bạc của họ không còn nữa. Mai kia, khi chúng ta phải báo cáo về cuộc sống của chúng ta, chúng ta cần nhiều bạn hữu, những người đói khát, những người vô gia cư, những bệnh nhân, những người bị bỏ rơi. Trước mặt Thiên Chúa, chỉ có cách duy nhất sử dụng tiền bạc và của cải chúng ta bằng cách chia sẻ cho những người nghèo. Đừng quên rằng, ngoài Ngài ra, không có kho tàng nào khác
Trong Thánh lể, chúng ta sẽ tuyên xưng đức tin. Nếu chúng ta mốn thành thật với những gì chúng ta nói, thì chỉ cần gắn bó với Lời của chính Chúa GIê su, cả khi Lời ấy quấy rầy chúng ta.
ĐÀO SÂU
1. HỎI: Tiên tri A-mốt là ai?
THƯA: A-mốt sinh ra ở Tekoa, gần Bết-lê-hem, có lẽ khoảng đầu thế kỷ thứ 8 trước Công nguyên, vào lúc trước khi vương quốc Israel sụp đổ. Trong khi ông đang chăn dắt đàn chiên của mình, ông đã được Thiên Chúa kêu gọi để nói tiên tri trong vương quốc phía Bắc. Ông là tiên tri đầu tiên ghi lại lời sấm của mình.
2. HỎI: Ông đã phản ứng như thế nào khi được kêu gọi làm tiên tri?
THƯA: Trong tác phẩm, A-mốt cho biết rằng ông hoàn toàn không xứng đáng được Thiên Chúa lựa chọn bởi vì ông không phải là “tiên tri cũng không phải con trai của một nhà tiên tri”.
3. HỎI: Điểm nỗi bật nhất trong sứ vụ tiên tri của ông là gì?
THƯA: Ông phục vụ dưới triều đại Vua Giê-rô-bô am II (783-743 trước Công nguyên.), sử dụng đền thờ ly giáo ở Bê-thên làm cơ sở. A-mốt, một người có tâm tình tôn giáo sâu sắc, nhiệt thành phục vụ cho vinh quang Thiên Chúa, mạnh mẽ kết án đời sống phóng đãng của người thành thị, tố cáo bất công xã hội và và lối thờ phượng dối trá. Ông vạch trần tội ác của những người khai thác người nghèo và quở trách các thẩm phán để cho người ta mua chuộc.
4. HỎI: Sứ điệp tiên tri A mốt là gì?
THƯA: Sách A mốt là một bài thánh ca ngập tràn lời ca tụng Thiên Chúa toàn năng và trung thành với Giao ước. Bằng những hình ảnh bình dị nhưng phong phú và dụ ngôn sống động A-mốt chuyển đến toàn dân sứ điệp của Thiên Chúa. Nếu không thay đổi lối sống tội lỗi của mình, họ sẽ sớm bị Thiên Chúa trừng phạt: vương quốc sẽ sụp đổ và họ sẽ bị lưu đày. Đây là cơ hội cuối cùng Thiên Chúa giúp họ tránh kết cục đau đớn ấy. Nếu ăn năn sám hối như lời ông dạy, vẫn còn một tia sáng hy vọng. A mốt loan báo ơn cứu rỗi tương lai dành cho số sót thuộc chi tộc Giu se, và cùng với số sót của chi tộc Giu-đa, họ sẽ nhìn thấy ân sủng phục hồi trong thời thiên sai.
5. HỎI: Bài đọc một có nội dung ra sao?
THƯA: Bài đọc một (Am 8,4 -7) là một trích đoạn của Sách Tiên tri A-mốt cảnh cáo những người giầu có và quyền thế vì họ ỷ thế cậy quyền mà âm mưu đàn áp, hãm hại người nghèo trong xã hội. Ngôn sứ A-mốt kêu gọi họ thay đổi cách sống để khỏi bị Thiên Chúa trừng phạt.
6. HỎI: Như vậy, qua lời A mốt, Thiên Chúa đòi hỏi điều gì?
THƯA: Trước tiên Thiên Chúa đòi hỏi phải thực thi công bằng xã hội. Một xã hội xây dựng trên sự bất công và nghèo đói là sự xúc phạm nặng nề đối với Thiên Chúa. Thứ đến, Người cảnh giác mọi người rằng tiền bạc là bụt thần còn nguy hiểm hơn mọi bụt thần khác.
7. HỎI: Bài đọc một cho thấy Thiên Chúa là đấng nào?
THƯA: Qua lời sấm A-mốt trong bài đọc một (8,4-7), chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng luôn đứng về phía những người nghèo khổ, túng thiếu, bị thiệt thòi, bị đàn áp và bị gạt ra ngoài lề xã hội. Vì thế, Người luôn bênh vực, bảo vệ những người cùng khổ ấy chống lại cách đối xử tàn ác, bất công của những người cậy có quyền và có tiền mà hà hiếp bóc lột họ.
