Trang Chủ > Truyền Giáo > Tài Liệu Khác

GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2015

BẢN TIN 11

vietvanduongtruong.jpg

Thưa quý độc giả và quý tác giả,

Tháng vừa qua, cùng lúc chúng tôi phải lo những việc khá phức tạp với sự cẩn trọng cần thiết trong giai đoạn cuối của Giải Văn thơ Linh mục Đặng Đức Tuấn (dành cho các em ở độ tuổi học sinh giáo lý Giáo phận Qui Nhơn, sẽ trao giải vào tối 28-7-2015), bên cạnh đó là việc tổng kết điểm chấm sơ khảo, chọn ra danh sách những bài được vào chung khảo của Giải Viết Văn Đường Trường. Do đó bản tin lần này bị chậm trễ, xin quý độc giả và quý tác giả rộng lòng thông cảm.

Tới lúc này, 5 vị giám khảo từ ba giáo phận Sài Gòn, Xuân Lộc và Qui Nhơn đang miệt mài với việc đọc và lượng giá 60 bài được vào chung khảo để chọn ra những tác phẩm xứng đáng đạt giải. Chúng tôi hy vọng sẽ có kết quả trước cuối tháng này và có thể chuẩn bị các thủ tục xuất bản để kịp có tuyển tập của cuộc thi trước ngày trao giải.

Điều đáng mừng là sự lan tỏa cuộc thi đã rộng khắp hơn những năm trước. Thống kê cho thấy các tác giả dự thi lần này đến từ 19 trong số 26 Giáo phận. Ngoại trừ vài trường hợp không ghi rõ Giáo phận, con số đếm được như sau: Bắc Ninh (5), Ban Mê Thuột (5), Bùi Chu (2), Cần Thơ (2), Đà Lạt (2), Hà Nội (1), Hải Phòng (1) Huế (2), Hưng Hóa (2), Kontum (2), Long Xuyên (3), Nha Trang (15), Phan Thiết (2), Phát Diệm (2), Qui Nhơn (13), Sài Gòn (7), Thanh Hóa (2), Vinh (16) và Xuân Lộc (6).

Kết quả cuộc thi năm nay sẽ được công bố trong lễ trao giải được tổ chức tại Chủng viện Qui Nhơn tối Thứ Bảy 19-9-2015. Tất cả các tác giả có bài vào chung khảo đều được mời tham dự ngày họp mặt các tác giả văn thơ Công giáo lần thứ IV, từ chiều 18-9 đến tối 19-9-2015. Chúng tôi sẽ gửi thư mời riêng đến từng người.

Xin mời quý độc giả tiếp tục theo dõi những bài đã được chọn qua vòng sơ loại dưới đây, đánh giá và tham gia bình chọn qua hai câu hỏi: 1. Theo bạn, truyện nào xứng đáng đạt giải nhất? 2. Có bao nhiêu người cùng ý kiến như bạn? Ba độc giả đáp đúng nhất sẽ được tặng quà lưu niệm, đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.

Quý độc giả có thể gửi phiếu bình chọn ngay sau từng đợt bài được giới thiệu. Khi đọc các truyện ở các đợt tiếp theo, nếu thay đổi ý kiến, có thể gửi phiếu bình chọn mới. Chúng tôi sẽ tính theo phiếu gởi sau cùng của mỗi người.

Cũng mong quí độc giả nào phát hiện có truyện dự thi đã sao chép từ một truyện khác, xin gởi thông tin về cho Ban tổ chức qua email: gopnhattho@yahoo.com – Khi có đầy đủ bằng chứng xác thực, chúng tôi sẽ loại bài đó và cả những bài khác của cùng tác giả ra khỏi cuộc thi.

Xin chân thành cám ơn các trang truyền thông Công giáo đã và đang hỗ trợ truyền bá chương trình này, cám ơn quý tác giả đã gửi bài tham gia và cám ơn quý độc giả đang quan tâm theo dõi cuộc thi. Chúc tất cả luôn đầy ơn phước Chúatrong cuộc sống.

Qui Nhơn, ngày 04-07-2015

Thay lời Ban Tổ chức

Linh mục TRĂNG THẬP TỰ

BÀI DỰ THI

Mã số: 15-121

NHỮNG DẤU CHÂN NON

(6/1999)

“Viết để nhớ về thuở ấu thơ”

Buổi sáng, mặt trời chưa kịp vươn mình ra khỏi khóm tre thì lũ ve đã xướng lên “dàn đồng ca mùa hạ”. Hè về rồi. Một năm học đã qua có biết bao nhiêu điều muốn nói. Trẻ con trong xóm lại tụ tập với nhau để bày trò và tán gẫu. Mới một năm học thôi, thế mà đứa nào cũng muốn chứng tỏ “kiến thức của tao bây giờ thế này này…”. Gốc me bọn trẻ đang ngồi nay lại nhộn vui sau thời gian vắng bóng.

- Tao đã thuộc bảng cửu chương 9 rồi nha!

- Sặc! Vậy cũng khoe!

- Tao được học sinh khá nên má tao sẽ thưởng cặp mới. Hihi.

- Sướng dữ mậy! Tao chỉ cầu lên lớp để không bị ăn đòn!

- Hahaha…

Hiếu ngồi tựa gốc me, nghe các bạn kể chuyện lòng nó thấy vui vui.

Khu xóm của Hiếu nằm ở phía Đông đường quốc lộ 1A, nơi có đường tàu hỏa cắt ngang. Ở đấy, lũ trẻ lớn lên bằng tình thương của mẹ cha miệt mài bên ruộng vườn. Ở đấy, lũ trẻ quen lắm những trò đuổi bắt, thả diều, câu cá, đá banh, bắn bi, bắn ná, đánh cù, ném lon, ném đất… Tuổi thơ chúng gắn với những gì thật tha thiết, gần gũi với quê hương, xóm làng như con trâu, cái cày, cái cuốc hay lũy tre xanh cùng những đoàn tàu Bắc Nam vẫn ngang qua đều đặn. Nhưng ở đây, phần đông lũ trẻ không biết và không quen với nhà thờ cùng tiếng chuông âm vang sớm tối, càng không biết thánh lễ và những giờ giáo lý. Ở đây không có nhà thờ nhưng có một số ít giáo dân như gia đình H và một vài hộ khác. Các sinh hoạt tôn giáo của họ diễn ra tại dòng Phan Sinh ở xã cạnh bên.

Hiếu vừa học xong lớp 4. Trường học nằm cách làng một cây số. Để đến trường, lũ trẻ thường men theo đường ruộng, qua khỏi dốc đứng gần đường tàu rồi cứ thế mà đi. Tuy nhiên, việc đi lễ và học giáo lý của Hiếu thì nhọc hơn. Những năm đầu, ba mẹ cho Hiếu sinh hoạt tại nhà thờ quê Ngoại gần thị trấn, cách nhà mười ba cây số. Tại đây, nó đã được học giáo lý để lãnh nhận bí tích xưng tội và rước lễ lần đầu. (Sau này, vì hoàn cảnh xa xôi nên anh em Hiếu sinh hoạt tại dòng Phan Sinh). Nhà tuy xa nhưng ba mẹ luôn cố gắng đưa Hiếu đi nhà thờ đều đặn mỗi tuần. Dần dà, tự nhiên nó ý thức tầm quan trọng của thánh lễ và việc học giáo lý. Nó chăm chỉ học hành.

Cuối năm học vừa qua, Hiếu đã được rước Mình Thánh Chúa. Đó là niềm vui lớn của Hiếu và gia đình. Nó nhớ rất rõ niềm hạnh phúc lâng lâng khi được xếp vào đoàn rước cùng các bạn, có cha mẹ đi hai bên. Thánh lễ diễn ra sao trang nghiêm và linh thiêng quá. Cảm giác chờ đợi thật lâu, nhưng giây phút được rước Chúa vào lòng đã khỏa lấp niềm mong ước lâu nay. Nó thầm thỉ: “Lạy Chúa, con thật hạnh phúc vì có Chúa ở với con. Từ nay, con có Chúa là bạn đồng hành trên mọi nẻo đường. Xin cho miệng con không ngừng gọi tên Chúa!”. Hiếu vui thật sự. Chính vì niềm vui ấy, nó thấy mình có nhiệm vụ phải giới thiệu Chúa cho mọi người, nhất là bọn trẻ trong xóm.

- - - - - - - - - -

Bọn trẻ vẫn đang thao thao về đủ thứ chuyện của chúng. Cơ hội đã đến nhưng Hiếu chưa biết nên bắt đầu thế nào. Nó gãi đầu gãi tai. Nó nhớ lại lời cô dặn giờ giáo lý cuối năm:

- Các con đã được học và nghe giảng về Chúa, lại được rước Chúa vào lòng rồi, các con có nhiệm vụ đem Chúa đến với mọi người, nhất là bạn bè của chúng con. Hãy giúp các bạn nhận ra tình thương của Chúa qua những việc làm cụ thể nhất theo khả năng của mình. . . Các con nhớ chưa?

- Dạ nhớ ạ! (Cả lớp đồng thanh)

Hiếu đứng phắt dậy. Những lời ấy đang thúc bách nó. Nó nhủ thầm: “Lạy Chúa Giêsu, con nên làm gì?”. Và rồi nó chợt nãy ra sáng kiến. Nó chạy thẳng về nhà. Lúc trở ra, nó mang theo một bị táo, mấy trái ổi và chén muối ớt.

- Tụi mày ơi, ăn táo này- Hiếu hớn hở.

Bọn trẻ hồ hởi:

- Ngon quá! Cho tao một trái!

- Tao nữa.

- Hấp dẫn quá! Táo nhà mày hả Hiếu?

Hiếu “ờ” một tiếng rõ to. Rồi chớp thời cơ, nó đưa tay lên làm dấu thánh giá trước mặt các bạn. Một đứa trong nhóm hỏi liền:

- Ê, mày làm gì đó Hiếu?

- À, tao làm dấu thánh giá. Bên đạo tao trước khi ăn gì cũng làm dấu vậy đó!

- Hê, ngộ dữ mày!

Đứa khác tỏ vẻ quan tâm, miệng vừa nhai vừa nói:

- Vậy mày kể cho tụi tao nghe đạo của mày với nào!

- Ừ. Sẵn sàng! Đạo của tao là đạo Công giáo, tin vào Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là người Do Thái…

Hiếu vui lắm! Nó bất ngờ vì kế hoạch suôn sẻ quá. Nó say sưa kể những gì đã học được ở nhà thờ hay được nghe từ bà, mẹ và dì nó. Nó cảm thấy hài lòng với sáng kiến của mình. Nó tin Chúa Giêsu đang âu yếm nhìn nó, nghe nó nói và hỗ trợ nó sau lưng. Nó tự tin hơn và như thấy một dòng suối nhỏ đang chảy trong lòng nó mát rượi. Cứ thế, dòng suối tuôn chảy, nhè nhẹ cuốn theo những lời nó nói.

Có con chim sâu bay đến đậu trên cây me nơi bọn trẻ đang ngồi. Tiếng hót lích chích như hòa điệu cùng lời kể của Hiếu. Hiếu ngạc nhiên vì sự chú ý từ các bạn. Thật ra, mọi người đều biết gia đình Hiếu có đạo. Chỉ có điều nơi miền quê này, trẻ con quan tâm gì nhiều đến chuyện đạo hạnh của ai. Chúng chỉ thích những gì thuộc thế giới trẻ thơ của chúng. Đó là những lần tụ họp chơi đùa, chia nhau trái cây, rong ruổi trên cánh đồng bắt châu chấu, đi mót củi. . . Hiếu thích lắm. Nó nhớ vào những mùa rộ lên trò bắn ná hay ống thụt, cả bọn thường lén lút mẹ cha, bỏ ngủ trưa đi nhặt sỏi, hái cò ke về làm đạn dược. Và những lúc ấy, hẳn có đôi lần nó đã bình luận “đạo của tao” cùng chúng bạn, nhưng chỉ với hình thức chuyện tầm phào. Rõ ràng khi đó, Hiếu thấy các trò chơi hấp dẫn hơn đạo Chúa nhiều. Nó thấy trong các bạn có những cao thủ đáng bậc thầy của nó. Nhận thầy rồi, nó năng nghe cao kiến của thầy. Và dĩ nhiên, thầy của nó luôn là số một.

Nhưng đó là lúc trước. Bây giờ, Hiếu đã nghĩ khác. Sau những bài giáo lý và lần xưng tội rước lễ lần đầu, thầy của nó giờ là Chúa Giêsu. Nó say mê một ý tưởng độc đáo là từ nay, dù đi đâu, làm gì nó cũng có một người Thầy luôn yêu thương, chân thành và thấu hiểu nó. Người Thầy ấy sẽ chẳng bao giờ bỏ rơi nó. Thế nên, nhiều lần nó hỏi lòng “tại sao không chia sẻ niềm vui này cho các bạn?”

Hiếu còn đang nói thì có đứa thắc mắc:

- Chứ ông cha đi tu có cạo đầu không Hiếu?

- Không, vẫn để tóc bình thường hà!

- Ủa, theo đạo vẫn được ăn thịt chó hả mậy?

- Chứ sao! Hihi.

Hiếu cố gắng trả lời các câu hỏi, nhưng vốn kiến thức còn ít nên nó cũng gặp khó khăn.

- Thế Chúa Giêsu có bất tử như Đức Phật không?

- À, vì yêu thương tao, tụi mày và hết mọi người nên Chúa đã chịu chết trên thánh giá, nhưng ba ngày sau Ngài đã sống lại và không chết nữa.

- Xạo mày! Chết rồi sao sống lại được? Dóc tổ!

- Đúng rồi. Với lại Chúa Giêsu của mày ở bên Do Thái cách đây 2000 năm, làm sao biết tụi tao mà thương với yêu? Nổ mậy!

- Tao nói thật mà!

Thấy những điều Hiếu nói không thuyết phục lắm, thằng Lớn bắt đầu chán. Nó lên tiếng:

- Thôi, để khi khác tụi tao nghe nữa nha Hiếu. Táo của mày ngon lắm! Bây giờ tụi mình chơi ném lon đi!

- Ờ, hay đó! Chơi đi!

Ý kiến đó được cả bọn tán thành. Hiếu ấp úng:

- Nhưng mà…tao nói thiệt đó!

- Thôi đi! Mày có chơi thì lại đây mau!

Biết không thể nói gì thêm, Hiếu vội vàng:

- Uh, chờ tao với!

Cả bọn xúm xít oản tù tì. Kết quả thằng Cùng bị phạt đầu tiên. Bọn trẻ vui vẻ cầm trên tay chiếc dép của mình. Đứng sau đường kẻ, Hiếu thấy thằng Cùng mặt buồn xo đang đứng gần vòng tròn. Thằng Lớn hỏi:

- Cùng, bắt đầu được chưa?

- Rồi! – Cùng đáp.

Trò chơi bắt đầu. Thằng Lớn đứng trước, giơ tay ném chiếc dép đầu tiên bay vèo. Chiếc dép đập vào lon sữa bò làm nó văng đi. Thấy thằng Cùng chạy theo cái lon, thằng Lớn mau chóng lượm dép rồi co chân chạy về mức. Cú ném quá chuẩn nhưng chẳng đứa nào ngạc nhiên vì thằng Lớn là cao thủ bắn chim và ném… xoài mà! Cả bọn theo nhau ném tới tấp, chỉ có thằng Hiếu là đứng nhìn. Nó thấy Cùng cứ lui hui chạy lượm lon, mồ hôi vã ra và miệng thở hồng hộc. Nó thấy tội thằng Cùng.

