CHỦ NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN
Thiên Chúa là Ai? Người phản ứng như thế nào trước tội lỗi của chúng ta? Thánh Kinh cho ta thấy Dung mạo đích thật của Thiên Chúa nơi Lòng Thương xót, nơi Tình yêu tha thứ tất cả. Tuy nhiên, Thiên Chúa không dửng dưng trước tội lỗi: Cựu và Tân Ước nói về “cơn giận của Thiên Chúa” đối với tội lỗi. Đó có thể là một kiểu gọi khác về Tình yêu của Người không?
Xh 32,7-11.13-15
Các bụt thần là những thứ do trí khôn con người tạo ra để mang lại an ninh cho mình. Khi ông Mô sê vắng mặt, người Do thái đã đúc một con bê bằng vàng. Chứng kiến sự việc ấy, Thiên Chúa đã cho ông Môsê hay rằng Người sẽ tiêu diệt họ. Lời cầu xin của ông Môsê đã đem lại họ ơn tha thứ. Chúng ta chỉ biết được dung nhan đích thật của Thiên Chúa nhờ Đức Kitô mà thôi.
Thánh Vịnh 50
Thánh Vương Đa vít đã nhận ra tội lỗi của mình. Ngài đã sám hối, và đã khiêm nhường xin Thiên Chúa tha thứ bằng một tâm hồn tan nát khiêm cung.
1Tm 1,12-17
Trong các thư của mình, Phaolô không ngừng suy niệm về kinh nghiệm nền tảng đã đảo ngược hòan tòan cuộc đời ông. Tuyệt đối trung thành với lề luật, xác tín việc mình làm là đúng, ông đã nhân danh Thiên Chúa ra tay bách hại các kitô hữu. Một ngày nọ, ông đã khám phá ra tính cách nhưng không của lòng Thương Xót của Thiên Chúa và tội lỗi của mình. Từ ngày đó, ông đã thay đổi và trở thành một người nhiệt thành rao giảng Tin Mừng.
Tin mừng Lc 15,1-32 (x. Cn 4 Chay c)
NGỮ CẢNH
Sau khi đã đưa ra những điều kiện cho những ai muốn đi theo làm môn đệ (14,25-35), Chúa Giê su dùng một số dụ ngôn để biện minh cho thái độ của Ngài đối với những người tội lỗi nhằm trả lời cho những trách móc của các người Biệt phái và kinh sư về thái độ thân thiện với những người tội lỗi.
Chương 15 gồm 3 dụ ngôn, tất cả nhằm đề cao tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân qua cách xử thế đặc biệt và lời kêu gọi hóan cải của Chúa Giêsu.
TÌM HIỂU
Thu thuế: ở các câu 5,30 và 7,34 chúng ta đã thấy những người thu thuế bị ghép chung với hạng người tội lỗi, ấy là vì người thu thuế lúc bấy giờ bị xếp vào hàng những kẻ tội lỗi công khai và bị lề luật Do thái loại ra khỏi ơn cứu rỗi. Họ đến với Chúa Giêsu để nghe Ngài với tư cách là những môn đệ đích thực.
Xầm xì: người biệt phái và kí lục xầm xì vì họ xét đoán theo tinh thần luật tinh sạch của họ. Thật vậy, khi hòa đồng với người tội lỗi và ngồi ăn uống với họ, Chúa Giê su đã mắc ô uế theo lề luật. Và xét theo quan niệm của họ về Thiên Chúa, thì chung đụng với bọn người tội lỗi đó không xứng đáng với danh nghĩa một người được Thiên Chúa sai đến. (x. trường hợp ông Phê rô trong Cv 11,3).
Dụ ngôn: từ nầy ở số ít dù sau đó tác giả đưa ra tới ba dụ ngôn ! Có lẽ lúc tiên khởi, chỉ có một dụ ngôn mà thôi.
Mất: chuyện người mục tử chăm sóc cho tất cả bầy chiên thì không có gì lạ, điều lạ là việc ông ta dám bỏ 99 con kia để tìm cứu lấy một con đi lạc !
Hình ảnh ấy rất quen thuộc trong Cựu Ước: mục tử chăn dắt Israel chính là Thiên Chúa. Người hết lòng thương yêu đàn chiên, đặc biệt những con chiên lạc đàn, và không ngừng đi tìm kiếm chúng (Is 40,11; Gr 23,1-4; Ed 34; Tv 23). Chúa Giêsu tự gọi cho mình tước hiệu ấy (Ga 10,11-16). Điều đó cho thấy Ngài không những hết lòng tận tuỵ với người Biệt phái như một mục tử, mà còn yêu thương bằng chính tình yêu Thiên Chúa.
