Ngày 24 tháng 11 năm 2011
Thánh Anrê Trần An Dũng Lạc (Linh Mục)
và Các Bạn Tử Đạo
(1795 – 1839)
1. Theo gương Thánh Phêrô
Quo vadis, Domine?
Lạy Thầy, Thầy đi đâu vậy?
Trên đường chạy trốn cơn bách hại của bạo chúa Nê-rông đang giáng xuống kinh thành Rôma, vị tong đồ trưởng Phêrô đã bang hoàng thốt lên câu hỏi trên khi bất ngở gặp Chúa Giêsu vác Thập Giá đi ngược chiều với mình.
Sau đó là khoảng khắc im lặng. Sự im lặng tưởng chừng như đến muôn đời sẽ không bao giờ có giây phút nào im lặng như thế. Phêrô như đọc thấy câu trả lời trong ánh mắt của Đức Kitô, có một chút gì giống ánh mắt Ngài đã nhìn mình sau ba lần chối Chúa. Và trong bầu khí thinh lặng đó, chợt vọng tới tai ông giọng nói buồn bã nhưng ngọt ngào:
“Khi anh rời bỏ dân Ta. Ta phải đến Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa”. Phêrô lặng người đi và chợt hiểu…Vi sứ đồ đã ra đi để xa lánh cơn điên cuồng của một bạo chúa, vì những lời nài nỉ chí tình chí thiết của đoàn tín hữu. Họ coi ngài là sức mạnh, là hơi thở, là chỗ dựa. Cần phải sống để tiếp tục mưu ích cho đoàn chiên. Giờ đây, Phêrô được ôn lại bài học vĩ đại nhất của vị tôn sư Giêsu, người thợ mộc làng Narazeth đã chết gục vào tuổi 33 trên Thập giá để cứu chuộc nhân loại.
Thế rồi trong cái khoảnh khắc kỳ diệu đó, thánh Phêrô chợt nhớ ra. Để rồi thay vì những bước chân rời rã, do dự chạy trốn thì giờ đây ngài bước mạnh mẽ, dứt khoát quay lại… để có thể trở nên giống Thầy mình. Từ đó, trên đá tảng Phêrô, Rôma trở nên kinh thành muôn thủa. Đâu có ai thời đó đã nghĩ ra như thế. Vâng, đau có ai thời đó đã hiểu được điều ấy.
Sau lần bị bắt thứ ba, cha Anrê Dũng Lạc như cảm nhận được bài học của thánh Phêrô xưa. Ý nghĩ con người không hẳn đã phù hợp với ý Chúa. Ngài xin tín hữu đừng chuộc ngài nữa, ngài đã chấp nhận hy sinh chính bản than để trở nên một ngọn đèn, góp lửa với nhiều ngọn đèn khác làm chứng cho Chúa trên quê hương yêu dấu này.
2. Ba lần bị bắt.
Sinh ra trong một gia đình ngoại giáo ở Bắc Ninh năm 1795, Trần An Dũng theo cha mẹ vào Kẻ Chợ, nay là Hà Nội. Tại đây vì nhà nghèo, cậu được gán cho một thầy giảng nuôi nấng dạy dỗ và rửa tội với tên thánh là Anrê. It lâu sau, cậu Dũng xin vào chủng viện Vĩnh Trị, ở với cha Tổng đại Diện Lan. Ngay từ đó, cậu dũng siêng năng cần mẫn, có khiếu về thơ phú và giao tiếp với mọi người cách lịch thiệp hòa nhã. Có người cho rằng cậu chỉ đọc qua một đoạn sách hai lần là đã thuộc lòng.
Sau 10 năm làm thầy giảng và ba năm thần học, ngày 15/03/1823, thầy Dũng được lãnh chức Linh mục (cùng lớp với thánh Ngân và thánh Nghi), rồi được bổ nhiệm làm phó xứ Đồng Chuối giúp cha Khiết. Sau đo, về giúp cha Thi ba năm ở xứ Đoàn, rồi lại giúp cha Thuyết ở Sơn Miêng. Cuối cùng, khi cha làm chánh xứ Kẻ Đầm thì bị bắt. Suốt cuộc đời linh mục, cha Dũng sống nhiệm nhặt. Ngoài những ngày ăn chay theo luật của Giáo hội, Cha còn giữ chay suốt Mùa Chay va 2nhiều khi cả các ngày thứ sáu, thứ Bảy quanh năm. Thương xuyên cha chỉ dùng các thức ăn đơn giản. Cha Dũng hết mình với nhiệm vụ chủ chăn, chẳng khi nào thấy cha ngại ngùng việc gì. Cha có lòng ưu ái đặc biệt với người nghèo. Có được của cải gì, cha chia sẻ cho họ hầu hết.
Khi lệnh bách hại của Vua Minh Mạng trở nên gay gắt qua chiếu chỉ toàn quốc ngày 06/01/1833, cha phải ẩn náu tại nhà các bổn đạo, sau trốn lên Kẻ Roi và lập nhà xứ ở đó. Một hôm, cha dâng lễ vừa xong thì quân lính ập tới, cha liền cởi áo lễ và ngồi lẫn trong tín hữu. Lính bắt cha như một trong 30 giáo hữu hôm đó, vì quan quân không biết cha là linh mục. Ông Tổng Thìn bỏ ra 6 nén bạc, nhận cha là than nhân đi dự lễ để chuộc về. Từ đấy, cha đổi tên là Lạc.