Thấy Hiếu cứ đứng nhìn mà không chịu ném, hai đứa trong bọn nói lớn:

- Hiếu, mày không ném lẹ đi! Đứng đó làm gì?

- Ờ, mày choán chỗ quá!

Nghe vậy, Hiếu khịt mũi mấy cái rồi cũng giơ dép ném vèo. Cú ném đại khái của nó bay chệt cái lon. Rồi nó cũng chẳng chịu lượm dép. Thằng Lớn la to:

- Hiếu, lượm dép đi mày!

“Tu tu tu. . . ”- Tiếng còi tàu vang lên. Một đoàn tàu Bắc Nam chạy ngang qua. Hiếu vẫn đứng im, mắt nhìn về phía ấy. Cả bọn nhìn mặt nó, chẳng hiểu chuyện gì. Thằng Lớn lại lên tiếng:

- Mày bị gì vậy Hiếu? Mày có chơi nữa không?

- Khoan đã! Tao…

- Gì nữa? Mày lại muốn giảng đạo à?

- Không! – Hiếu cười – Lần này tao không giảng nữa. Tao muốn…

- Muốn gì? Lẹ lên!

- Tao muốn bị giùm thằng Cùng! - Vừa nói Hiếu vừa tiến lại chỗ Cùng đang đứng.

- !!!

Đoàn tàu đã chạy qua và chẳng có gì khác thường. Ấy vậy mà hết thằng Hiếu giờ lại đến bọn trẻ ngơ ngơ ngác ngác nhìn về phía ấy như người mất hồn. Câu nói của Hiếu làm cả bọn khựng lại mấy giây.

- Bị giùm? Mày bị giùm thằng Cùng?

- Ờ, đúng vậy! - Giọng Hiếu chắc nịch.

- Haha. Mày khùng hả?

- Thôi kệ đi! Bữa nay nó ấm đầu!

Thằng Lớn nãy giờ quan sát, mặt nó đỏ lên trước thái độ của Hiếu. Nó bĩu môi:

- Mày điên rồi! Tao hồi giờ chưa thấy ai như mày! Mày muốn làm thánh à?

Thằng Hiếu im lặng. Nó vẫn vui vì lựa chọn của mình. Bị bọn bạn rủa “điên khùng” liên hồi, nó đã thấy sóng gió nổi lên nhưng có gì đó thôi thúc nó cứ can đảm. Nó nhìn thằng Cùng, nở nụ cười rồi cúi xuống nhặt cái lon, đặt trong vòng tròn rồi đứng thẳng dậy.

- Tao sẵn sàng rồi đó.

Bọn trẻ thấy Hiếu cười thì không thể kiên nhẫn hơn. Chúng thấy ngứa tay với thằng Hiếu “điên” quá sức! Thái độ ngạc nhiên của chúng giờ đã chuyển sang sự khó chịu. “Phải cho thằng Hiếu một bài học”- Chúng nóng lòng.

Thằng Lớn chẳng nói gì thêm. Vẻ mặt lạnh của nó là câu trả lời. Nó không hài lòng về thái độ của Hiếu. Nó cảm nhận rõ ràng thằng Hiếu tự dưng tách riêng ra và đang đối đầu với chúng nó, những người bạn lâu nay. “Vì cái gì?”- nó tự hỏi. Lập tức, nó nhận ra chỉ vì chuyện đạo hạnh nãy giờ. Môi nó nhếch lên. Nó cười mỉa Hiếu. Nó đâu hiểu được những gì đã xãy ra với Hiếu lâu nay: những câu chuyện về Chúa, những lần đi nhà thờ, những bài giảng giáo lý…, nhất là cảm giác được rước Chúa vào lòng mới đây. Những điều đó đã âm thầm thay đổi Hiếu. Thằng Lớn đã không biết điều đó.

Theo lệnh thằng Lớn, bọn trẻ dạt ra hai bên. Nhìn chiếc dép tổ ong trên tay nó, đứa thì cười, đứa khác nhỏ to:

- Coi dép nó “bự” chưa kìa!

- Khặc khặc, chân nó to như quỷ sứ!

Mắt đăm đăm nhìn kỹ cái lon, thằng Lớn vung tay không hề chia trí.

Bốp! Kinh kinh kinh…

- Trúng rồi!

Bọn trẻ reo lên. Cú ném quá mạnh làm cái lon văng xa. Hiếu luống cuống chạy theo, vừa chạy vừa khom lưng xuống, với tay ra nhặt thật nhanh cái lon rồi đặt vào trong vòng tròn. Hàng loạt cú ném liên tiếp theo nhau. Những chiếc dép bay như một cơ đội, xà xà sát mặt đất. Cái lon bị mục kích một cách đáng thương, móp méo và chẳng nằm yên một chỗ quá ba giây. Mục tiêu của dép là cái lon, nhưng mục đích của bọn trẻ là làm cho Hiếu tỉnh lại.

Hiếu hiểu điều đó nhưng nó không hối hận. Nó đã thấy thằng Cùng bị phạt và đó là tất cả. Vì con tim có những lý lẽ mà lý trí không hiểu hết được.

Hiếu nhớ lại lần đầu tiên trong đời câu được con cá. Tất cả nhờ công thằng Cùng. Nó đã quan sát thật kỹ và ra hiệu cho Hiếu giật cần thật nhanh.

- Rô phi, rô phi đó Hiếu!

- Haha, thành công rồi! To quá nè Cùng!

- Ừ, bằng bàn tay táo đó chứ!

Phải, Hiếu đã làm được. Nó vui và biết ơn Cùng lắm. Nhưng đang lúc hò reo nhảy múa, nó thấy mặt thằng Cùng rất tươi, rất sáng dưới ánh nắng chiều. Lạ nhỉ! Và nó đã nhìn thật lâu. Từ đó, hình ảnh con cá đầu tiên bao giờ cũng gợi lại một gương mặt sáng. Và chính lúc này, gương mặt ấy lại hiện ra, hỗn mang cùng “cơ đội dép”, cái lon và những dấu chân in đầy trên đất.

Hiếu đã thấm mệt. Mồ hôi nó đầm đìa. Những lời châm chọc vẫn chưa ngưng. Những chiếc dép vẫn bay vô tình. Hiếu thấy mình đang bị bỏ rơi. Nó buồn. Tự dưng nó thấy nơi khóe mắt cay cay. Nó sợ bị phát hiện nên cứ cúi mặt xuống đất. Chẳng ai biết nó đã nghĩ “Chúa ơi xin giúp con!” bao nhiêu lần. Tội nghiệp! Bỗng:

- Á…

Một chiếc dép bay trúng mặt thằng Hiếu. Môi nó bị dập và đang rỉ máu. Bọn trẻ ngừng tay, mặt ngơ ngác. Thằng Lớn hỏi:

- Dép của đứa nào?

- Của thằng Rin đó.

- Ê, đâu phải tại tao! Tại thằng Hiếu nó không chịu né chớ bộ! – Rin bào chữa.

- Ờ đúng! Tao cũng thấy thằng Hiếu không chịu nhìn ngó gì hết.

- Ai bảo mày quăng mạnh quá chi! Nó khóc rồi kìa.

Cả bọn ồn ào. Tiếng Thằng Lớn:

- Tụi mày ồn quá! Thôi nghỉ đi!

Thằng Lớn vừa quay đi vừa liếc nhìn Hiếu. Vẻ mặt nó thật khó hiểu. Bọn trẻ cũng lục đục kéo theo.

Hiếu quỵ hai gối trên nền đất, một tay sờ môi bị rỉ máu, tay còn lại đưa lên quệt hai hàng nước mắt. Thật ra, môi nó bị dập cũng đau thật nhưng nó thấy chiếc dép bay tới thật đúng lúc. Nó đã lo lắng và sợ rằng sẽ khóc. Nó đã cố nén để không khóc ở đây và lúc này vì như thế thì xấu hổ lắm. Nhưng khi chiếc dép đập vào mặt, tuy bất ngờ nhưng như thế cũng đủ hợp lý cho nước mắt chảy ra. Nó không kềm nữa, không giấu nữa. Mặt nó ướt mem. Nó thổn thức với Chúa vì nhận ra một điều:

- Chúa ơi, bây giờ con biết làm chứng cho Chúa không dễ lắm đâu!

Nắng đã lên cao và bạn bè đã đi đâu hết. Hiếu chống tay chực ngồi dậy thì thấy một bàn tay chìa ra. Bàn tay này là… Chợt nó thấy một tia ấm áp xuyên qua lồng ngực. Nó ngẩng đầu lên, tươi tỉnh hẳn. Đằng sau lớp sáng còn nhòe nước mắt, nó nhận ra đúng gương mặt ấy. Nắm lấy bàn tay, Hiếu đứng dậy. Nó bảo:

- Bằng con cá đầu tiên!

Hai đứa trẻ cùng đi vào làng, bỏ lại sân chơi đầy dấu chân chằng chịt. Chân chúng đi in hình mới trên đất – hình những dấu chân non.

Mã số: 15-122

CHÚT YÊU THƯƠNG CHO ĐI

Trưa nắng nóng, mấy cành trứng cá ủ rủ, khô khốc vì cái nắng của ông trời. Âý thế mà giờ này tôi phải đội nắng ra đường! Ghét ghê! Chả là thầy giáo bộ môn Công Nghệ bảo tụi tôi phải đi tìm sâu hại lúa hoặc hại cây trồng để đem lên trường học. Đến mạ người ta còn chưa cấy nữa mà… Hầy (thở dài )!

“Đành phải hy sinh thôi”- Tôi thầm nghĩ. Rồi tôi vào nhà, tìm mọi thứ có thể để trùm lên người lúc này. Nhìn tôi giống hệt một con Ninja thôi, chỉ chừa mỗi con mắt. Rõ chán mà! Tôi đi loanh quanh hết ruộng này đến ruộng khác “vạch lá tìm sâu”… và kết quả … không có gì cả … Mặt nóng hừng hực tôi bước về nhà …

Ngồi ở nhà, dưới gốc xoài, hưởng vài cơn gió cho mát người, tôi bất chợt nhìn sang nhà ông hàng xóm. Ô hô hô đây chứ đâu mà tìm, giàn mướp nhà ổng bị sâu ăn quá trời kìa! Chẳng lẽ không còn sót lại một con nào trên đó. Nói là làm liền, tôi phi thẳng xuống nhà ông hàng xóm mà quên đi cái bực tức vừa dâng tràn. Hên thật! Vẫn còn một con sống sót. Tôi hớn hở cho con sâu vào một cái hộp tôi đã chuẩn bị sẵn, và không quên cắt cho nó mấy cái lá mướp xanh tươi mơn mởn. Tôi toan quay đầu đi, thì nghe thấy tiếng gọi :

- Đứa nào đó bây?

 …Tôi im lặng.

- Đứa nào đó hê?

À, đây là bà Phi! Bà là mẹ ruột của ông hàng xóm nhà tôi đấy! Bà già rồi, lại còn hay bị bệnh nữa. Bà hay đãng trí, đi tùm lum, lượm bậy bạ về nhà. Tôi mới ở đây có vài tháng thôi, mà đã thấy bức xúc. Vì bà hay bị con cháu trong nhà mắng chửi lắm. Nhưng bà có muốn như vậy đâu, chỉ là do con bệnh thôi mà. Mà từ hồi cha sinh mẹ đẻ tới giờ, tôi chưa thấy cái nhà nào như cái nhà ông này, buổi sáng sớm đấy, trong lành, tinh khôi thế đấy, ông ta mở nhạc nào là: Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình …. hay là mẹ yêu ơi, mẹ yêu …. bla bla bla, vậy mà chiều về, ông ta lại la mắng bà. Có một hôm, ông Diệp, hàng xóm nhà tôi có khách, bà không nhận ra nên hỏi là ai, thế là bị cô con dâu mắng cho một trận. Thiệt đau lòng mà. Đáng nhẽ bà ở với cô Hiền sẽ tốt hơn. Tôi thấy cô lo cho mẹ lắm! Nhưng cô cũng còn gia đình, còn con nhỏ nữa, trong khi con cái ông Diệp đã lớn và có chồng con hết rồi.

“Thôi, không quan tâm nữa”.- Tôi gác mấy cái suy nghĩ đó sang một bên. Bỏ qua luôn câu hỏi của bà, tôi chạy ào về nhà, vừa tránh nắng và khỏi mất thời gian ….

* * *

Thả cặp cái rầm xuống bàn, tôi lăn trên giường hậm hực. Bỗng ai gõ cửa sổ phòng tôi :

- Bị sao mà dậm đùng đùng đó?

À, là Quang, người tôi thầm để ý từ lâu. Nó không những học giỏi mà còn cao ráo, đẹp trai, lại còn biết chơi bóng rổ nữa chứ! Đúng là lí tưởng mà. Chắc tôi “say nắng” đến chết thôi… Ngay lập tức nghe tiếng Quang thì tôi vội vàng mở cửa sổ, vẻ mặt buồn rười rượi :

- Hầy …

- Sao ?

- Tức chứ sao ?

- Sao đồng chí tức ?- Quang chọc cười tôi (Đúng là đáng yêu mà).

- (Phì cười )… Nghĩ sao không tức! Bắt tui trưa nắng đi tìm sâu, mệt muốn chết. Vậy mà đem nộp thì thầy kêu tiết này bận, tiết sau nộp, giờ tui phải nuôi con sâu đến thứ Hai, 3 ngày lận.

- Thôi mà, học thì chịu, sùng sùng gì?

- Ớ, mới đó còn…

- Hehe… Đùa thôi chứ hái cho nó vài cái lá, đục cho cái lỗ để nó có oxi thở nha… Lỗ nhỏ chớ không nó bò mất á.

- Biết rồi.

- Tui đi tập bóng đây.

- Ừm! Bai…

Tôi vẫy tay và nhìn Quang đi mất hút (cảm giác vui vẻ được phần nào rồi)…

Thay đồ lẹ lẹ rồi tôi phi thẳng xuống nhà ông Diệp. Đi đâu hết trơn à, chỉ còn bà Phi thôi. Tôi cắt mấy cái lá còn xanh mơn mởm đem về cho con sâu. Công việc xong xuôi, tôi lại nghe có tiếng gọi :

- Đứa nào đó bây?

Lại là bà Phi đó! Tôi định không trả lời nhưng tôi khựng lại khi nhìn bà. Bà đang ăn cơm. Rơi vãi lung tung, bà già rồi mà đem cho bà ăn cơm với nước cá kho. Khô thế bà ăn sao nổi, không có miếng cá, thịt gì cho bà luôn, canh cũng không có.

- Đứa nào đó bây, Hiền hả con?

- Dạ, con Hiền đây má- Tôi vờ làm cô Hiền.

- Sao lâu quá không thấy thăm má con?

- Dạ… con…

- Thôi ngồi xuống đây má hỏi xíu.

- Dạ!

Tôi cũng ngồi xuống, nhưng nhìn thấy bà tôi lại không ngồi được. Tôi lấy khăn lau miệng cho bà và nói:

- Má chờ con xíu nha!- Nói rồi tôi chạy về nhà, bưng bát canh bồ ngót xuống cho bà.

- Má ăn đi.

- Ừ!

Bà ăn đàng hoàng hơn, dễ nuốt hơn. Bà ăn xong tôi dìu bà vào cái chõng tre xiên xẹo, cho bà ngủ rồi tôi mới về nhà. Hên thật, tôi về tới nhà rồi thì ông Diệp mới về.