Xin chung vui với tôi: điều gây ngạc nhiên là một con chiên lạc bầy mà lại gây sự chú ý của mọi người! Niềm vui của Thiên Chúa và con người là một trong những chủ đề chính yếu của ba dụ ngôn (x.15,7.9.10.32).
Vậy: Chúa Giê su rút ra giáo huấn của ví dụ bằng cách chuyển sang chủ đề về sự đối lập giữa « người công chính - người tội lỗi » như trong đoạn 5,30-32. Trong khi Mt áp dụng giáo huấn cho trách nhiệm của Hội Thánh đối với những kẻ bé mọn, thì Luca lại tuyên dương lòng từ ái của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi, lòng từ ái đã được Chúa Giê su làm gương khi đón tiếp những người thu thuế.
Vui mừng: làm sao con người chúng ta có thể hiểu được sự vui mừng của Thiên Chúa? Người tội lỗi khi đã được tha thứ sẽ kinh nghiệm về một vì Thiên Chúa mạc khải dung nhan đích thực của Người. Họ nhận ra Người là một vì Thiên Chúa cứu độ đầy lòng nhân ái, đã tạo trong họ một con tim mới. Thiên Chúa vui mừng vì sự nhận biết ấy. Ngược lại, người công chính tưởng rằng mình có thể tự cứu lấy chính mình thì lại có một ý tưởng sai lệch về Thiên Chúa. Thiên Chúa của họ thưởng phạt theo sự công minh chính trực; và dĩ nhiên như thế thì không thể hòa hợp với một vì Thiên Chúa là Tình yêu và Tự do. Do vậy khi có một tội nhân trở về thì trên trời vui mừng hơn.
Người công chính: đây không phải là người công chính đúng nghĩa, nhưng chỉ người tin rằng mình không cần phải sám hối. Chúng ta nhớ lại câu truyện của ông Simôn biệt phái và người nữ tội nhân (7,36-50). Chúa Giê su muốn biện minh cho cách hành xử của mình và đồng thời, cảnh tỉnh những đối thủ của Ngài, bằng cách nhắc cho họ nhớ sự phán xử của Thiên Chúa.
Phụ nữ: sự thay đổi thường thấy nơi sách Tin Mừng Luca: sau người đàn ông, thì tới người đàn bà; sau khung cảnh đồng áng, giờ tới một bà nội trợ (x.13,18-21). Ngoài ra ta hãy chú ý đến sự giảm dần số lượng trong ba dụ ngôn nầy: 100 con chiên, 10 đồng bạc, và một đứa trong hai đứa con.
Mừng vui: ở đây tác giả không đối chiếu hai hạng người tội lỗi và công chính nữa, mà chỉ đơn thuần xác định rằng mọi người tội lỗi trở về làm cho Thiên Chúa vui mừng hơn cả. Sám hối không chỉ bao hàm trong việc thay đổi đời sống, mà còn là việc thay đổi quan niệm, từ một vì Thiên Chúa chinh phục đến một vì Thiên Chúa tự hiến ban chính mình một cách nhưng không. Chỉ như thế, tội nhân mới có một sự hiểu biết đích thực về Thiên Chúa, và một kinh nghiệm về lòng nhân ái của Người. Và đó là điều làm vinh danh Người.
Người con thứ: chỉ có Luca kể lại ví dụ nầy, gồm hai phần nhằm nêu bật cung cách hành xử của người Cha, trước hết đối với đứa con thứ (15,11-24) rồi đến đứa con cả (15,25-32). Cả hai là hình ảnh của hai hạng người đang nghe Chúa Giê su nói: người con thứ tương ứng với những người thu thuế, còn phản ứng của người con cả tượng trưng cho những người biệt phái.
Con chiên đi lạc và đồng tiền bị mất là do lỗi của chủ nhân của chúng, trái lại đứa con hoang đàng bỏ nhà đi là do sự quyết định tự do của nó. Tội là một hành vi tự do của con người.
Đứa con thứ đòi phần gia tài thuộc về nó, tức là một phần ba gia tài theo luật Do Thái. Rồi bỏ cha mẹ, bỏ nhà mà đi hoang cho đến khi phung phí hết tiền của. Tội là đòi hỏi được sống độc lập, đồng thời là một sự vô ơn bất nghĩa, bất tín bất trung xúc phạm đến Thiên Chúa, Đấng ban cho con người mọi ơn lành.
Đang là một người con hạnh phúc trong nhà Cha, giờ trở thành một kẻ làm tôi cho người khác. Tội làm cho con người trở thành một tên nô lệ.
Thôi ta đứng lên, đi về: chính sự túng cực nghèo khổ khởi đầu cho việc trở về nhà Cha (x. Hs 2,8-9). Bắt đầu là suy nghĩ, so sánh tình trạng khốn khổ hiện giờ với tình trạng sung sướng thuở trước, sau đó là quyết định trở về.
