Thánh BRIGITTA
(1303 - 1373)
Thánh Brigitta (hay là Birgitta) sinh ngày 14 tháng 6 năm 1303 tại Upland, Thụy Điển, nơi cha Ngài cai quản, Mẹ Ngài, bà Ingeborg Phinsta, là con của vị quan cai quản miền đông Goythland. Brigitta là con út trong số 7 người con.
Truyền thuyết mặc cho cuộc sinh hạ của thánh nữ nhiều biến cố siêu nhiên.
Ngay trước khi sinh ra thánh nữ, mẹ Ngài đã thoát chết cách lạ lùng trong một cuộc đắm tàu. Một linh mục được thị kiến, thấy "tiếng nói của con trẻ được mọi người nghe theo". Thực tế, Brigitta tới 3 tuổi mới nói được, nhưng lại nói rất sõi làm cho láng giềng phải kinh ngạc.
Lúc lên 7 tuổi, một buổi sáng có bà mặc áo trắng hiện đến đầu giường, tay cầm triều thiên và nói : - Brigitta, con có muốn thiên thần này không ?
Đứa trẻ đáp lời : - Dạ con muốn lắm chứ.
Và Đức trinh nữ đã đội triều thiên lên đầu Brigitta.
Buổi lên mười, Brigitta đã được nghe giảng về cuộc khổ nạn của Chúa, Thánh nữ rất cảm động. Đêm sau, Chúa Giêsu hiện ra, mình đầy thương tích bê nết máu. Chúa nói : - Con xem cha bị đối xử tàn tệ thế nào.
Đau đớn thánh nữ hỏi : - Lạy Chúa, ai làm cho Chúa bị thương tích như vậy ?
Chúa nói : - Những người khinh thường các giới luật và quên lãng tình yêu cha.
Những hình ảnh này không bao giờ phai mờ trong tâm trí Brigitta. Năm 1314 mẹ thánh nữ từ trần. Ngài sống với người dì. Năm 1316, vì vâng lời và ngược với khuynh hướng tự nhiên, thánh nữ kết hôn với Ulj Gudmarsson, 18 tuổi, nghị viên tương lai của vương quốc. Họ sinh được tám người con, 4 trai, 4 gái.
Hai người con trai chết sớm. Karl, người con trưởng nặng tinh thần thế tục, nhưng lại rất kính mến Đức Mẹ. Birger, người con gái thứ hai, lập gia đình. Nhưng sau này trở thành người cộng sự của mẹ và sẽ đem xác mẹ từ Roma về chôn cất tại Thụy Điển. Ba người con gái khác đều lập gia đình Merita và Cêcilia ở lại Thụy Điển. Còn Catarina sau khi mất chồng đã sống với mẹ (Brigitta tạ thế năm 1381 và được tuyên thánh năm 1476).
Người con trai thứ tư, Ingebord đã trở thành tu sĩ dòng Xitô.
Vua Magour vời thánh nữ vào làm cố vấn cho hoàng hậu Blanche. Ngài trở thành người quản gia thứ hai trong triều sau hoàng hậu, nhưng đã cố gắng một cách vô hiệu trong nỗ lực biến cải đời sống của hoàng hậu lẫn của nhà vua.
Sau một cơn bệnh nguy ngập và được Đức Trinh Nữ chữa lành, thánh nữ khuyên chồng rời bỏ triều đình lui về nhà riêng họ đã sống đời gia đình gần như sống trong tu viện.
Brigitta cùng chồng đi hành hương đền thờ thánh Giacôbê ở Compostella. Trên cùng về, ông Ulf lâm trọng bệnh tại tu viện Alvasta. Năm 1943, nghĩa là 28 năm sau ngày cưới, ông qua đời và Brigitta sống đời sám hối gần tu viện Xitô ở Alvasta. Khi sống tại đây thánh nữ soạn một bộ luật dòng, Ngài được kêu gọi thành lập, nhưng sinh thời Ngài không bao giờ thấy được dòng ấy thành hình.
Chính Cararina, ái nữ Ngài, sẽ hướng dẫn nhà dòng phát triển mạnh mẽ, sau khi được Đức Urbanô V châu phê năm 1370 và sau khi thánh nữ qua đời.
Thánh nữ Brigitta được ơn tiên tri và thực hiện nhiều cuộc chữa trị lạ lùng cho Giáo hội và xã hội. Chúng ta biết rằng: khi đã trở thành goá phụ, thánh nữ đã sống đời khổ hạnh, ít ăn, ít ngủ và cầu nguyện không ngừng. Ngài theo đuổi một luật sống nghiêm ngặt và thực hiện đủ công trình bác ái, đến nỗi chính Ngài phải đi ăn xin. Dù vậy, Ngài không rút lui hoàn toàn vào cô đơn.