***

Hôm nay tôi lại đi cắt lá cho sâu nữa. May là vợ chồng ổng đi hết rồi. Tôi thanh thản đến ngắt một cái lá mướp cho con sâu. Và rồi bà Phi lại gọi tôi nữa:

- Ai đó bây, Hiền nữa hả con ?

Và tôi tiếp tục đóng vai cô Hiền ngồi lại nói chuyện với bà. Bà nói cho tôi nhiều chuyện lắm. Tôi thấy cần thiết nghe bà nói. Bà nói tối bà ngủ lạnh lắm! Cái chòi bé xíu, có biết bao nhiêu lỗ hổng trên đó… Tối bà ngủ run cầm cập. Đợi bà nói hết và ngủ, thì tôi mới đứng lên, rồi tôi thấy bứt rứt trong người. Tôi thấy thương bà, không muốn bà lạnh. Nhìn cái chòi nhỏ xíu chất biết bao nhiêu là bao trấu, bao gạo, vỉ phơi bánh tráng…Tôi nghĩ, và đích thân tôi đi khiêng từng cái vỉ phơi bánh ra, lấp đầy chỗ trống của cái chòi. Vì cũng nhiều nên khá kín, tôi làm như vậy để mong bà tối ngủ sẽ được ấm hơn.

***

Càng ngày tôi càng thương bà. Hôm nay, mặc dù không đi hái lá cho sâu nhưng tôi vẫn xuống thăm bà. Tôi định đem cho bà mấy trái quýt căng mọng nước. Hôm nay cũng như mọi khi, tôi xuống thăm bà. Nhưng cảm giác như thế nào ấy, hình như tôi bị theo dõi. Đi vài bước… quay lại… không có ai, vài bước nữa, quay lại cũng không có ai… Cảm giác sờ sợ, tôi nhăn mặt, ngước đầu lên… Rồi lấy hết dũng khí, nhắm mắt lại, quay đầu lại và chạy về nhà. Bất ngờ ùm một phát…

- A!- Tôi hét lên, nhắm tịt mắt.

- Cái thứ gì dẻ trời (Ai nghe giọng quen quen dữ ta?).

- Ô!- Tôi mở mắt ra và thấy Quang- Ông làm cái gì dẻ?

- Định hù bà cái mà ai ngờ …

- Chơi ngu … - Tôi tức giận

- Xin lỗi nhá, mà bà đi đâu đó?

- À... thì…

- Bà đi hái trộm mận phải hông?

- Xấc, ông nghĩ mặt mũi tui vầy đi hái trộm là sao?

- Chứ bà đi đâu?

- Đi… đi…

- Đi đâu?

- Trời ơi, tui đi thăm bà Phi.

- Thì nói đi thăm bà Phi. Sao mà ấp a ấp úng chi… Mờ ám…

- Kệ tui.

- Mà bà thăm bả chi? Quen biết hay họ hàng?

- Không phải, tại mấy bữa đi cắt lá mướp á, bả thấy tui, mà cứ tưởng là cô Hiền miết, nên tui giả làm cô Hiền luôn!

- Trời vậy cũng giấu, điên mà.

- Đi chết đi!

- Hehe… đùa thôi mà, mà bà cho tui đi chung với.

- Xí!

Tôi với Quang vào thăm bà. Bà cũng đang ăn cơm, miệng mồm lại từa lưa. Như thường lệ, tôi lau miệng cho bà. Bà ăn cơm xong, tôi lột cho bà mấy trái quýt. Bà cũng hỏi tôi vài câu linh tinh, lặp đi lặp lại nhiều lần. Tôi trả lời và dìu bà lên giường, đợi bà ngủ.

Bà ngủ rồi, tôi với Quang lặng lẽ đi ra.

- Thương người ta quá bây! - Quang nhìn tôi và cười.

- Tại tui thấy bức xúc… Cầu Chúa cho bà luôn mạnh khỏe!

- Ừ! Tôi cũng sẽ cầu nguyện chung với bà.

- Cảm ơn!

- Rồi ít bữa bà đi ai lo cho bả?

- Tui không biết. Ông nè!

- Tui hả, tui có biết gì đâu.

- Ai cần biết? Lâu lâu xuống thăm, nói chuyện với bả là được rồi, nghe bả nói, giúp đỡ bả.

- Ơ, tui không quen bả.

- Thì coi như ông là thằng Thiên cháu bả đi. Bả không còn nhớ ai là ai đâu.

- Ờ… thì…

- Đi, đi năn nỉ á…

- Ok, chiều bà nốt lần này đó.

- Hê hê, cảm ơn Quang đẹp trai.

- Không có gì.

- Mà hứa đi, tui mới tin, ông gian lắm!

- Hứa, móc ngoéo nà.

- Tốt, việc làm của ngươi sẽ là chìa khóa rộng mở để ngươi đến Thiên Đàng… haha- Tôi giả giọng …

- Xì… Đi chơi bóng rổ với tui không? Bóng rơ, bóng rổ …

- Đi… đi…

- Mà bà là đồ chân ngắn, sao ném bóng cho tới… hahaha.

- Ai… xì, cái ông này.

- Đùa thôi, thích thì đi…

- Phải vậy chứ!

Rồi hai đứa mất hút.

** *

- Chiều nay đi phải không?- Quang hỏi khi còn đang ném bóng.

- Không,chiều mai- Tôi buồn rười rượi, tay ôm bóng (Tôi sắp chuyển nhà rồi).

- Ờ- Quang vẫn cứ tâng bóng rồi ném, tâng rồi ném.

- Sao à?

- Đâu có sao đâu!

- Ông nhớ là phải xuống thăm bà Phi đấy.

- Biết rồi, khổ lắm, nói mãi …

- Bữa nay ông sao vậy? Ông có chuyện gì à?

- Sao đâu? Bình thường mờ…

- Không giống mấy bữa, bữa nay ông im lặng quá à…

- Nói mỏi miệng, không nói!

- Ừ…

- Mà nhà mới của bà ở đâu?

- Xóm mình đi xuống, có cái ngã ba ngay trường tiểu học á. Vô khoảng 30m là tới

- Ờ…

- Ừ…

Tự nhiên cả hai đứa tôi im lặng đến lạ. Quang có chuyện gì muốn nói màbuồn lắm. Tôi cũng không hỏi gì nữa, nhìn Quang chơi bóng.

- Ok, hôm nay là lần cuối cùng tôi chơi bóng rổ với ông, đấu trận cuối đi.

- Toàn thua mà đấu chi.

- Kệ tui, tui thua chớ ông thua ne!

- Thích thì chiều! –Quang cầm trái bóng, ném vào đầu tôi.

- Ai- da… đau…

- Xin lỗi –Vẫn tiết kiệm lời.

Trận đấu bắt đầu. Tôi cố cười để quên đi cái u buồn, nhưng Quang vẫn im lặng. Trận này, Quang nhường tôi nhiều lắm. Quang nhường đến nỗi đây là lần đầu tiên tôi thắng Quang.

Trời bắt đầu tối, tôi sắp xếp ra về. Trên đường về, Quang cũng chẳng nói một lời.

- Bữa nay ông sao ấy…

- Sao đâu hê?

- Nói láo quá đi, tui sắp đi, nhớ tui quá phải hông?

- Bà nghĩ tui có nhớ bà không, haha, ảo tưởng à!

- Xấc… Hông thôi, Quang thất tình, tình, tình, tình, tình…

- Thất tình nề- Quang cốc đầu tôi.

- Ai da, đau!

- Đáng!

- Không thèm chơi nữa, tui về trước.

- Từ từ- Quang kéo tôi lại –Nè …Quang đưa cho tôi một cái hộp nhỏ.

- Cái gì đây?

- Về mở ra rồi biết.

- Đưa điện thoại ông đây …

- Chi dả?

- Đưa đi…

- Nè!

Tôi cầm điện thoại Quang, tự lưu tên và số trong đó.

- Tui sẽ gọi ông để hỏi về bà Phi thường xuyên đó.

- Gặp ở trường được rồi.

- Ông học lớp xa quá.

- Ờ…

- Thôi tui về trước, bai bai…

- Ừ, bai!

Tôi chạy về nhà vào phòng và mở quà của Quang. Woa, đẹp thật đấy! Một cái dây da và một bức thư. A, hình như hắn cũng có một cái dây y như vầy. Thôi kệ, tôi mở bức thư ra. Trong đó là những dòng chữ quen thuộc của Quang:

Chào Minh!

Cái vòng da đẹp hông? Ngày mai mà không thấy bà đeo là chết với tui đó. À… mà tôi định cảm ơn bà vì bà mà tôi nhận ra được một vài điều khá là ý nghĩa. Thật ra là thấy bà đi học giáo lí hoài tui cũng bắt đầu đi theo chứ trước giờ tui toàn đi nhà thờ không à, thời gian đi học giáo lí thì tui đi tập bóng. Từ ngày bà về, tui có vẻ kết bà hẳn. Tui cũng bắt đầu đi học giáo lí, biết thêm được nhiều điều, hi vọng bắt đầu lại từ bây giờ cũng không còn muộn nhỉ. Cảm ơn bà lắm lắm luôn á, nhờ bà mà tui nhận ra mình nên sống trong thương yêu á. (Như Chúa dạy đấy). Bà thật sự là một người tốt, tui hứa sẽ đi thăm bà Phi giúp cho bà. Nhưng bà cũng phải thường xuyên về thăm bả đó. Ngày mai bà đi rồi, đi vui vẻ nhá. Nhớ tui nha, đồ ngốc!

Gấp lá thư lại, tôi có có cảm giác vui mừng lạ! Chẳng biết vì sao mà hắn lại tặng tôi cái vòng đó, giống hắn y chang. Hay là ….

Đấy! Bạn thấy không, Chúa chẳng bỏ quên ai cả. Ta cho đi chút ít yêu thương thì ta lại được nhận về cả biển yêu thương.

Mã số: 15-124

NGÃ RẼ CUỘC ĐỜI

Ông – một con người lãng quên Chúa đã hàng chục năm, thỉnh thoảng tham dự thánh lễ ngày Chúa Nhật như một hình thức.

Ông – một Pha-ri-sêu luôn tỏ ra am hiểu và nói về Kinh Thánh nhưng trống rỗng trước danh xưng Thiên Chúa.

Ông – một Ki-tô hữu thực sự, có đạo nhưng chẳng sống đạo. Ông tách gia đình mình khỏi cộng đoàn giáo xứ, tìm mọi cách trốn tránh nghĩa vụ và chối bỏ mối dây liên kết với cộng đoàn dân Chúa trong xứ đạo…

Nhắc đến tên ông, người ta nghĩ ngay một con người như thế, một lối sống như thế. Người ta bĩu môi, người ta chê trách, người ta hững hờ.

Một ngày nọ, ông bị trượt chân té ngã ở bậc thềm. Tuổi già mà. Ông nhập viện. Bác sĩ bảo ông bị tai biến nhưng may kịp thời nên cứu được. Ông qua khỏi giai đoạn mà nhiều người nghĩ chắc Chúa đến tìm ông. Nhưng bác sĩ không thể chữa được đôi chân vốn lành lặn nay trở thành khập khiễng. Gần hai tuần, ông xuất viện. Dân làng khuyên ông tìm đến với cộng đoàn An-tôn của cha xứ để các thầy giúp cho. Dường như đó là phương án cuối cùng nên cậu út chuyên cần lắm. Hai lần một ngày, cậu chở ông tới các thầy để châm cứu. Mấy tuần sau, ông đi lại bình thường. Người ta ngỡ ngàng, hân hoan khi ông được khỏe mạnh như trước. Nhưng chắc hẳn ngỡ ngàng và hân hoan hơn khi chứng kiến một sự “lột xác” mà cả trong tưởng tượng, người ta cũng chẳng dám nghĩ đến.

- Này bà kia, bà đi đâu thế?

Người phụ nữ mặc áo trắng, mái tóc đen dài buông xõa, hai tay dắt hai đứa trẻ chừng lên bảy, lên mười. Họ vẫn đi, không thèm ngoái đầu lại, mặc cho tiếng ông hét khản đặc. Họ hướng về ngôi thánh đường ở cạnh dòng sông. Đúng rồi, trước năm 1986, gia đình họ ở ngoài ấy mà. Bà hỏi thăm gia đình ông Quang. Người ta chỉ cho bà quay lại ngoài con đê, đi vào trong xóm rậm rạp cây cối ở kia vì theo chính sách của Đảng, ông đã chuyển vào đó để khai phá đất mới. Xa xăm lắm, mơ hồ lắm, nhưng cũng đủ để ông nhận ra họ là ai. Người vợ quá cố và hai đứa con trai của ông!

Ông mệt đừ, mồ hôi ướt sũng. Ông sợ hãi. Ông muốn chạy trốn. Đã bao đêm nay, người phụ nữ và hai đứa trẻ cứ tìm đến với ông trong giấc mơ. Ông phải đặt con dao đầu giường đề phòng bất trắc. Ông không muốn đi cùng họ. Mỗi lần tỉnh dậy, ông hoang mang, tê dại trong miền kí ức.

Ngày ấy, chẳng hiểu sao cô gái trẻ đẹp, ngoan hiền ấy lại chọn một gã thanh niên tàng tàng như ông. Ngoại hình chẳng có, tiền bạc không, lại hay nhậu nhẹt. Có chăng là thương anh chàng mỗi tối đánh xe bò kéo, nửa đêm đi bốc gỗ. Hay cô muốn “cảm hóa” con người ấy? Dân làng chỉ biết dùng “duyên, phận” để giải thích cho cuộc hôn nhân của đôi đũa lệch.

Họ sống hạnh phúc được một thời gian và có hai đứa con trai. Nhưng cái thói vũ phu đã ngấm trong máu ông chắc không thể mất được. Mỗi lần uống rượu say, ông lại hành hạ vợ con một trận, để sáng hôm sau, ê chề chẳng nhớ nổi cái thằng đàn ông khốn nạn, đê hèn nơi mình. Cuộc sống nào ai đoán nổi chữ “ngờ”. Vợ ông mất trong một lần sang sông đúng ngày đứa út lên bảy. Người đàn ông vốn nguội lạnh nay lại thêm cảnh gà trống nuôi con. Vợ đi, ông cáu kỉnh, gắt gỏng và chìm trong ma men. Phải hơn nửa tháng sau, ông mới vực đi làm lại.

Ông cưa gỗ cho một xưởng cách nhà hơn chục cây số. Sáng đi, tối về, chiếc xe đạp lộc cộc gõ nhịp trên quãng dường dài. Ông bỏ mặc hai đứa con ở nhà tự sống qua ngày. Mỗi ngày được một bữa, thức ăn lại chẳng có. Bữa sướng nhất có cơm với muối, không thì mấy hạt gạo sống nhai tạm cho đỡ đói. Có hôm nhà không còn hạt gạo nào, hai thằng bé phải xin nhờ hàng xóm. Cái thời đó, có nhà nào đủ ăn để bố thì thường xuyên cho hai đứa! Thằng Tuấn đã gầy gò từ nhỏ, nay lại phải sống như vậy nữa. Mấy tháng sau, nó chết. Dân làng hiểu rõ vì sao Chúa gọi nó về sớm vậy. Họ thầm trách một người cha nhẫn tâm chẳng đoái hoài tới máu thịt của mình. Còn thằng Minh, ngày trước được mẹ chăm kĩ hơn nên còn sức gắng gượng. Nhưng sau khi anh nó mất, nó còn phải sống tệ, sống nhục hơn nữa.