8. HỎI: Đâu là chủ đề thống nhất chương 16 tin mừng Lu ca?
THƯA: Đó là chủ đề liên quan đến việc sử dụng của cải cá nhân vì lợi ích của người khác, đặc biệt là những người nghèo.
9. HỎI: Chúa Giê su đã làm gì để cho thấy tiền của gian dối?
THƯA: Để cho thấy tiền của gian dối Chúa Giê su đã nêu bật một loạt các tương phản: giữa con cái trần gian và con cái ánh sáng, giữa việc rất nhỏ và việc lớn, giữa tiền của gian dối và tiền của đích thật, giữa của cải người khác và của cải của chúng ta. Ngài làm như thế nhằm mục đích giúp chúng ta khám phá rằng tiền của trần gian chỉ là một tên lừa đối và dùng cả một cuộc đời để kiếm tiền là đi lầm đường. Đó là một thứ thờ lạy bụt thần.
10. HỎI: Chúa Giê su khen ngợi anh quản lí về điều gì?
THƯA: Điều mà Chúa Giê su khen ngợi nơi người quản lí dĩ nhiên không phải là về hành vi bất lương, nhưng về tài khéo léo xoay sở của anh ta. Anh đã khéo léo vận dụng hoàn cảnh bất lời để bảo đảm cho mình tương lai ổn định. Chúa Giê su cũng muốn rằng lòng nhiệt thành phục vụ Nước Chúa cũng giúp chúng ta có nhiều sáng kiến như vậy!
11. HỎI: Cụ thể anh ta đã làm gì?
THƯA: Anh ta đã khôn khéo giảm bớt nợ cho những con nợ ông chủ hi vọng rằng khi anh sa cơ thất thế, họ sẽ nhớ ơn mà đón rước anh về nhà họ (c.4).
12. HỎI: Chúa Giê su mời gọi các môn đệ bắt chước điều gì?
THƯA: Chúa Giê su mời gọi các môn đệ cũng phải biết khôn khéo trong việc phục vụ Nước trời giống như những người quản lí trong các việc trần thế. Nghĩa là phải khôn khéo dùng tiền của bất lương ở đời nầy như thế nào để một ngày nào đó sẽ được đón tiếp vào Nước Trời.
13. HỎI: Tại sao không thể vừa phục vụ Thiên Chúa vừa phục vụ tiền của?
THƯA: Vì tiền của rất dễ biến thành bụt thần nghĩa là trở nên một mục đích chứ không còn là một phương tiện nữa, khiến chúng ta làm nô lệ phục vụ nó.
14. HỎI: Tiền của gian dối như thế nào?
THƯA: Tiền của gian dối theo hai nghĩa: trước tiên nó khiến chúng ta tin rằng nó bảo đảm hạnh phúc cho ta, nhưng rồi sẽ có ngày chúng ta phải lìa bỏ tất cả. Kế đến nó lừa dối chúng ta để tin rằng nó thuộc về chúng ta và chỉ thuộc về chúng ta mà thôi. Chúa Giê su không dạy chúng ta phải khinh bỉ tiền bạc, nhưng dạy đặt tiền bạc phụng sự Vương quốc và phục vụ người khác.
15. HỎI: “Xứng đáng được tin tưởng trong việc sử dụng tiền của gian dối” (c 11) có nghĩa gì?
THƯA: Trong câu: “Xứng đáng được tin tưởng trong việc sử dụng tiền của gian dối”, tin là một từ rất quan trọng. Vì tin tưởng chúng ta, nên Người trao phó tiền của cho chúng ta quản lí. Và một khi được trao phó tiền của, chúng ta có trách nhiệm chia sẻ để nó góp phần đem lại hạnh phúc cho những người chung quanh.
16. HỎI: “Hãy dùng tiền của bất lương mà thêm bạn hữu” có nghĩa gì?
THƯA: Tiền của luôn trở thành một điều xấu bất cứ khi nào người ta muốn đặt tất cả niềm tin ở đó. Người môn đệ phải biến đổi của cải trần gian thành tài sản trên trời, bắng cách chia sẻ với những người khác, đặc biệt là với những người nghèo khổ.
17. HỎI: Rốt cục, tin mừng dạy ta bài học là gì?
THƯA: Chúa Giê su muốn dạy chúng ta: Hãy dứt khoát chọn Thiên Chúa, và hãy phục vụ Vương quốc Ngài bằng tài khéo léo mà chúng ta thường dùng để thu tích tiền của. Con cái ánh sáng cần biết rằng Tiền bạc chỉ là việc rất nhỏ, còn Nước Trời mới là việc lớn. Vì thế, không được phục vụ cho Tiền của như một vị thần, nhưng phải bắt nó làm đầy tớ phục vụ đắc lực cho Nước Chúa.