Lần thứ hai cha bị bắt khi đến Kẻ Sông xưng tội với cha Thi theo thói quen hang tháng. Lý trưởng Pháp bắt được hai linh mục và mặc cả với giáo hữu phải chuộc với giá 200 quan. Các tín hữu gom góp được 100 quan nên lý trưởng chỉ tha cha Lạc. Thế nhưng, ngay trên đường về, vì gặp mưa gió, thuyền cha phải ghé vào bờ. Căn nhà cha đang trú, lại đang bị quân lính khám xét. Thến là cha bị bắt lần thứ ba và bị giải lên huyện Bình Lục cùng với cha Thi.
Một lần nữa, giáo hữu cùng Đức Cha Rơto Liêu tìm cách chuộc hai cha về, nhưng lần này thấy ý Chú a đã định cho mình, ngài nhắn về với Đức Cha câu chuyện thánh Phêrô hai lần thoát khỏi ngục, đến lần thứ ba, Chúa Giêsu đã yêu cầu ở lại tử đạo tại Rôma và xin các tín hữu đừng lo liệu tiền chuộc làm chi nữa.
3. Được cảm tình mọi giới
Quan huyện Bình Lục đối xử với hai vị linh mục một cách tử tế. Ông truyền dọn cơm cho hai cha bằng mâm bát của mình, bắt lý` trưởng trả lại quần áo đã tịch thu và thanh minh rằng: “Phép triều đình cấm đạo và giết các cụ, chứ không phải tôi. Tôi không có tội gì trong việc này”. Ba ngày sau, quan huyện đưa hai cha xuống thuyền, chuyển về Hà Nội. Các tín hữu thương tiếc đi theo rất đông, hoặc bằng thuyền, hoặc đi bộ trên bờ. Quan lấy làm lạ hỏi: “Đạo trưởng có cái gì mà dân chúng thương tiếc quá vậy?” Một phụ nữ đứng gần đó đáp lại: “Thưa quan, các cha dạy tôi những điều hay lẽ phải, dạy chồng hiền lành, đừng cờ bạc rượu chè, dạy vợ sống thuận thảo với chồng theo như giáo lý trong đạo”. hai vi linh mục khi thây nhiều người khóc lóc tiễn đưa mình, đã dừng lại an ủi và khuyên họ sống đạo cho tốt đẹp.
Tại Hà Nội, sau mấy lần tra hỏi và doa nạt hai vị chứng nhân Đức Kitô không thanh côpng, các quan làm án xin vua xử trảm.
Thời gian trong tù, hai cha chiếm được tình cảm của lính gác, được tôn trọng và đối xử tử tế. Khi nhận được quà tiếp tế, hai cha chia cho linh canh, chỉ giữ lại những thứ tối thiểu. Mỗi buổi sang và buổi tối, hai cha quì bên nhau cầu nguyện lâu giờ. Tuy các tín hữu xin được phép đưa cơm vào tù mỗi ngày, hai cha vẫn tìm cách hãm mình dặn dò đừng mang thịt hay cá làm chi, các ngài vẫn tiếp tục giữ chay ngày thứ hai, thứ tư, thứ sáu và thứ bảy. Những ngày đó, hai cha ăn rất ít, vừa đủ.
Lể Các Thánh (1/11/1839), linh mục Trân đưa Mình Thánh vào ngục. Vừa thấy ngài, cha Lạc đã ra chào đón: “Xin chào bác, tôi đợi bác đã lâu vì hết lương thực rồi”. sau đó, cha cung kính rước lễ và trao Mình Thánh cho cha già Thi.
Cuối năm 1839, khi quan lính đến công bố lệnh xử án, hai cha vui vẻ đón nhận bản án như một phần thưởng trọng hậu. Trên đường đến pháp trường, hai cha yên lặng cầu nguyện. Lúc ra khỏi cổng thành, cha Lạc chắp tay lại, hát lớn tiếng mấy câu Latinh chúc tụng Chúa. Trước phút hành quyết, người lý hình đến nói với cha: “Chúng tôi không biết các thấy có tội gì, chúng tôi chỉ làm theo lệnh trên, xin các thầy đừng chấp”.
Cha Lạc tươi cười trả lời: “Quan đã truyền, anh cứ thi hành”. Sau đó, hai cha xin ít phút để cầu nguyện lần chót, rồi nghiêng đầu cho lý hình chém..
Hai vị đã lãnh phúc tử đạo ngày 21/12 /1839 tại bãi ngoài cửa ô Cầu Giấy (Hà Nội), giáp đường lên tỉnh Sơn Tây. Thi hài của cha Lạc được đưa về an táng tại nhà bà Lý Quý gần đó.
Dức Giáo Hoàng Lêô XIII tôn phong chân phước cho lin mục Anrê Trần An Dũng Lạc ngày 27/05/1900.
Nhớ đến thánh Dũng Lạc, phải nhớ đến những vần thơ ngài tâm sự trong thư viết trong ngục cho cha Thực rằng:
“Lạc rầy đã rõ chốn quân quan
Bút chép thơ này gởi thở than
Lòng nhó bạn, nỗi còn vất vả
Dạ thương khách, chạy chữa yên hàn.
Đông qua tiết lại thì xuân tới
Khổ trảm mai sau hưởng phúc an
Làm kẻ anh hùng chi quản khó
Nguyện xin cùng gặp chốn Thiên Đàng”.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong Chân Phước Anrê Trần An Dũng Lạc lên Bậc Hiển Thánh ngày 19/06/1988
Lời Nguyện:
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho Hội thánh Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng, biết hiến dâng mạng sống để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu mà cho chúng con biết noi gương các ngài để lại: Luôn can đảm làm chứng cho Chúa và trung kiên mãi đến cùng, Amen.