- Mày là thằng vô tích sự, chết đi cho khuất mắt tao!

Ông đay, ông nghiến, ông dí đầu nó xuống sát đất. Ông tìm hạnh phúc mới cho mình. Một người đàn bà đã một đời chồng và hai đứa con. Bà chẳng điêu ngoa nhưng cũng chưa đủ hiền dịu để biết cảm thông và che chở cho thằng Minh. Từ đây là những tháng ngày nhục nhã của nó, không phải do mụ dì ghẻ mà bởi chính người cha ruột. Ông bảo nó siêng ăn nhác làm, là cái của nợ tốn cơm tốn áo mà chẳng được cái gì ra hồn. Rồi như một điệp khúc thường ngày, ông chửi, ông đánh. Ông làm cho nó một cái “giường” nhỏ ghép từ những ống nứa gãy, đặt một góc trong xó bếp. Ông nói rằng nó là con chó, không phải con trai ông, mà chó không được ngủ nhà trên, phải canh cửa dưới bếp. Có nhiều bữa bị bỏ đói, nó chạy xung quanh xóm xin ăn. Người ta thương cho nó nắm cơm, bắp ngô lót dạ. Nhưng người mà nó gọi bằng cha lại đi chửi xóm làng thậm tệ, bảo không cần kẻ nào bố thí cho nó… Lúc đầu người ta còn lén lút cho nó, sau làm ơn mà còn bị mắc oán, họ khuyên nó nên đi chỗ khác xa hơn để xin. Tối ấy, nó đói lả, cồn cào, không tài nào nhắm mắt. Nó nhớ đến vạt rau khoai sau bếp. Thế là có bao nhiêu rau, nó hái vào luộc ăn ngấu nghiến. Sáng dậy, cha nó biết chuyện. Ông đánh đập, chửi bới. Ấm ức quá, nó cãi lại:

- Ông không cho tôi ăn cơm, cũng chẳng cho người ta bố thí thì tôi hái rau trong nhà ăn mà sống chứ sao!

Câu nói như lời phản kháng mà bao nhiêu năm qua nó vẫn nhẫn nhục chịu đựng. Lối xưng hô ấy có lẽ đã đoạn tuyệt tình máu mủ. Hôm đó, có người trong xã bán hàng bún nhận nó về làm công và cho ở lại trong nhà. Được ăn đầy đủ, nó có da, có thịt, đẹp trai. Thấm thoắt tuổi đôi mươi, họ lo nốt cho nó khoản cưới vợ, xây nhà theo diện nó là một trẻ mồ côi.

Ông thẫn thờ, gục đầu, run lẩy bẩy. Ông sợ vợ con tới đòi nợ hay sợ hãi phần con người tàn nhẫn nơi ông? Sống trong những mặc cảm tội lỗi, ông day dứt, hối hận, giằng xé tâm hồn.

Mùa Phục Sinh năm ấy, người ta sững sờ chứng kiến sự “lột xác” của một con người. Sáng sớm, dù nắng hay mưa, lạnh buốt hay mát mẻ, một ông cụ ngoài bảy mươi vẫn chuyên cần cùng chiếc xe đạp cộc, gắn thêm cái đèn pin trước giỏ hướng về ngôi thánh đường. Dân làng bảo ông được ơn riêng chữa lành lặn đôi chân, được Thánh Thần thúc đẩy nên hoán cải đời sống. Nào ai hiểu cuộc chiến dữ dội trong tâm hồn ấy. Hơn một năm quay về với Chúa, thằng út của ông vốn nát be nát bét nay cưới được cô vợ hiền, nhanh nhẹn. Từ ngày có vợ, nó tu chí làm ăn, bỏ rượu, da dẻ hồng hào đẹp trai hẳn. Trong gia đình ấy, ngày ngày rộn rã tiếng cười nói, đêm đêm âm vang tiếng kinh cầu. Ông nghẹn ngào đọc chẳng hết đoạn lời Chúa trong sách I-sai-a, đôi mắt đẫm lệ:

“Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết;

Có thẫm tựa vải điều, cũng hóa trắng như bông…”

           

Mã số: 15-125

TU LÀ CỘI PHÚC

Sau bữa cơm chiều, trời đã nhá nhem tối, ông Tư ra trước nhà, bắc chiếc ghế dựa ở giữa sân rồi ngồi lên đó. Tay ông lúc nào cũng cầm cái quạt mo phe phẩy. Lâu lâu, ông đập phành phạch cái quạt vào chân để đuổi muỗi. Mùa này trời oi bức, trong nhà lại ngột ngạt, ngoài sân tuy có muỗi nhưng lại thoáng. Sau một hớp trà, ông tằng hắng gọi :

-Thanh ! Thanh à !

Thằng Thanh chạy ra :

- Thưa ba…

Ông Tư nói tiếp:

- Sao! Vấn đề hôm trước ba nói với con đó, con nghĩ thế nào?

Thanh lúng túng:

- Ba để con suy nghĩ kỹ đã…

Ông Tư gằn giọng:

- Suy nghĩ gì nữa, một là đi- hai là không, dễ quá. Mà dù gì đi nữa theo ba, con nên đi. Đó là một vinh dự. Con không thấy trong họ đạo mình có cả chục đứa trai lẫn gái đã đến Cha sở ghi tên rồi sao. Đây chỉ là dự tu, nếu có ơn gọi- đi luôn, còn không- thì về, mất mát gì.

Thanh lí nhí:

- Nhưng mà con đã đăng ký thi đại học rồi.

Ông Tư hạ giọng:

- Đại học mà ăn nhằm gì con. Đi tu còn hơn thế nữa. Con sẽ học nào là triết học rồi thần học và biết đâu con còn có dịp đi du học nữa. Học trình ở Đại chủng viện tương đương với cử nhân hay cao học ở bên ngoài đó con. Hay là con muốn đi tu dòng như thằng Mẫn ? Hồi xưa ba cũng từng đi tu đấy nhưng rồi Chúa không chọn. Chúa gọi thì nhiều mà chọn thì ít, chứ không phải ai đi tu cũng trở thành ông cha, bà phước cả đâu…

Nói thế chứ trong thâm tâm, ông Tư rất thèm có một đứa con đi tu làm linh mục, để đi đâu mọi người gặp ông đều chắp tay chào ông cố oai ra phết. Ông vẫn tự nhận thấy mình còn lôi thôi về nhiều mặt lắm, cần phải sửa chữa. Trong lễ Chúa Chiên lành, thánh lễ cầu cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ vừa qua, Cha sở có nói trong bài giảng rằng bản thân người đi tu đạo đức một, cha mẹ phải đạo đức mười. Đạo đức tới mười không biết mình có với tới nổi không, ông Tư thầm nghĩ.

Như để chuộc lỗi nãy giờ bắt thằng Thanh phải đứng hầu, ông giả lả:

- À, con chạy vô lấy cái ghế đẩu ra đây, cha con mình còn nói chuyện hơi lâu đó.

Thằng Thanh mang chiếc ghế ra đặt bên cạnh, ông Tư tranh thủ tiếp:

- Nhà của bác Cẩm có hai đứa con gái sinh đôi mà cả hai đều đi tu dòng cả, còn bác Thắng chỉ có độc mỗi thằng con trai mà nó cũng đòi đi tu triều đợt này đó.

Thằng Thanh vẫn làm thinh, trong lòng nó ngổn ngang những suy tư trăn trở. Nó không ngờ đến bây giờ nó phải đối diện với một sự thử thách khủng khiếp như vậy. Vừa rồi nó có đem vấn đề này ra bàn với Thùy Linh, Thùy Linh không nói gì nhưng đôi mắt của cô ấyđã hoe hoe đỏ. Thanh lúc nào cũng quả quyết chỉ xem Thùy Linh là một cô bạn học thân thiết. Thế nhưng đi đâu, làm gì, vắng Thùy Linh, thì nỗi buồn không tên lại dâng trào trong tâm hồn Thanh như hắn vừa đánh mất đi một món quà đầy tiếc nuối.

Ông Tư lại đập muỗi, tiếng quạt phành phạch khiến Thanh giật mình :

- Ngày mai con sẽ lên Cha sở.

Ông Tư mừng rỡ :

- Con suy nghĩ kỹ rồi hả? Rán nghe con, ba tin tưởng ở con đó.

oOo

Suốt một đêm trằn trọc không ngủ, Thanh ngồi lên viết một bức thư dài cho Thùy Linh. Sau khi đọc đi đọc lại nhiều lần, chàng cẩn thận bỏ lá thư vào phong bì và ngăn vào giữa quyển lưu bút.

Một tuần sau, khi đang chuẩn bị hành lý để lên đường vào Đại chủng viện thì Khắc Long em của Thùy Linh đến. Nó đưa cho Thanh chiếc hộp rồi lặng lẽ ra về.

Trong chiếc hộp lại là quyển lưu bút, lần này có cả xấp hình chụp những buổi sinh hoạt Thiếu nhi Thánh thể có mặt cả hai đứa và bức thư màu xanh lấm lem những dòng mực tím của Thùy Linh. Thanh mang tất cả ra góc vườn xé từng tờ một và đốt thành tro bụi. Những mảng tro bị gió bốc lên cao bay đi tứ phía như những tình cảm, niềm say mê và cao vọng của người thanh niên mới lớn như Thanh vẫn ngùn ngụt dâng trào dù nó đang dịch chuyển, ít ra là trong lúc này.

Thấm thoát mà đã ba năm, Thanh được mặc áo dòng. Chiếc áo chùng thâm làm Thanh trông đạo mạo hẳn lên. Chàng khẩn nài bề trên cho mình được đi giúp xứ trong đợt này tại một họ đạo nào xa xôi nhất, khó khăn nhất để tôi luyện bản thân và Thanh đã được toại nguyện. Giáo xứ Kinh Cùng vắng linh mục nhiều năm, đường đi cách trở, giáo dân ly tán, cư dân nghèo nàn. Những gian khổ đang chờ đón thầy Thanh ở phía trước.

Đường từ huyện lỵ về Kinh Cùng chỉ non năm mươi cây số thế mà chiếc đò máy phải ì ạch đi mất ba tiếng đồng hồ, vượt qua những khúc sông hẹp đầy dẫy lục bình. Người chủ đò đôi khi còn phải dùng cây sào dài cắm xuống lòng sông để đẩy tiếp với máy, giúp chiếc đò đi tới cho nhanh kẻo gặp nước cạn phải cắm sào ngồi chờ.

Nhưng rồi điều gì tới là tới. Chợ Kinh Cùng đã hiện ra trước mặt. Một ngôi chợ lèo tèo với vài hàng quán xác xơ. Một trường Tiểu học có hai phòng lớp và một trạm y tế với mái ngói rêu phong nằm kề nhau phía bên kia sông, càng làm tăng thêm vẻ ảm đạm của một làng quê nghèo.

Thầy Thanh vác hành lý rảo bước trên con đường làng. Tiếng cô giáo giảng bài nghe quen quá. Chân thầy hơi sựng lại đôi chút. Đúng rồi, không thể là ai khác. Tiếng giảng bài văng vẳng như đuổi theo từng bước đi của thầy. Thầy cắm cúi bước thật nhanh về hướng nhà thờ.

Mã số: 15-126

LỰA CHỌN

Ai cũng nói Phương may mắn với công việc hiện tại. Cũng không biết có điều đó đúng hay sai vì Phương không mấy tin tưởng chuyện hên xui, may rủi.Nhưng giờ ngẫm nghĩ lại cũng thấy cái may mắn mà mọi người nói cô cũng có lý. Nói chi xa, đám bạn cùng tuổi, toànkỹ sư, bác sĩ chứ có đùa đâu với đủ thứ bằng cấp vậy mà vẫn thất nghiệp dài dài. Mấy đứa có việc thì hầu hết nhờ chấp nhận làm trái nghề.

Phương làmở một bệnh viện phụ sản. Đây là nơi cô trụ lại lâu nhất sau khoảng thời gian bôn ba khắp nơi cùng với đủ mọi công việc. Đến giờ này, hơn 4 năm gắn bóvậy mà không ít lần cô cứ nghĩ mình đang mơ. Với cô, còn gì hạnh phúc hơn được làm công việc mình yêu thích và đúng chuyên môn nữa. Sự thật là vậy, Hậu sản là khoa luôn tràn ngập tiếng cười và niềm hạnh phúc. Không có những gương mặt thấp thỏm đợi chờ hay nhăn nhó đau đớn của các sản phụ chuẩn bị lên bàn sinh như khoa Tiền sản, nơi Phương làm chỉ có nhưng nụ cười của những người được làm cha mẹ, của thân nhân, bạn bè đến chia vui. Và cả những niềm hạnh phúc rạng ngời trong ánh mắt của những người vừa trải qua hành trình vượt cạn thập tử nhất sinh. Phương yêu lắm những bàn tay, bàn chân bé xíu, những làn da lán mịn nhưng cũng thật mỏng manh của các em bé sơ sinh; Nhất là những gương mặt hồn nhiên thánh thiện tựa như thiên thần. Nhưng với những dịch vụ mâu thuẫn nhất thì phải kể đến khoa Điều trị hiếm muộn và khoa Kế hoạch hóa gia đình. Đây cũng là 2 khoa có nguồn thu vượt trội ở bệnh viện với nhu cầu người đến khám và điều trị hằng ngày khá lớn. Bên này người ta muốn có con bằng mọi giá thì bên kia cũng bằng mọi giá nhưng người ta muốn bỏ con. Một bên với những người bỏ ra cả gia tài để chắt chiu, ước mong cơ hội được làm mẹ cha. Thì ngược lại, bên kia có những con người đang chối từ cái quyền thiêng liêng ấy, chỉ muốn trục những sinh linh bé bỏng ra khỏi cơ thể mình càng nhanh càng tốt. Như ông bà xưa vẫn thường nói “kẻ ăn không hết, người lần không ra”. Không ít phụ nữ, chỉ trong một thời gian ngắn nhưng lại đến khám và đều trị ở cả 2 khoa . Đơn giản là khi còn trẻ đã nhiều lần đếnnạo, phá thai. Đến lúc lập gia đình, tìm một mụn con còn khó hơn mò kim đáy biển. Vậy là tìm về chốn xưa (cũng bệnh viện ấy) nhưng nay lại là khách hành của khoa Điều trị hiếm muộn. Trớ trêu đến thế là cùng…

****

Hôm đi rửa tháng lương đầu tiên, tụi bạn Phương phấn khởi ra mặt:

-Mừng vì bạn mình có việc làm đúng nghề. Và càng mừng hơn khi từ nay chúng ta có chuyên gia tư vấn những chuyện thắc mắc…không biết hỏi ai. Ai có … lỡ khôn, lỡ dạithì cũng liên hệ bạn mình luôn để được “giải quyết” kín đáo, êm đẹp nhe các bạn !