Ngài được linh ứng và cha tuyên úy của Ngài viết lại bằng tiếng La-tinh dưới tựa đề "mạc khải". Ngài cũng viết nhiều thư tín cho các Đức giáo hoàng, các Đức Hồng y, các nhà cầm quyền để vạch trần những tật xấu của họ, cũng như chỉ vẽ cách thế canh tân đời sống họ. Đối với nhà vua, Ngài chỉ trích các hà khắc và khuyên sống với địa vị của mình. Ngài còn nhờ một giám mục mang thư khuyên hai vua Anh và Pháp hòa giải với nhau. Đối với Đức giáo hoàng Clêmentê VI đang ở Avignon, Ngài xin vị cha chung trở về Roma.
Năm 1349, thánh nữ đi hành hương Roma để dự năm thánh. Nhân dịp này, Ngài xin toà thánh châu phê luật dòng, nhưng từ năm 1215 công đồng Lateranô IV đã cấm lập thêm dòng mới. Đức giáo hoàng Urbanô V lại bỏ Roma sang Avigno sau khi châu phê luật dòng của Ngài, năm 1370. Được ơn soi sáng, năm 1372, thánh Brigitta đi hành hương thánh địa để cầu nguyện cho Giáo hội.
Năm 1373, thánh nữ trở về Roma và từ trần ngày 23 tháng 7. Mười tám năm sau, Ngài được tuyên thánh, ngày 7 tháng10 năm 1391.
Thánh HENRI
(973 - 1024)
Thánh Henri sinh năm 972. Cha Ngài là Henri bá tước xứ Bavière. Mẹ Ngài là Gisèle, con gái của Conrad, vua miền Bourgogne. Để bảo đảm cho việc giáo dục con cái, Ngài được mẹ giao phó cho các thầy dòng ở Mildeshim, miền Saxe, rồi sau đó cho thánh Wolfgang, giám mục Ratisbonne.
Nhưng thật rủi ro, trong một năm, Henri đã chịu hai cái tang cha và thầy.
Thánh Wolfgang từ trần ngày 30 tháng 10 năm 994 và vua Henri từ trần ngày 28 tháng 12 năm 994. Tuy nhiên ở bên kia thế giới các Ngài dường như không ngừng săn sóc Henri. Một truyền thuyết kể rằng: Henri đã mơ thấy thánh Wolfgang hiện ra viết trên tường nhà thờ hai chữ "còn sáu". Tỉnh dậy, Henri nghĩ rằng mình chỉ còn sống được sáu ngày nữa. Ngài vội vã bố thí rộng rãi để chuẩn bị ra trước tòa Chúa. Nhưng rồi hạn định đã qua Henri vẫn sống. Vị bá tước nghĩ rằng Ngài còn sáu tháng để làm việc lành. Sáu tháng trôi qua Ngài vẫn sống. Lần này Ngài nghĩ thời hạn kéo dài 6 năm và cố gắng sống hoàn hảo hơn nữa. Sau 6 năm trong trường nhân đức ấy, Henri bỗng được chọn làm hoàng đế nước Đức -Roma.
Trước khi lên ngai hoàng đế, Henri đã kế vị người cha từ trần, lên làm bá tước miền Bavière. Các lãnh Chúa thân thiết với Ngài. Dân chúng cũng cảm mến Ngài sâu xa. Họ ao ước bá tước trẻ của mình lập gia đình. Nhưng Ngài đã hứa với Chúa sẽ sống độc thân. Vì vâng lời mẹ và dưới áp lực của các lãnh Chúa. Ngài nhận cưới Cunégonda, một thiếu nữ trong số 11 người con của công tước miền Luxembourg.
Nàng có sắc đẹp mặn mà và nhiều đức tính làm cho mọi người mến phục. Sau các lễ nghi cưới hỏi, lúc về chốn riêng tư, Henri mở lời với người bạn đời: - Em yêu, anh không muốn em không hay biết rằng anh đã thề với Chúa sẽ hiến dâng hồn xác phụng sự Ngài, và vì tình yêu Chúa Giêsu Kitô, anh muốn tiếp tục hoàn toàn.
Và Cunégonde vui sướng trả lời: - Chúa công của em, lời khấn hứa, em cũng đã hứa rồi. Thật hạnh phúc, chúng ta có thể trung thành với những ước nguyện của chúng ta.