Cha: cách hành xử của người Cha cho thấy tình yêu của Thiên Chúa: chính ông chạy đến, chứ không phải là đứa con; không một lời rầy la, cũng chẳng để cho đứa con có giờ xưng thú hết lỗi lầm, ông ra lệnh mang ra những gì quí báu nhất cho con mình. Ông muốn chứng tỏ rằng nó không còn là một người tôi tớ nữa, mà thật sự là một người con đáng được yêu thương kính trọng.
Người Cha ấy là hình ảnh của Thiên Chúa, luôn thương yêu và không ngừng chăm sóc những kẻ từ bỏ lìa xa Ngài. Sự tha thứ của Ngài thật là một sự tái tạo, một tạo dựng mới (Tv 51,10-14). Thiên Chúa mừng vui vì những người tội lỗi sám hối (15,7-10).
Người con cả: cử chỉ thái độ của người con nầy là hình ảnh của những người tự cho là công chính, làm trọn các bổn phận của mình, nhưng trong thâm tâm là ghen tương và khinh bỉ đối với người khác: không nhận em trở về, cũng chẳng coi trọng cha vui mừng đón rước đứa con đi xa trở về
Em con đây: lời nói của Cha muốn nối kết hai đứa con như anh em một nhà.
Sống: trong Thánh Kinh, sự sống có nghĩa là ở trong mối tương quan; trong khi không thể thông hiệp với tha nhân và với Thiên Chúa có nghĩa là đang chết (Tv 88,5-9; 115,5-7). Ở đây tương quan con cái và huynh đệ được tái lập, được coi như sống lại.
Dụ ngôn nầy có giá trị ngay trong ngữ cảnh mà Luca đã đặt vào (15,2). Chúa Giê su muốn biện minh cho cung cách hành xử của Ngài đối với những người tội lỗi: Ngài là chứng tá cho Thiên Chúa tình yêu (10,33-37).
Đồng thời, Ngài mời gọi những người chỉ trích Ngài hãy bắt chước tình yêu đó, là tiếp nhận ngay cả những người mà họ khinh khi.
Đối với các tín hữu tiên khởi, dụ ngôn còn cho thấy mối bận tâm truyền giáo của Giáo Hội, mong muốn cùng Chúa Giêsu đi đến với lương dân để đưa họ vào trong gia đình của Thiên Chúa. Họ cũng đòi hỏi sự bao dung của người Do thái trở lại, những đứa con cả của lời hứa trong việc tiếp nhận các môn đệ từ dân ngoại trở lại.
SỨ ĐIỆP
Bài tin mừng hôm nay, chúng ta đã nghe và đọc rất nhiều lần. Một vài người có thể nghĩ rằng không còn gì để nói nữa. Thế nhưng, nó để lại cho chúng ta một tin mừng: là chúng ta bị chối từ trong tình yêu Thiên Chúa. Điều khẩn thiết nhất, đó là thay đổi, một lần dứt khoát, hình ảnh mà chúng ta có về Thiên Chúa của chúng ta. Rất thường, chúng ta trình bày Người như là một vì Thiên Chúa cảnh sát, hăm dọa và báo oán, luôn sẵn sàng dò xét để bắt lỗi và trừng phạt chúng ta. Các nhìn đó hoàn toàn ngược lại với điều mà tin mừng loan báo cho chúng ta.
Thật thế, tòan bài tin mừng hôm nay nói đi nói lại với chúng ta rằng Thiên Chúa của chúng ta là tình yêu. Và dường như một bài dụ ngôn không đủ, Chúa Giê su kể ba dụ ngôn để cho chúng ta thấy Thiên Chúa là đấng tốt lành và thương xót như thế nào. Lòng thương xót tha thứ của Người thì vô hạn. Chỉ cần nhớ một điều là người tôi lỗi được yêu thương hơn người vô tội. Chúng ta cần hiểu cho rõ: Thiên Chúa không thích tội lỗi. Người luôn luôn chống lại tội lỗi, nhưng yêu thương tất cả các tội nhân. Chúa Giê su đã đến để tìm và cứu chữa những gì đã hư mất. Ngài như thầy thuốc không đến vì những người lành mạnh mà đến vì những người đau yếu. Mối quan tâm lớn của Ngài là chữa lành và đưa họ trở lại gia đình những người ki tô hữu.
Sự chữa lành và tìm kiếm ấy là điểm khởi hành cho một niềm vui vô biên trong trái tim của Thiên Chúa.
Thiên Chúa như người Cha tốt lành nhất, Người yêu thương từng người cách riêng. Người yêu thương từng người chúng ta dường như thể chúng ta là những người duy nhất trên trần gian. Người gắn bó với chúng ta như của quí nhất của Người.