Có lẽ hiểu nhau nhiều từ hồi học chung mấy năm cấp 3 và cũng có thể do thời buổi này việc ngủ chung, sống thử đã không còn là chuyện quá ghê gớm nên tụi nó nóihuỵt toẹt ra như vậy.Xa nhà, thiếu thốn tình cảm, tiết kiệm chi phí, xem tính tình có hợp nhau không… nói chung là có 1001 lý do để người ta giải thích sau đã góp gạo thổi cơm chung. Thích thì dọn đến, chán thì dọn đi bảo làkhông hợp, chia tay sớm cho bớt đau khổ… Được gì, mất gì sau những cuộc tình đó thì ai cũng hiểu, có điều “Con cá trong lờ đỏ lơ con mắt, con cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô”. Không ủng hộ cũng chẳng phản đối, với Phương đó là một thực tế rất phổ biến không chỉ nơi người trẻ màcả người sồn sồn, trung niên thậm chí đến các cụ ông cũng cứ thế mà…thử. Đó là một lựa chọn cá nhân của mỗi người. Chính vì không lựa chọn như số đông nên Phương và một vài đứa trong nhóm bạn bị gán cho cái biệt danh“ Những phụ nữ trung trinh tiết liệt của thế kỷ 21”. Tụi nó cứ thay nhau châm chọc:“Cái màng ấy trước sau gì cũng mất thì dại gì ko mất cho sớmđể cho biết mùi đời”, “Cuộc đời đó có bao nhiêu mà hững hờ”.

 Phương vẫn tâm niệm, tất cả là nhờ ơn Chúa nên cho đến lúc này cô mới không sa ngã. Chứ tự bản thân mình chẳng làm được gì. Có lẽ đức tin của cô đã được hun đúc nhờ những ngày tháng được, sống được yêu thương cùng gia đình nơi xóm đạo miền quê. Ở đó có ngôi nhà thờ với tháp chuông vươn cao giữa ruộng lúa xanh ngát bạt ngàn. Để rồi giờ đây, đó là chốn quay vể mỗi khi cô muốn tìm lại bình an trong tâm hồn.

Nhưng nói như thế, không có nghĩa hành trình bảo vệ đức tin của cô không hề gặp những cám dỗ, thử thách. Lần đó vào một buổi cuối tuần, Thái rủ Phương đi xem phim. Đến giờ hẹn, đang loay hoay tìm ổ khóa đã thấy Thái đẩy cửa bước vào cười tủm tỉm:

- Eo ơi son môi mới kìa, hôm nay “ấy” xinh quá, cho anh… thơm một miếng nhe!

Cũng nụ hôn này, cũng đôi môi này nhưng hôm nay cô cảm nhận có cái gì đó khác hơn. Hình như ngọt ngào và cũng lâu hơn mọi khi… Phương thấy mình như đang dầntan chảy của trong vòng tay ấm áp của anh, cô muốn buông xuôi tất cả …bất chợt tiếng chuông từ ngôi nhà thờ gần đó vang lên những âm thanh quen thuộc làm Phương bừng tỉnh... Nhẹ nhàng gỡ tay tay người yêu, cô nhắc khéo:

- Chúa nhắc mình đến giờ…đi cinerồi kìa anh !

Thái giả vờ như không thấy, không nghe gì cả nên càng siết Phương chặt hơn, hôn tới tấp lên môi, lên má rồi dần xuống cổ, xuống ngực. Một chiếc nút, hai chiếc nút nhanh chóng bung ra… Dùng hết sức, cô thụt chỏ thật mạnh vào bụng Thái rồi lao ra trước hiên dãy nhà trọ đứng chống nạnh miệng thở hổn hển:

- Em đã nói nhiều lần rồi. Em sẽ cho anh tất cả, nhưng trước tiên anh hãy trả lời đi, chúng ta sẽ thu xếp cuộc sống như thế nào khi em có thai ? Đồng lương của 2 đứa đã đủ để nuôi con chưa? Và còn biết bao nhiêu hệ lụy nữa anh à !

Thái lí nhí trong miệng:

- Phương, cho anh xin lỗi…

Tỏ ra mạnh mẽ, cứng rắn nhưng thật sự lúc này đây Phương thấy mình thật yếu đuối. Cô thầm cảm tạ Chúa đã soi sáng để cô có thể dứt khoát với những đòi hỏi của người yêu và nhất là thắng vượt những cảm xúc của chính mình. Sau lần đó, Phương “cấm tuyệt” Thái bước chân lên nhà trọ nữa ở vì không muốn chuyện đó lặp lại lần nữa. Thôi thì phòng bệnh vẫn tốt hơn trị bệnh.

****

Bước ra khỏi phòng nhân sự, Phương như người mất hồn. Cô hoàn toàn không ngờ có ngày mình phải đối mặt với hoàn cảnh trớ trêu như vậy. Tiếp tục làm việc hay nộp đơn xin nghỉ? Tồn tại hay không tồn tại ? Theo quyết định điều chuyển, Phương sẽ về phụ trách việc cấp phát thuốc phá thai ở khoa Kế hoặch hóa gia đình. Lúc nảy, Phương đã nài nỉ thậm chí van xin bà trưởng phòng nhân sự:

- Con theo đạo Công giáo chắc không làm việc này được cô ạ. Con có thể làm bất cứ việc gì trừ việc này, con …con…không làm được.

Trưởng phòng nhân sự vẫn cương quyết:

- Ai cũng lựa chọn công việc theo ý mình thì có lẽ cái bệnh viện này sẽ loạn lên hết. Người ta có thai ngoài ý muốn nên mới cần mình hỗ trợ họ, cũng là làm phước mà thôi. Nghĩ kỹ đi, cái bào thai thì đã là con người đâu mà con lo nghĩ sâu xa. Chuyển công tác thu nhập của con sẽ tăng lên đáng kể. Cứ suy nghĩ rồi sáng mai trả lời!

Càng nghe, Phương càng thấy rợn người trước những lời lẽ thản nhiên đến lạnh lùng của họ. Lạnh lùng nên nơi đây mỗi ngày hàng chục thai nhi phải chếttức tưởi, phẫn uất trong sự lặng im, thờ ơ của những người cha người mẹ vô trách nhiệm. Không ít lần Phương đã tận mắt chứng kiến cảnh những chàng thanh niên ngồi ghế chờ ngoài hành lang mải miết chơi game mà không hề mảy may có biểu hiệnlo lắng cho bạn gái. Thậm chí, có cô gái "mặt búng ra sữa" cứ lủi thủi đi đi lại lại dọc hành lang chờ bác sĩ gọi tên, còn chàng trai chỉ biết ngửa cổ hỏi: Xong chưa? Thấy cô gái khẽ lắc đầu, cậu thanh niên còn tỏ vẻ khó chịu ra mặt: Mất thời gian. Nhanh lên, không thì tự đón taxi mà về. Nói xong, thanh niên nọ lại cúi xuống chơi game tiếp…

Cũng như các bệnh viện khác, ở đây việc nạo phá thai được hợp thức hóa với những từ ngữ hết sức mỹ miều: hút điều hòa kinh nguyệt, kế hoặch hóa gia đình. Phương vẫn nghĩ, cho dù phương pháp nào đi nữa thì phá thai cũng là một hành vi hết sức tàn ác. Nếu thai nhi đã lớn thì phương pháp kovax thường được ưu tiên. Người ta sẽ đặt túi nước vào tử cung người phụ nữ để kích thích thai nhi ra ngoài. Nhiều ca phải lấy kềm răng kẹp bất kỳ vị trí nào đó của thai thi lôi ra ngoài hết sức man rợ. Còn những thai nhi dưới 7 tuần tuổi người ta phải dùng đến 2 loại thuốc khác nhau; Đầu tiên, người phụ nữ được cho uống loại thuốc phá thai, 48 giờ sau sẽ là loại thuốc kích thích tử cung co bóp mạnh để tống khứ thai nhi ra ngoài. Nạo phá thai dù 1 lần hay nhiều lần đều để lại những hậu quả khôn lường như: băng huyết, viêm nhiễm, thủng tử cung, sốc thuốc, hôn mê … Các tai biến có thể dẫn đến vô sinh ở lứa tuổi có khả năng sinh sảnkhá cao. Còn những sang chấn tinh thần, khủng hoảng tâm lý thì có lẽ chẳng ai đếm được. Việt Nam là nước có tỉ lệ nạo phá thai ở tuổi vị thành niên cao nhất Đông Nam Á và đứng thứ 5 trên thế giới. Một “thành tích” hết sức đau lòng và quá xấu hổ. Chẳng lẽ giờ đây Phương lại đồng lõa, lại tiếp tay cho những tội ác khủng khiếp ấy. Nếu không cô sẽ bị đuổi vì không tuân hành sự sắp xếp điều chuyển của cấp trên. Đồng nghĩa với việc cô sẽ phải chấp nhận quay về khoảng thời gian bôn ba tìm việc như lúc mới ra trường. Một vấn đề hết sức quan trọng vậy mà Phương phải suy nghĩ và quyết định trong vòng chưa đầy 24 tiếng đồng hồ nữa…

****

Chiều muộn, Phương vẫn chưa vội rời bệnh viện dù ca trực đã kết thúc từ lâu. Cô rảo bước tìm đến chiếc ghế đá quen thuộc dưới hàng cây rợp mát. Chưa kịp ngồi xuống Phương chợt nhận ra tờ giấy học tròai đó gấp đôi để quên trên ghế. Cô ngồi xuống tò mò mở ra xem. Thì ra là một bài thơ được chép tay với tựa đề “Lời của thai nhi”:

Con muốn tỏ cho mẹ cha được biết

Con đã là người với tim, óc, tứ chi

Mẹ cha đừng nghĩ, con chẳng biết gì

Chỉ có nói là con chưa biết nói !

Hãy sinh con ra ! Nghe theo tiếng gọi

Của chính con, của nhân loại lương tri

Nhẫn tâm giết, tội sát nhân gớm ghiếc

Cho con thành người, con mong mỏi quá đi.

Con kết tinh của tình yêu tha thiết.

Của mẹ cha, của linh khí anh hoa

Của son sắt, của tơ duyên vĩnh cửu.

Của yêu thương, của tình ái chan hòa.

Sao giờ đây mẹ cha lại dè bỉu

Chính đứa con, giọt máu của mẹ cha

Chính đứa con đã kết nụ đơm hoa

Từ ái ân từ tình yêu trân quí ?

Cho con ra đời, dù không hoan hỉ

Cứ bỏ con nơi bố thí, viện tế bần.

Dù cùng cực, dù vạn lần khốn khó

Xin một lần, cho con thấy ánh bình minh

(Con muốn sống, muôn ngàn lần hơn chết)

Những lời này thật vô cùng tha thiết

Là những lời oà vỡ tự trái tim

Xin ngưng tay, hãy bớt giận, con xin…

Để con sống dù không nhìn con nữa !

Con lạy mẹ cha trăm ngàn lạy nữa

Hãy dể con, cho con được sinh ra

Ngày chào đời bằng tiếng khóc oa oa…

Chính ngày đó, con vô cùng sung sướng !

Xin hãy gắn, hãy thương con, rộng lượng

Cha mẹ không tủi hổ bởi con đâu.

Con nằm đây, chắp hai tay cầu khẩn.

Xin Thượng đế cho mẹ cha can đảm

Mẹ cha ơi, xin chớ bỏ con nhe …

Gấp tờ giấy đặt lại chỗ cũ, Phươngmới nhận ra cặp kính đang nhoà đi với haigiọt nóng hổi. Cô thầm nghĩ, nếu được đọc những vần thơ thống thiết này có lẽ không một người phụ nữnào có thể nhẫn tâm tước bỏ sự sốngthai nhi mà họ đang cưu mang. Và Phương nhận ra điều Chúa đang nói cùng cô. Không! Phương không thể thỏa hiệp với cái ác của tội lỗi , cô sẽ không bán rẻ linh hồn mình vì miếng cơm manh áo như vậy. Cô vững tin rằng khi Thiên Chúa đóng cánh cửa này thì đồng thời Người sẽ mở cho chocô nhiều cánh cửa khác:“Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia Người sẽ thêm cho” (Mt 6:33). Mặc kệ ánh mắt hiếu kỳ của những người xung quanh,Phương chắp tay trước ngựctạ ơn Thiên Chúa rồi bước nhanh đến phòng nhân sự nộp đơn thôi việc…

Mùa Chay 2015

Mã số: 15-127

HÀNH TRÌNH CỦA QUỶ

Nó bắt đầu cuộc hành trìnhvới rất nhiều gánh nặng phải cám dỗ 100 người trong vòng 2 tháng. Nó là một tân bình không biết phải cám dỗ loài người sao đây, mấy ông quỷ già ai cũng gào lên:

- Mày mà không cám dỗ được bằng ấy người tao cho mày xuống địa ngục chơi với mấy đứa tội lỗi ở đó… hú hú…khà khà…

Địa ngục tuy là nơi nó được tạo ra nhưng chẳng con quỷ nào muốn ở đó hết, ở đấy toàn nghe tiếng khóc, tiếng rên là, cầu xin…. Chẳng có gì là vui cả. Nhưng làm sao nó tìm được bằng ấy người đây. Nó đang lang thang thì nhìn thấy một thằng bé, nó đang đứng trước một ổ bánh mì để trên ghế đá ngay trước của nhà, có lẽ ai đó để quên, hay cố tình để đó, nhưng cái quan trọng là bụng thằng bé đang sôi ùng ục… Nó tiến lại gần thằng bé:

- Sao không lấy đi đợi gì nữa.

Tiếng lương tâm thằng bé thét lên:

- Không được, như thế là ăn cắp!

- Không đúng, ăn người ta vứt đi rồi, chứ đồ ăn ai lại để ở ghế, bỏ đi phí lắm, lấy ăn đi, với lại đang đói mà.

- Không được, cậu mới đi xưng tội hôm qua mà.

- Thì mai xưng tiếp, ngày nào cha lại không giải tội, có thực mới vực được đạo mà… ăn đi mai có tiền mua trả có sao đâu mà…

Thằng bé bước lại gần ổ bánh mì, mặc cho thằng cha lương tâm gào thét “đừng”… Thằng nhóc thò tay chạm vào ổ bánh, cầm lên bỏ sát mũi hít một hơi thật sâu… Con quỷ hả hê lắm vậy là nó đã cám dỗ được một người… Thấy mấy con quỷ sống lâu nói khó cám dỗ nhất là trẻ con vậy mà nó thấy dễ ợt…Nó bĩu môi…Bỗng thằng bé bỏ ổ bánh mì xuống, “Nó không ăn sao?”- Con quỷ không hiểu, nó chạy lại hỏi thằng nhóc:

- Sao không ăn, đang đói mà.

- 40 ngày Chúa không ăn còn chịu được, mình mới hai bữa mà, phải làm chắc chắn sẽ có ăn, như vậy khi nhìn lên thánh giá mới không thấy hổ thẹn.

Thằng quỷ thất vọng tràn trề, vậy ra mấy ông quỷ già nói đúng. Nó chẳng biết được rằng ngày nào thằng bé ấy đều làm một việc đơn giản là cầu nguyện. Chính việc đó đã cho thằng bé sức mạnh lớn lao đến vậy.

Nó lại tiếp tục lang thang, nó nhìn thấy một người phụ nữ vừa giặt quần áo vừa khóc, cô ta liên tục vang lên lời trách móc:

- Sao số tôi khổ thế này, mẹ chồng thì quái ác, thằng chồng thì nhu nhược, đứa con thì bệnh hoạn…

- Chết đi – Nó thì thào bên cạnh người phụ nữ ấy.

Cô ta như bừng tỉnh: “Phải rồi!”.

- Chết đi là giải thoát hết, chết cho thằng chồng nó mở mắt ra, chết cho con già chồng mang tiếng suốt đời, dòng họ nhà này mãi mãi không ngẩng mặt lên được vì họ mà cô phải chết…

- Đúng rồi!