Đó là đám cưới tinh tuyền của Henri và Cunégonde. Hoàng đế Henri lên ngôi và được Đức Giám mục thành Mayence xức dầu phong vương năm 1002. Mấy hôm sau hoàng hậu Cunégonde cũng được truy phong và đội triều thiên ở giáo đường Paderbonne. Với tính tình vui vẻ, bình dân và đầy lòng bác ái, hoàng đế rất được dân chúng mến chuộng. Nhưng đế quốc Đức - Roma lúc ấy đang thời suy vong và tình hình rất phức tạp. Vì thế việc đầu tiên của hoàng đế là lo giải hoà các cuộc tranh chấp. Trước hết, Ngài nhường quyền bá tước miền Bavière chi Henri, người Luxembourg.
Tuy nhiên có thể nói rằng: suốt đời hoàng đế, Ngài luôn phải lo vãn hồi trật tự trong đế quốc. Ngay khi lên ngôi hoàng đế, Ngài mang quân sang chinh phục đất Ý, là nơi Arduin tự phong làm vua, tách rời khỏi đế quốc. Dẹp tan đối phương ở biên giới, gần núi Alpes, Ngài đã được dân chúng tưng bừng đón rước. Đức Tổng Giám mục Milanô phong vương cho Ngài tại Pavie. Trở về nước Ngài lại phải đối phó với Boleslaw, xứ Balan. Mấy năm sau, Boleslaw bị quân nhà vua đánh tan và Jarômia lên quản trị xứ Balan.
Bất đắc dĩ, vua Henri mới phải dùng đến binh lực, nhưng Ngài luôn tỏ ra nhân từ. Chẳng hạn Hermann vì muốn tiếm ngôi, đã đốt phá thành Strabourg. Trước lời khuyên nên trả thù thành phố dung dưỡng Hermann, hoàng đế trả lời: - Thiên Chúa trao quyền tối thượng cho ta, không phải là mang đến quanh ta những sát nhân và cướp bóc, nhất là không phải để cho ta phải thiệt mất linh hồn.
Lời này đến tai Hermann và ông ta hối cải.
Hoàng đế Henri bảo vệ Đức giáo hoàng Bênêditô chống lại đức giáo hoàng giả. Nhờ Ngài. Đức giáo hoàng nghĩ tới một Giáo hội trần thế, đã trao cho Ngài một trái cầu bằng vàng có cắm thánh giá để biểu trưng quyền hạn trao phó của Ngài, lo cho vương quyền Chúa Kitô phổ biến khắp muôn dân. Trở lại quốc gia, Ngài vội lo dẹp loạn ở Lombardie. Rồi với nhiệt tình, Ngài đã viếng tu viện Cluny. Ơ đó cầu nguyện lâu ngày và tặng cho tu viện món quà của Đức giáo hoàng.
Hoàng đế sống trong cung điện như trong tu viện và chỉ nghĩ tới hòa bình và đức ái. Ngài góp phần cải hóa dân Hungarie bằng việc gả em gái mình cho vua thánh Stêphanô. Để gây thuận hòa giữa các dân tộc, Ngài thực hiện cuộc gặp gỡ vua Robert nước Pháp. Đối với Giáo hội, Ngài lo trùng tu các thánh đường, giúp đỡ các giám mục. Đặc biệt hơn cả, Ngài đã thành lập giáo phận Banberg và chính tại nhà thờ chính tòa giáo phận này Ngài sẽ được mai táng.
Trên ngôi hoàng đế, Ngài luôn trung thành với lý tưởng. Giữa muôn công việc bề bộn, Ngài luôn dành thời gian cho việc cầu nguyện. Tương truyền rằng ao ước lớn lao nhất của Ngài là được sống trong tu viện. Lần kia, Ngài tới thăm tu viện thánh Vanne ở Verdun. Ngài đã xin với chân phước Richasd, tu viện trưởng nhận Ngài làm tu sĩ. Đức Đan viện phụ nói rằng: chỗ an toàn của vị hoàng đế là ở trên ngai tòa hơn là ở trong tu viện. Khi thấy vị hoàng đế khẩn nài, Đức Đan viện phụ hỏi: - Ngài có sẵn sàng thực hiện đức vâng lời cho đến chết không ?
Hoàng đế Henri cương quyết trả lời : - Con sẵn sàng.
Đức Đan viện phụ liền nhận Ngài như một tu sĩ của dòng và nhân danh đức vâng lời, truyền cho Ngài cai quản đế quốc để hiến thân tìm vinh quang Chúa và ông cứu rỗi cho thần dân.
Ngày 15 tháng 7 năm 1024 hoàng đế Henri từ trần, ai khi đã dùng trọn sức lực để xây dựng một đế quốc theo tinh thần Kitô giáo.