- Giờ cô đi kiếm một sợi dây thừng, mang vào buông bên cạnh cửa có cái xà đó, cột giây lên. Thắt cổ nửa tiếng sau là cô được giải thoát.

Người phụ nữ đứng lên, ra sau bếp cô tìm thấy một sợi dây thừng dai, cô cầm lên hơi do dự khi lương tâm lên tiếng: Chết là mang tội giết người đó. Nhưng con quỷ làm hiện lên trước mắt cô những tủi nhục, ái oán của một thời gian dài, Cô bước nhanh về chiếc xà ngang trong buồng cô đóng chặt cửa phòng lại đưa dây ngang qua xà, mọi việc làm rất nhanh chẳng có gì khó khăn hết vì… Con quỷ đang giúp cô một tay. Nó biến cái dây thành một con rắn xiết lấy cổ của cô càng ngày càng chặt, trong lúc giãy giụa bỗng cô nghe tiếng khóc của con thơ, đứa bé chưa tròn một tuổi khát sữa gọi mẹ, nhưng cô đang giãy giụa trong nước mắt, cô thấy ân hận, cô cầu xin:

- Lạy mẹ Maria cứu con, kẻ tội lỗi này không xứng nhưng còn con của con. Xin Mẹ, Mẹ ơi….

Nhưng trễ quá rồi cô không thể thở được. Con quỷ đứng đó cười ha ha, vậy là con mồi đầu tiên sập bẫy… Nếu cô ta cũng giống đứa bé kia thay vì trách móc mà cầu nguyện như bây giờ có lẽ cô ta đã bị con quỷ cám dỗ. Bỗng có tiếng phá cửa, thì ra bà mẹ chồng đã về… Bà phá cửa rồi đưa đứa cô con dâu xuống, bà vội chạy xuống bếp gọi to thằng con đang ngoài rẫy, sẵn bà cầm con dao lên. Nhanh như chớp bà cầm theo chai nước phép rẩy khắp phòng, thằng con trai về nó nhanh chóng đưa vợ đi cấp cứu, còn bà mẹ chặt cái dây thừng ra làm ba phần.

Lại một lần nữa nó về tay không, người phụ nữ đó còn sống, nhưng ít ra người phụ nữ đó đã bị nó cám dỗ. Thành công bước đầu rồi.

Ngày thứ ba có vẻ hăm hở với chiến công của mình, nó nghiệm ra rằng phụ nữ rất dễ sa ngã như xưa Satan cám dỗ Eva vậy. Nó vào nhà thấy một người phụ nữ đang ngồi suy nghĩ về việc lấy vợ cho con:

- Không biết lấy con bé này có hạnh phúc không, lỡ hai đứa nó không hợp, khổ thì sao…

Người phụ nữ này cứ trằn trọc mãi mà không ngủ được. Nó nghĩ không biết có cách nào giúp người phụ nữ này không nhỉ?Nó tiến lại gần bà ta:

- Sao không đi xem bói? Ông thầy Năm bói linh lắm đó nha, coi đi nếu hợp thì cho cưới, không thì dẹp luôn.

Tiếng lương tâm gay gắt:

- Người có đạo sao lại xem bói. Cha giảng nhà thờ rồi mà… không nên.

- Có sao đâu, xem cho chắc, mai mốt đi xưng tội mấy hồi.

- Ừ nhỉ! (Bà ta nghĩ thầm)

Vậy là sáng ra bà ấy đã đi tìm thầy Năm.

Mục đích của nó chỉ có vậy. Hoàn thành trong vui vẻ quỷ tự đắc tìm con mồi tiếp theo… Và kìa bên kia có một chàng trai đang uống rượu ừng ực. Nó tiến lại gần.

- Uống đi, uống cho quên sự nghèo, nghèo là cái tội. Chúa nói người giàu vào nước trời khó hơn cả việc con lạc đà chui qua lỗ kim, còn thằng nghèo như mày lấy được Vân còn khó hơn lấy sao trên trời, ha ha…

Người thanh niên dốc cạn hết chai này tới chai khác cho đến khi chẳng còn biết gì nữa. Con quỷ lại thều thào.

- Tới nhà Vân, gọi cô ta ra, mày cướp đời nó, cần thì cho nhà nó một mồi lửa, cháy là nhà nó cũng nghèo hà…đi đi!

Chàng trai đứng lên, loạng choạng tiến về phía ông chủ quán, lấy ví tiền ném xuống bàn nhếch miệng nói:

- Trả tiền, rồi lấy cho tôi cái quẹt.

Rồi anh chàng thất thểu bước tới nhà Vân. Nhà cô ở cuối xóm, có hàng cây ngọc lan trước nhà, Vân nói lan thơm tinh khiết trắng trong nên Vân rất thích. Chàng trai lấy hộp quẹt ra, nó bật xoẹt xoẹt nghe có vẻ thích thú, chàng cười hề hề. Con quỷ cũng hề hề, bỗng trong nhà có tiếng:

- Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng…

Tiếng kinh làm con quỷ sợ, bối rối nên chạy biến đi. Còn một mình chàng trai thẫn thờ một chút rồi thập thững quay về nhà. Hôm sau quỷ quay lại tìm chàng trai thì thấy chàng ta có vẻ rất bình thường. Nó lại thầm thì:

- Sao không đến nhà Vân nữa, nó yêu mày rồi phụ mày mà.

- Yêu Vân đó là quyền của tôi, Vân có yêu tôi không lại là quyền của cô ấy, phải yêu người như chính mình ta vậy. Chúa có cách sắp xếp của người. Kính mừng Maria đầy ơn phúc…

Con quỷ biến đi chỗ khác, nó nghĩ chỉ một chút xíu nữa thôi là nó đã cám dỗ được anh ta, nếu gia đình Vân không đọc kinh, và nếu chàng trai đó không đọc Kinh thánh thì có lẽ quỷ đã thắng… Nó nghiệm ra rằng: Những kẻ không cầu nguyện là những kẻ yếu đuối,nó sẽ cám dỗ những cái đơn giản thôi, những cái làm nên sức mạnh của loài người.

- Cả ngày mệt rồi đừng đọc kinh nữa, làm dấu thôi đủ rồi.

- Cả tuần mới có bữa nghỉ ngơi, tuần sau đi lễ bù rồi xưng tội, đời còn dài mà…

- Thôi không đọc kinh một bữa không chết đâu, mai đọc bù…

- Hôm nay mệt đọc kinh riêng đi, đừng đọc cả nhà nữa…

Góp gió thành bão… Nó đi khắp nơi và bắt đầu…

Mã số: 15-130

ĐẠO LÀM DÂU

Ngày chị lên xe hoa, mẹ ốm liệt giường không dậy được. Nhà chồng chị vừa trải qua một sự kiện buồn, lẽ ra ngày cưới hoãn lại nhưng vì lý lẽ “bán sầu mua vui” của hai họ mà hôn lễ vẫn được cử hành. Mẹ đã tất bật tiếp khách, lo lắng, thương tủi con gái quá nhiều đến kiệt sức. Thế là ước mong chụp một tấm hình với mẹ trong ngày lễ hạnh phúc nhất cuộc đời chị đã không thể thực hiện. Chị không dám khóc, không dám buồn sợ mẹ chạnh lòng. Trang điểm, váy áo, hoa cài đầu, môi cười, mắt cười. Chị bước vào buồng thỏ thẻ bên tai mẹ:

- Mẹ! Đừng lo cho con gái, con sẽ không bao giờ chối bỏ Niềm Tin vào Thiên Chúa mà ông bà, ba mẹ đã dạy con từ thủa bé. Con yêu Kiên và con cũng sẽ khiến Kiên yêu Chúa. Có điều mẹ hãy cho con thời gian...

Cô dì chú bác đứng quanh giường động viên: “Con gái vui thế còn gì, sao phải buồn?”. Mẹ cầm tay chị, miệng cười mà nước mắt vòng quanh:

- Các chị không biết đấy thôi, con bé này nhà em tính nó rắn rỏi, miệng cười tươi thế, nhưng nước mắt chảy vào trong. Em lo là lo nó lấy chồng xa vất vả, mà về bên đó, họ không cùng tôn giáo, một thân một mình, giữ đạo làm dâu đã khó, liệu nó có giữ trọn đạo làm con Chúa? Rồi khi có con cái nữa, ai lo dạy dỗ chúng?

Trái tim chị nhói đau. “Ôi mẹ ! Lúc nào mẹ cũng kín kẽ, bao bọc che chở, chỉ sợ người khác nghĩ sai về con của mình, chỉ sợ con cháu không giữ trọn đạo nghĩa bao đời để lại”. Chị hoa cười nắng đẹp nhưng lòng như có cơn bão vừa đi qua. Lúc yêu Kiên chị quyết tâm, mạnh mẽ bao nhiêu thìngày cưới lại ngổn ngang, âu lo bấy nhiêu. Chị không giấu được mẹ. Câu nói của mẹ khiến chị vội quay đi, vì sợ không kìm được cơn nức nở.

Khi còn nhỏ, chị vốn không được khỏe mạnh, suốt ngày ốm đau quặt quẹo, theo ba hết bệnh viện này đến bệnh viện khác, những buổi trưa trời nắng như đổ lửa, mẹ vác cuốc tha thẩn khắp các sườn đồi, bãi hoang để kiếm rễ cỏ tranh, bông mã đề, dâu ngô…về sao sao, cắt cắt, ủ ủ bịch to, bịch nhỏ để dành cho chị uống. Nhưng căn bệnh ho gà của chị không giảm mà còn nặng hơn.Tối nào chị cũng thấy mẹ ngồi trước bàn thờ lẩm nhẩm đọc kinh. Chính mẹ đã chọn cho Thánh nữ Teresa làm bổn mạng cho chị vì một người bạn của mẹ đã tặng mẹ cuốn sách Một Tâm Hồn. Và mẹ đã say mê đọc nó. Có lần mẹ còn nói, nếu Chúa muốn, mẹ mong ước dâng chị cho Chúa.

Năm ấy, chạy chữa cho chị không được, mẹ nghe người ta nói đến Lòng Chúa Thương Xót ở nhà thờ Chí Hòa. Mẹ lại khăn gói, bồng bế chị lên Sài Gòn với niềm tin đơn sơ của một giáo dân quê mùa trộn lẫn với tấm lòng bao la của người mẹ. Chuyện chị khỏi bệnh giống như một phép lạ nhãn tiền mà không mấy ai hiểu được.

Năm tháng thoi đưa, càng lớn chị càng như một bản sao từ mẹ. Rồi chị lên thành phố học, mỗi lần về quê, các bác trạc tuổi mẹ cười cười: “Ngày xưa mẹ con là hoa khôi đấy, bao người xóm trên nhòm ngó, nhưng mẹ không thích lấy chồng bên lương vì mẹ sợ mất đạo”. Câu nói xa gần ấy như chạm phải nỗi băn khoăn trong lòng người thiếu nữ 19. Mẹ chị lấy ba không phải vì ba đẹp trai hay tài giỏi nhưng mẹ thích ba vì cái chất hiền từ và đạo đức vốn có của một ông thầy tu. Ông từng là tu sinh dòng Phanxico, nhưng vì hoàn cảnh khó khăn và gánh nặng gia đình trên vai người anh cả quá lớn nên ba đành phải hy sinh ước mơ. Ba lo cho cô Tư xong thì gặp mẹ. Và chị có mặt trên đời với cái tên: Têrêsa Nguyễn Trần Đỗ Quyên.

Chị quen Kiên khi năm hai đại học. Anh không có đạo nhưng chân thành và giản dị. Anh chưa biết Chúa nhưng yêu chị anh hứa sẽ tìm hiểu về Đạo Chúa. Ba mẹ gàn chuyện yêu đương của chị vì nghĩ rằng khi yêu thì có điều gì mà người ta không thể thề hứa nhưng rồi sau đó thì lại thất hứa thật nhanh. Chị hiểu nỗi lo của ba mẹ nhưng chị yêu Kiên và anh cũng vậy.

Kiên đã không thất hứa, khi mỗi chiều Chúa Nhật anh lại lẽo đẽo chở chị qua nhà thờ Thánh Tâm dự lễ. Chị hay chọn hàng ghế cuối nhà thờ vì sợ anh ngượng ngùng và lạc lõng với những nghi thức mà chị và mọi người làm. Anh kiên nhẫn nghe chị giải thích về Dấu Thánh Giá, về Màu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chị cố nghĩ ra đủ mọi cách để cảm hóa tâm hồn Kiên. Mỗi lần đi sinh hoạt nhóm sinh viên Công giáo chị lại lôi anh đi cùng, chị mua sách cho Kiên đọc, những cuốn sách viết về những câu chuyện đời thường như Viết cho em, Sỏi đá nở hoa… Chị tải cho anh những bài hát Công giáo nhẹ nhàng mà sâu sắc về cuộc sống… Lần đầu tiên anh khen và nói thích bài hát Làm Dấu của Phan Đình Tùng. Chị mừng như đứa học trò được điểm 10. Chị biết nói về Chúa cho một người chưa biết gì về Ngài chỉ như muối bỏ biển Đông. Những ngày đầu anh khó hiểu và nản không muôn đến nhà thờ nữa. Những lúc ấy chị chỉ biết cầu nguyện. Vì tự sâu thẳm chị hiểu rằng: Chúa mới là tác nhân chính làm thay đổi cách nhìn phiến diện của Kiên về thứ tôn giáo mà người anh yêu đang theo. Chị là cộng tác viên. Phần Kiên, anh yêu chị và anh không muốn đánh đổi chị chỉ vì những bất đồng tôn giáo. Ba mẹ anh cũng nghĩ thoáng vì cho rằng tôn giáo là quyền tự do của con người, hai bác không ép buộc chị và Kiên.

Nhưng khó khăn hơn cả là ba mẹ chị phản đối ngay từ khi chị thưa chuyện yêu Kiên. Một phần vì ba mẹ không muốn gả con gái quá xa. Mặt khác mẹ chị lo xa:

“Con gái tại gia thì tòng phụ, xuất giá thì tòng phu, phu tử thì tòng tử… Bố mẹ lo rằng khi “thuyền theo lái, gái theo chồng” làm sao con có thể giữ đạo nổi khi thằng Kiên là con út trong một gia đình lương dân. Bao nhiêu đứa con gái trong làng này lấy chồng bên lương, không cùng thuyền cùng bến có mấy đứa được hạnh phúc đôi đường ? Như cái Thanh nhà bác Ki, sinh hai đứa rồi mà người ta đâu có cho rửa tội, đi nhà thờ thì mẹ chồng liếc ra, liếc vào… Con phải suy nghĩ thật kỹ rồi mai mốt thuyền đóng ván ba mẹ không thể giúp gì được nữa”.

Trong im lặng, chị hiểu những điều ba mẹ lo lắng, nhưng lý trí chị lại bắt bẻ: “Khi yêu người ta còn vượt qua được cả những hận thù huống chi là những khác biệt về tôn giáo”.

Với cá tính bướng bỉnh từ nhỏ của chị, Ba mẹ biết không thể làm chị từ bỏ ý định kết hôn với Kiên nên đành để hai người tự do qua lại tìm hiểu. Mùa xuân năm ấy, Kiên đã đăng ký lớp giáo lý dự tòng.

Có lần ngồi bên Kiên chị thỏ thẻ :

- Yêu em anh sẽ vất vả hơn những cô gái khác.

- Ngốc! Không được nói vậy, không thì anh sẽ trói em chặt hơn nữa đó.

- Anh phải cùng lúc hiểu Chúa và hiểu cả em. Em biết niềm tin vào Thiên Chúa của em, trong giới hạn về khả năng diễn đạt cũng như những am hiều giáo lý còn hạn chế.Nếu em nói khô khan quá thì anh cũng phải ráng nghe nhé! Ai bảo anh yêu con chiên của Chúa ? “Thiên Chúa là Tình Yêu”, đó là định nghĩa ngắn gọn nhất, đầy đủ nhất mà người ta hay nói về Ngài. Ngài dựng lên anh, nên em, muôn người và muôn vật. Ngài yêu tất cả nên Ngài cho ta quyền tự do.

- Thiên Chúa có thật không em ? Sự tự do ấy là gì ?

- Chắc chắn là Ngài có thật. Nếu không niềm tin của gia đình em và hàng tỷ người trên thế giới này là trống không, là vô nghĩa hay sao ? Sự tự do em nói là sự tự do để lựa chọn. Ngay cả việc lựa chọn Ngài… Em nhớ hồi học phổ thông em rất thích môn hóa học. Anh cũng thừa biết là H­­­­­­­2O được cấu tạo từ hai nguyên tử H2và O2. Trong O2 lại có điện tích dương (Proton) và điện tích âm (Electron). Chẳng ai nhìn thấy chúng tại sao ta vẫn tin là có chúng trong nước ? Thiên Chúa cũng vậy ! Ngài luôn hiện hữu nhưng không ai nhìn thấy hình dáng Ngài. Anh chỉ thấy Ngài khi có “con mắt đức tin”.

- Là sao ?

Chị mỉm cười, dù chẳng biết Kiên có hiểu được những lời chị diễn đạt hay không? Chỉ thấy anh trầm ngâm rồi nói:

- Tin nghĩa là chấp nhận cả những khi anh không được “thấy tận mắt, bắt tận tay” đúng không ?

- Anh tiến bộ hơn em tưởng.- Chị nói tiếp vì chị biết Kiên là người kiên nhẫn và có thiện chí.- Không phải những gì em tin được chứng minh một cách khoa học cũng không phải niềm tin ấy có lợi cho những người theo đạo mà vì: Đạo Thiên Chúa giáo có một lịch sử lâu dài, có những sử liệu bất khả kháng (Sách Cựu ước, Tân ước…). Lời Chúa được truyền đạt thông qua những nhân vật có uy tín như các ngôn sứ, các tiên tri.Lời đó được xác thực hóa qua thời gian.- Chị lôi ra cuốn Tân ước nhỏ và mở tới trang 290 câu 18 rồi đọc: “Thiên Chúa chưa bao giờ có ai thấy cả nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng có nơi cung lòng Chúa Cha, chính người sẽ tỏ cho chúng ta biết” (Ga1,18). Con người vĩ đại ấy là Chúa Giêsu – là chính Thiên Chúa xuống thế làm người. Ngài đã được sinh ra, sốngnhư bao người rồi chếtđi và phục sinh trong vinh quang. Để hiểu tại sao Ngài phải hạ cố để làm những điều đó hôm nay anh phải đọc hết chỗ em đánh dấu này nha!

- Đồng ý, vì em…- Kiên dí dí ngón tay lên trán chị âu yếm.

Chị chỉ tay lên bầu trời và nói:

- Đố anh biết trên bầu trời có gì ?

- Màu đen và những ngôi sao.

- Chưa chắc, nhiều hơn thế ?- Chị tủm tỉm cười.- Nhà bác học Newton bảo là : “Tôi đã nhìn thấy Chúa đi qua ống kính viễn vọng của tôi”. Vũ trụ này là một sáng tạo kỳ diệu của Chúa… Anh tin không ?

- Điều đó còn tùy ở cô giáo của anh nữa…

- Vậy là em được khảo bài bất cứ lúc nào…

Họ ngoắc tay nhau như hai đứa trẻ thề hứa một điều gì quan trọng…

Và cuối cùng cũng qua 6 tháng để Kiên theo học lớp giáo lý dự tòng tại một nhà thờ gần chỗ làm của chị. Suốt thời gian ấy chị vừa là người yêu và vừa là giáo lý viên của Kiên.

Ngày chị theo chồng, tiễn con ra xe, chỉ có ba dặn dò chúc phúc: “Cố gắng sống tốt phận làm dâu nhé con! Khi nào không biết xoay xở thì hãy cầu nguyện, Chúa sẽ giúp con”. Chị ngoái nhìn bàn thờ có hình gia đìnhThánh Gia và mấy cây nến đang chảy nhòe nhoẹt, thầm nhủ : “Lạy Chúa, xin ở bên chúng con mọi bước đường.” Chị nhìn lại ngôi nhà thân thương của mình, ngoái nơi tuổi thơ đã neo đậu, nghĩ đến những buổi tối cả nhà quây quần đọc kinh, nhớ những mùa Dâng Hoa tháng năm ríu rít cùng lũ bạn quanh xóm… Nhớ những bản thánh ca du dương mà một thời chị đã từng hát. Từng giọt nước mắt rơi chầm chậm tựa tiếng chuông chiều xa xăm rơi vào khoảng không trống rỗng.

Đám cưới xong, hai vợ chồng chị lên thành phố làm. Hai năm sau ngày cưới, ba chồng chị mất. Trong đám tang, mọi nghi thức vẫn được làm như tục lệ của đàng nhà chồng. Khói hương nghi ngút, cúng vái, gọi hồn, trống kèn suốt ba ngày, … Đêm về, chỉ mình chị lẩm nhẩm những lời kinh cầu nguyện cho linh hồn ba chồng dù ông không là một Ki-tô hữu.Bổn phận làm con chị vẫn muốn sống trọn và chị tin Chúa sẽ cứu rỗi cả những linh hồn lương thiện. Lo tang cho ba xong, mấy chị em bàn bạc xem ai sẽ về ở với mẹ. Vì lâu nay, ba mẹ chồng chị vẫn ở một mình. Các anh chị đều có cơ ngơi riêng. Chị cả ở vậy nuôi con, khi chồng chị tai nạn mất bẩy năm về trước, một mình chị đi làm thuê nuôi hai đứa con ăn học ở Sài Gòn. Người về ở với mẹ đương nhiên không phải là chị. Anh Tú-người khá giả nhất nhà làm công an ở một huyện cách xa nhà 60 km, vợ anh có một tiệm vải khá lớn. Anh nói : “Vợ chồng anh bận làm ăn không thể về được đâu”. Vợ chồng anh Quang thì đang làm công nhân ở khu công nghiệp Sóng Thần. Chị nói : “Vợ chồng em mà về với mẹ thì đói nhăn răng, giờ chỉ còn vợ chồng chú Kiên. Chú là con út liệu mà về ở với Mẹ.”

Mấy chị em đẩy tới đẩy lui, ai cũng có lý do. Ngồi nghe họ nạnh hẹ. Chị thấy chạnh lòng cho cả người còn lẫn người đã khuất.

Kiên xua tay : “Thôi thôi! Ba mới mất, mấy chị em mình như vậy, ba không vui đâu. Mẹ nghe được cũng buồn. Để vợ chồng em tính”.

Rồi vợ chồng chị về với mẹ. Kiên phải chuyển sang một chi nhánh của công ty xây dựng khác gần nhà. Còn chị nhờ chỗ quen biết xin về dạy ở một ngôi trường cấp II trong xã. Từ ngày vợ chồng chị về mẹ vui hẳn. Ngày hai bữa, chị nấu đủ hai món canh và kho mà mẹ thích. Mẹ ho vài tiếng, chị liền chưng tắc với đường phèn. Tối nào chị cũng xoa bóp, đấm lưng cho mẹ chồng như thói quen khi còn ở nhà. Chị để dành được ít tiền, thuê người đổ đất xốp, sửa lại mảnh vườn nhỏ, rồi chị trồng thêm bầu bí, đậu bắp và đủ các loại rau… Mẹ có chỗ lui ra, lui vào cũng bớt buồn mỗi khi vợ chồng chị vắng nhà.

Mẹ gặp ai cũng khoe: “Con dâu tôi là con nhà có Đạo nên nó khác lắm, không giống như mấy đứa lớn. Ở với con dâu là sướng nhất, nó hiểu ý mình hơn con gái”.

Rồi thời gian cứ thế trôi đi mải miết, chị luôn cố gắng sống ngoan hiền và đúng mực. Ngày mới về, mấy chị dâu bỉu môi bình phẩm: “Cô em dâu có đạo, nhiều nghi thức phiền phức…”. Chị vẫn an nhiên đi qua những lời ra tiếng vào ấy vì chị biết chỉ có thời gian mới giúp chị sống chứng tá cho Chúa giữa gia đình và họ hàng đằng chồng.

Chiều cuối tuần, gió mùa về sớm. Hôm nay, Kiên đến đón chị sớm hơn mọi ngày. Anh nói muốn chở chị đi lễ. Lâu nay hai vợ chồng bận bịu tối ngày, anh áy náy vì thấy thiếu sót với vợ và hơn nữa anh cũng là một Ki-tô hữu kia mà. Trên con đường tới trung tâm thị xã, chuông nhà thờ bỗng rung lên một hồi : Boong…boong…boong… Trong thánh đường có vài người đến sớm nhưng vẫn ngồi trật tự. Chị kéo Kiên lên sát phía bên trái gian cung thánh, nơi có hình Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.Chị thỏ thẻ: “Em đã xin khấn Đức Mẹ và Mẹ đã nhậm lời anh ạ!”. Chị kéo nhẹ tay chồng đặt lên bụng mình: “Em có thai rồi, hai tuần…”. Mắt Kiên rưng rưng hạnh phúc. Anh nắm tay chị quỳ xuống. Bóng hai người đổ dài len qua ô cửa dưới vạt nắng chiều còn sót lại vàng thẫm…

Mã số: 15-131

ÂM HƯỞNG

Nửa đêm, có ai đó gõ vào cửa sổ. Tôi choàng dậy. Hóa ra đó là ánh trăng. Tôi sực nhớ hôm nay là mười năm. Ánh trăng khiến tôi nảy ra ý định “đi chơi”. Mỗi khi thấy cuộc sống quá tất bật hay ngột ngạt tôi thường trở về quá khứ như một thói quen. Đó là một nơi vô định nhưng thanh bình và yên ả hơn so với cái nhịp sống vội vã, ồn ào náo nhiệt nơi đô thành. Hôm nay, vẫn là ánh trăng của năm xưa, của ngàn đời… Tôi lại lục lọi những con chữ và lên đường…

Hồi ấy, tôi và lũ bạn trong xóm nhỏ có thói quen đi chơi dưới trăng, trăng mùa thu dịu dàng, trăng đầu đông lạnh lùng, trăng thượng tuần mùa hạ vằng vặc. Khi tiếng kinh trông cậy ré lên chua lè từ cổ họng bà quản Hai, chúng tôi đứa nào đứa nấy như tỉnh táo hẳn. Giọng của bà là thứ âm thanh cũ rích, tôi chưa bao giờ thấy nó thay đổi một sắc thái hay âm vực nào. Nó giống một thứ báo thức mà tôi không bao giờ phải để mẹ cù léc mới bò ra khỏi giường như ở nhà. Thật là thích thú mỗi khi giọng bà cất lên-giờ kinh đã kết thúc. Điều đó đồng nghĩa với việc chúng tôi được “sổ lồng” khỏi “căn” nhà thờ chật cứng người. Giọng của bà đánh thức chúng tôi khỏi cơn mơ ngủ gật gù để chuyển sang một trạng thái vui tươi hơn. Tôi vô cùng thích cảm giác được đứng giữa cái sân nhỏ, ngửa mặt lên trời rồi vươn vai một cái thật dài… Và nhanh như chớp mắt lũ chúng tôi mất hút vào thứ ánh sáng kỳ ảo như dát vàng trên con đường làng phủ đầy lá tre. Tan giờ kinh, nhà thờ rôm rả tiếng nói cười. Lâu nay, người lớn cũng ham nói chuyện chẳng khác gì chúng tôi ham chơi giữa đêm trăng. Đàn ông thì ngồi quanh chiếc bàn cũ mèm kê ở mái hiên. Chỉ cần một ấm nước trà xanh với bao thuốc lá “Du lịch” là họ có thể ngồi cho đến khi bóng trăng tà tà khuất dần phía đồi bạch đàn cuối xóm. Thường thì họ xoay quanh những câu chuyện về thời vụ hoặc về những chuyện xóm trên, xóm dưới. Đại khái như chuyện nhà ông Năm xóm Ngò mới bị mất một con trâu hay chuyện Bác Doanh mới mua được giống lúa mới khăng dân, nghe nói rất năng xuất… Mấy bà giống như mẹ tôi thì ngồi ở chiếu dưới rôm rả về chuyện hôm nay ai ngắm hay nhất, chuyện cấy hái, hay chợ búa gì đó. Tóm lại, chúng tôi không quan tâm nhiều vì đó là chuyện của người lớn. Điều thu hút đang đợi chờ chúng tôi nằm ở phía “sân kho”. Đó là điểm hẹn bất di bất dịch không chỉ của lũ trẻ nít chúng tôi mà các anh chị thanh niên cũng coi “sân kho” như một nơi để gặp gỡ, giao lưu, chuyện trò. Nhưng tất cả những điều ấy chỉ được thực hiện sau khi giờ kinh tối của cả xóm kết thúc.

Xóm tôi nằm lọt thỏm giữa những quả đồi nhấp nhô. Chúng không quá cao nhưng cũng đủ cho lũ chúng tôi bở hơi tai mỗi khi đi kiếm củi. Xóm trên, xóm dưới đều là xóm lương dân. Chúng tôi và những đứa trẻ của hai xóm ấy ghép lại được ba lớp tiểu học. Lớp học được mượn lại từ ngôi nhà cũ kỹ của một nông trường giải thể. Ở trường, những đứa trẻ xóm đạo chơi co cụm và như rụt rè hơn với những đứa trẻ xóm trên và xóm dưới. Nhưng có một nét không bao giờ lẫn với chúng là chúng tôi không bao giờ nói bậy vì chúng tôi tin nói bậy là “phải tội”. Bọn chúng xầm xì khi thấy chúng tôi làm dấu để chia nhau gói bim bim, hay một thứ gì đó mang từ nhà đi. Khi chúng tôi buột miệng kêu “lạy Chúa” thì chúng nhại cách mỉa mai: “Lạy Chúa...Lạy Chúa…Đúng là một lũ bên đạo…”. Ở trường, ngoài học chữ thì chúng tôi không tìm thấy niềm thích thú nào. Ngoài giờ học, giờ ra chơi thì chúng tôi thích nhất giờ ra về… Về tới xóm nhỏ bỗng lũ chúng tôi đứa nào cũng cảm thấy an toàn và không còn phải e dè trước sau.

Niềm vui đỉnh điểm chỉ xuất hiện khi hoàng hôn đung đưa trên ngọn tre đầu xóm. Ấy là lúc đàn trâu đã no tròn bụng cỏ và đủng đỉnh từ đồng về. Nhanh nhẹn tắm gội, rửa chân, xỏ dép tinh tươm rồi chờ cơm bố mẹ. Có khi chúng tôi trốn cơm để đi nhà thờ…

 Gọi là nhà thờ chứ thực ra đó là nhà của một cụ già nằm ở giữa xóm. Người ta gọi cụ là cụ Thân. Tường nhà thờ làm bằng đất đỏ trộn sỏi, mái được lợp bằng rơm của lúa nếp thơm, mưa nắng đã làm mái xẹp xuống và mục nát. Ngôi nhà thấp lè tè, có xà, có cột nhưng tất cả đều làm bằng tre. Thứ duy nhất được làm bằng gỗ có lẽ là cây Thánh Giá treo phía bức tường đối diện với gian buồng cụ Thân ở.

Xóm tôi chỉ vỏn vẹn 50 hộ gia đình, muốn đến nhà thờ xứ phải đi 20 cây số đường bộ, trời nắng thì bụi, trời mưa thì lầy lội. Chúng tôi rất ít khi được tham dự Thánh lễ.Những lễ trọng thì chỉ có người lớn may ra mới đi dự được. Dân làng trong xóm tôi chủ yếu là trồng chè và hoa màu… quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời mà vẫn không đủ ăn. Cả xóm nhỏ chẳng ai dám mơ ước một ngôi nhà nguyện khang trang. Những người dân lam lũ ấy (trong đó có cả bố mẹ tôi) dù họ không được học rộng hiểu sâu nhưng họ luôn có một tấm bằng : “bằng lòng”, bằng lòng với tất cả những gì Chúa ban. Họ tin rằng: Đấng nuôi từng cánh chim, chăm sóc từng bông huệ, chiều chuộng từng nụ hoa, để ý từng sợi tóc, săn sóc từng giấc ngủ, âu yếm từng mảnh đời (Mt6,25-34; 10,29-30) không bao giờ bỏ những ai yêu mến, tôn thờ Người …Sự phó thác thấm trong từng câu kinh, tiếng hát mà họ dâng lên cho Chúa sau mỗi ngày lao nhọc.

Những ngày ấy, tình làng nghĩa xóm khiến người ta có thể san sẻ ngay cả cái ít ỏi nhất của mình, người ta nói: “Bán anh em xa mua láng giềng gần” cũng chẳng sai. Giống như gia đình tôi và nhà bác Lâm bên cạnh, hễ có gì cũng “bê” cho nhau, khi thì là đĩa bánh đúc nóng hay khi thì là trái bưởi đầu mùa… Khi gia đình nào có đám cưới, đám hỏi thì mỗi nhà lại dúm vào hộ nhau chút gạo nếp hoặc mấy cân thịt…Khi có đám tang thì mọi người chạy tới chạy lui giúp đỡ, người đọc kinh cầu nguyện, người lo bếp núc, người lo đào huyệt, các bà thì ngồi cắt khăn tang hoặc làm bất cứ việc lặt vặt nào đó mà gia chủ không bao quát nổi. Dân làng nghèo nhưng tấm lòng ai cũng chân chất và lương thiện vì họ tin rằng “sống hiền lành Chúa sẽ thưởng công.”Khi còn là một đứa trẻ, tôi đâu thấu đáo được hết những điều ấy. Chỉ khi sống ở nơi đất khách quê người tôi mới thấy thấm thía những gì là tình quê. Nhưng đó là chuyện mãi về sau. Còn bây giờ tôi xin kể tiếp câu chuyện hồi tôi 9 tuổi.

Ngày ấy, tôi hay thắc mắc : “Mẹ ơi, Sao nhà cụ Thân lại gọi là nhà thờ ? Sao cụ lại ở một mình ?”. Mẹ cười cười rồi giải thích : “Cụ đâu có ở một mình,có Chúa ở cùng cụ nên nhà cụ được gọi là nhà thờ”. Tôi ậm ờ như đã hiểu ra lời giải thích của mẹ. Khi đi qua cái tuổi lên 9, tôi mới hiểu trọn câu nói của mẹ. Cụ Thân đã tự nguyện hiến ba gian nhà vách lá để mọi người đọc kinh. Đó là sinh hoạt duy nhất để dân làng đến với Chúa giữ lấy đức tin mà cha ông để lại. Cụ chỉ nuôi một chú chó nhỏ. Ăn, uống, ngủ, nghỉ, cụ đều sinh hoạt tất tần tật trong cái buồng nhỏ xíu có cửa sổ lồi ra, lũ chúng tôi hay thò đầu vào cái “lổ” ấy để xin cụ đủ thứ. Khi thì củ khoai lang luộc, khi thì miếng nước vối mát… Lâu ngày, tôi phát hiện ra căn buồng nhỏ của cụ có duy nhất một chiếc giường là đáng giá hơn cả, một chiếc giường tre ọp ẹp nhất mà tôi từng thấy. Trên chiếc giường mọt chân ấy khi nào cũng có một tràng chuỗi, một cuốn sách kinh nhỏ với dòng chữ “Giáo Phận Bắc Ninh” mà tôi thấy được mờ mờ vì nó quá cũ kỹ.Tôi còn thấy một khung hình nhỏ có hình ai đó rất trẻ mà tôi không biết. Dường như đó là tất cả của cụ.Cụ ở một mình, chẳng biết cụ đã ở vậy từ bao lâu ? Cũng chẳng ai biết nhà của cụ trở thành nhà thờ từ khi nào ? Chỉ biết khi lớn lên, những đứa trẻ chúng tôi đã gắn bó vớingôi nhà và hình ảnh một ông cụ râu bạc, tóc bạc, lông mày bạc mỗi khi đi nhà thờ. Tôi nghe người lớn nói: Cụ cũng có mấy người con nhưng họ tha hương kiếm sống chẳng mấy khi họ về thăm nom. Không ai biết cụ có buồn về điều đó hay không nhưng trên gương mặt hiền từ ấy lúc nào cũng chực sẵn một nụ cười. Chúng tôi khá quậy phá và ồn ào nhưng chưa bao giờ thấy cụ nổi nóng.

Tôi, thằng Tuyên, thằng Hữu và cái Mây luôn là những đứa trẻ đến nhà thờ sớm nhất. Không phải vì chúng tôi ngoan đạo hơn những đứa khác, cũng không phải vì ba mẹ muốn chúng tôi đi sớm nhưng có khi là chúng tôi cố tình trốn đi sớm. Đi nhà thờ sớm đồng nghĩa với việc chúng tôi có chút thời gian dư giả để chạy nhảy và chơi những trò chúng tôi thích. Ra khỏi cổng, chưa bao giờ chúng tôi đến nhà thờ ngay, tôi thủ sẵn một cuộn dây, thằng Tuyên với một bộ khăng hoặc những hòn bi ve… Chúng tôi chỉ dừng lại những trò không biết chán ấy khi có những ánh sáng lập lòe phía bờ ao nhà cụ Thân. Đó là những ánh đèn pin của người lớn đi đọc kinh. Lúc ấy đứa nào đứa nấy không ai bảo ai ngoan ngoãn trờ lại nhà thờ như những chú cừu non được chủ gọi về chuồng.

Giờ kinh của xóm nhỏ bao giờ cũng chật cứng người. Những chiếc chiếu cũ rích, nhãng ra hết cỡ cũng được trải xuống đất. Lũ chúng tôi hay được ngồi vị trí trên cùng gần với bàn thờ nhất. Phải thú thực vị trí ấy tôi chẳng thích thú gì cho lắm. Vì ngồi trên đó là chúng tôi phải kìm hãm những cựa quậy, những cái ngáp dài hay cơn ngủ gật không cưỡng nổi… Dù có cố tỉnh thức đến mấy chúng tôi chưa bao giờ tập trung được trọn vẹn từ đầu giờ kinh cho đến khi kinh trông cậy được cất lên.

Nội đã dạy tôi học kinh, tôi thuộc nhất là kinh Lạy Cha và kinh “trọn tốt, trọn lành” và một số kinh mà do nghe nhiều nên tôi thuộc…Nhưng dường như chưa bao giờ tôi thuộc trơn tru những lời kinh trong cuốn sách nhỏ mà người lớn ngày ngày vẫn đọc. Với đầu óc hay treo ngược cành cây tôi hay tưởng tượng ra đủ thứ khi mà mọi người đang ra rả những lời kinh sốt sắng. Có khi tôi nghĩ ra hình ảnh một con rắn khô mộc chui ra từ mái lá, rớt xuống giữa nhà thờ làm mọi người chạy toán loạn…Cảnh tượng đó chắc sẽ rất tức cười. Dù có giàu trí tưởng tượng đến mấy, tôi cũng không tài nào hình dung ra được là khi ấy tôi còn nghĩ được rằng : Nếu Chúa Giêsu tỉnh lại và nói chuyện với mọi người. Chắc chắn tôi sẽ chạy lại xin Người một đoạn gỗ nhỏ ở chân cây thánh giá kia để tôi đẽo một con quay thật tròn và nhẵn bóng. Tôi sẽ ngẩng mặt cao, khoe với bọn thằng Tèo.Tụi nó luôn cười vào mặt tôi mỗi khi chơi quay vì tôi đẽo quay xấu và chơi quay cũng rất dở. Lúc đó, tôi còn nghĩ nếu tôi xin Chúa một cách lễ phép và khoe với Người về điểm 9 môn chính tả sáng nay, chắc chắn Chúa sẽ gật đầu đồng ý. Hơn nữa tôi là một trong những đứa trẻ chịu đi nhà thờ nhất trái đất này.

Ở cái tuổi lên 9, quả thực tôi thật lắm thứ để tự hào kiểu như thế ! Thường thì những giờ kinh tôi hay chia trí bởi hàng trăm những ý tưởng viển vông, hết sức li kỳ. Có lần thằng Tèo thắc mắc: “Sao người lớn đọc kinh lại không ngủ gật bao giờ nhỉ?”. Khi ấy tôi giải thích như một nhà hiểu biết rằng: Người lớn không ngủ gật vì họ thích đọc kinh như tụi mình thích chơi trận giả vậy. Lúc ấy tôi đâu biết người lớn cũng ngủ gật như thường, chẳng qua là chúng tôi bao giờ cũng gật trước thì làm sao thấy được người lớn ngủ như thế nào? Chỉ đến khi không còn là một đứa trẻ tôi mới biết và biết rất rõ điều này.

Hồi tôi 9 tuổi, người ngủ gật mà tôi phát hiện ra đầu tiên và liên tục không ai khác đó là con Mây. Không hiểu sao nó luôn gọi tôi là anh dù nó sinh cùng năm với tôi. Đi nhà thờ nó cũng luôn chọn chỗ ngồi gần tôi. Có lần tôi giận nó vì đã méc tội tôi để trâuăn xém một góc lúa trong ruộng nhà bà Tám. Tôi nói to cho cả lũ bạn biết: “Tối qua, lúc đọc kinh, cái Mây ngủ gật chảy cả nước miếng”. Nó quê quá liền chống chế giải thích: “Vì tại lúc nhỏ mẹ em cho em uống nhiều nước cơm gạo nên vậy thôi”. Chúng tôi cười sặc vì sự ngây ngô đến dễ thương của nó… Nhưng cũng có một chút thắc mắc: Nước cơm gạo chắc bổ và ngon lắm nên con Mây mới béo trục, béo tròn như vậy?!

Tuổi thơ của chúng tôi cứ lặng lẽ và hồn nhiên như thế. Con đường dài nhất là từ trường về nhà và từ nhà đến trường. Và con đường thích nhất là con đường từ nhà đến nhà thờ. Sở thích đi nhà thờ ấy dù không chính đáng và hợp lý cho lắm nhưng không ai trách chúng tôi vì khi ấy chúng tôi mới chỉ là những cô cậu nhóc con đang tuổi học, tuổi chơi.

Tuổi thơ năm tôi 9 tuổi là thế ! Thủa ấy, tôi lăng xăng đi nhà thờ, đi học, ăn, vui chơi và cười giòn tan trước những niềm vui nho nhỏ, lăng xăng hạnh phúc với những yêu thương tôi nhận được từ người thân quanh mình, từ những người láng giềng và từ những thằng bạn “đầu đội trời, chân đạp đất” khắp cánh đồng trong chiều quê lộng gió.

Năm tháng trôi tuột, bay nhanh như cánh diều đứt dây. Tôi lớn. Chuyện về những đứa nhỏ trong ngôi làng xưa cũng đã bị lãng quên. Nhiều năm sau, tôi quay về xóm nhỏ, căn nhà thờ xưa chỉ còn lại cái nền đổ nát, cụ Thân nằm kế sát, rêu phủ xanh ngôi mộ. Phía trên đỉnh đồi, ngôi nhà nguyện có tháp chuông cao vút đã được xây kiên cố. Tuổi thơ lưu lạc tận nơi đâu nay lại ùa về trong tôi. Rõ nhất là “âm hưởng” của những lời kinh tối và những khuôn mặt sương gió thân quen trong xóm đạo nhỏ bé. Tôi chợt nhận ra một khoảng trống trong mình vì đã để thất lạc đâu đó những thói quen tốt và đánh rơi cả những lời kinh mà tôi thuộc nằm lòng thủa xưa đã rơi rớt theo năm dài tháng rộng. Có khi tôi quên mất mình là một Ki-tô hữu, là người con của xóm đạo năm xưa. Đổ thừa cho cuộc sống có lẽ là quá hèn với một thằng con trai đã đủ trưởng thành. Mọi thứ xung quanh thay đổi hay đúng hơn tôi đã đổi thay ???

Trăng mười sáu tròn như khuôn mặt người thôn nữ, đang rọi sáng ký ức mịt mù trong tôi. Bỗng chợt thấy hiện lên thật rõ nét những bông dâm bụt trước cổng nhà cụ Thú, những bông hoa cả đời chẳng tặng cho ai, chỉ để rực lên một Niềm tin ngày trở về.

 

 


Các bài viết mới hơn
     NHỮNG CÂU HỎI CỦA ĐỨC PHANXICÔ ĐỂ LƯỢNG ĐỊNH LÒNG NHÂN ÁI - Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
     Ghanh Tỵ....... Cơn Khát Vô Cùng Của Nhân Loại - Lyeur Nguyễn
     Tuổi trẻ trong vòng vây của cơn cám dỗ - Giuse Phạm Đình Ngọc . SJ
     Nhà Là Nơi....... Lyeur Nguyễn
     ĐHY Tagle: 7 năm với Đức Phanxicô là một dụ ngôn về sự gần gũi của Thiên Chúa
     Dung Mạo của Lòng Thương Xót_Fr. Huynhquảng
     ĐỌC KINH THÁNH Một “bài tập thiêng liêng”_ Giuse NGUYỄN Văn Lộc, SJ
     GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2016
     SUY NIỆM 20 MẦU NHIỆM MÂN CÔI THEO Ý CHỈ KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO
     100 Truyện tích Chuỗi Hạt Mân Côi - Nguồn gốc, lịch sử chuỗi hạt Mân côi, Kinh Mân côi

Các bài viết cũ hơn
     Chúa Cho Chúng Ta Tái Sinh Để Nhận Niềm Hy Vọng Sống Động
     GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2015-BẢN TIN 10. Lm. Trăng Thập Tự
     GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2015-BẢN TIN 09. Lm. Trăng Thập Tự
     TIỂU SỬ BỐN CHÂN PHƯỚC ĐƯỢC PHONG THÁNH NGÀY 17/05/2015
     GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2015-BẢN TIN 08. Lm. Trăng Thập Tự
     GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2015. Lm . Trăng Thập Tự
     GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2015. Lm Gioan Phêrô Võ Tá Khánh (Trăng Thập Tự)
     ...............HAPPY NEW YEAR 2015................
     Năm Mùi, tìm hiểu Dê trong Kinh Thánh - Năm Mùi vui chuyện Dê trong kinh thánh
     GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2015 - Linh mục TRĂNG THẬP TỰ