Chính vì thế mà khi sai Con là Chúa Giê su đến thế gian, Thiên Chúa Cha truyền cho Chúa Giê su là đừng để mất một người con nào trong chúng ta. Nỗi đau buồn lớn nhất của Người là một ai đó không nghe tiếng gọi của Người. Thiên Chúa sẽ khổ sở vô cùng khi nhìn thấy một đứa con xa rời tình yêu của Người. Bấy giờ Người làm tất cả mọi sự để tìm lại. Người luôn luôn sắp đặt trên đường những điều cần thiết để giúp nó hồi tâm và nghĩ đến tình yêu mà quay trở về. Chỉ cần đọc hoặc nghe một vài chứng từ của những người trở về để xác tín điều đó.
Tội nặng nề nhất không phải là bỏ đi hoặc sa ngã. Điều tệ hại nhất là tưởng rằng vì tội lỗi chúng ta, chúng ta không còn được Thiên Chúa yêu thương nữa, là nghĩ rằng Người không còn quan tâm đến chúng ta nữa. Thế mà trong chính lúc đó chúng ta được quan tâm nhất.
Bệnh phong hủi, bệnh đui mù của chúng ta lại là những lí do nữa khiến Người yêu thương chúng ta hơn. Tội đích thật là tin rằng chúng ta vĩnh viễn bị lọai trừ. Nhưng đối với Thiên Chúa, không bao giờ có tình trạng tuyệt vọng. Đành rằng tội lỗi làm cho chúng ta trở nên xấu xa, nhưng chúng ta vẫn còn là phần tử của một gia đình lớn gồm các ki tô hữu.
Tội đích thật là quay về chính mình. Như đứa con trai hoang đàng, chúng ta đang ở nơi xa. Chúng ta đi thật xa để trốn cái nhìn của Thiên Chúa. Ai lâm vào tình trạng đó thường có khuynh hướng coi mình như là một kẻ mạt hạng và đành chịu vậy. Nó không thấy điều kì diệu ở trong nó. Tội đích thật là sự tuyệt vọng bởi vì người ta tuyệt vọng về mình và về Thiên Chúa. Một ngày nọ, thánh Tê rê xa nói: “Còn tôi, nếu tôi đã phạm những tội ác, tôi vẫn giữ lòng tin tường bởi vì tôi biết chắc rằng tất cả núi tội lỗi đó chỉ như một giọt nước trong lò lửa nóng mà thôi”.
Trong gia đình của Thiên Chúa, chính Cha có sáng kiến. Người không chờ đợi các tội nhân tỏ dấu hối hận để tìm kiếm họ. Người không ngừng đi bước trước về phía chúng ta. Nhưng cũng như Ađam trong vuờn địa đàng trần gian, chúng ta có cám dỗ chạy trốn cái nhìn của Cha và che giấu sự hỗ thẹn của chúng ta. Trong trường hợp nầy cũng thế, tội đích thật chính là bịt tai lại trước lời mời gọi hối cải của Thiên Chúa, là không muốn được chữa lành và cũng không còn muốn đặt lại vấn đề nữa.
Đứa con hoang đàng hồi tâm. Nó ý thức tình trạng của nó. Nó đã quyết định chỗi dậy và về cùng Cha nó. Sự trở về nầy phát xuất từ những động cơ lợi lộc nhưng không sao. Trái lại, sự đau khổ mở mắt cho những người nào không muốn nhìn. Từ một điều xấu, Thiên Chúa luôn có thể làm nẩy sinh ra một điều lành. Tội đích thật là từ chối tin vào tình yêu, là nghĩ rằng chúng đã bị tiêu diệt, và vô phương cứu chữa.
Tội là một bất hạnh khủng khiếp. Nhưng toàn bài tin mừng hôm nay được soi sáng bởi một niềm vui lớn. Đó là niềm vui của người chăn chiên tìm lại được con chiên đi lạc: đó là niềm vui của người đàn bà tìm lại đồng bạc mình đánh mất. Và trên hết là niềm vui của Thiên Chúa khi tìm lại được đứa con đã mất. Người sung sướng đến độ phải mở tiệc ăn mừng. Đó là một tin vui cho những người tội lỗi chúng ta, vì nhiều khi thật khó mà tin rằng chúng ta được lãnh nhận không phải trả một đồng nào. Chúng ta quên rằng Đức Ki tô đã mang lấy tất cả nợ nần của chúng ta. Chỉ cần chỗi dậy và nhảy vào đôi tay yêu thương của Thiên Chúa.
Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì muôn ơn tha thứ mà chúng ta đã tiếp nhận và cầu nguyện cho những ngưởi đang cần đến; ước gì họ hãy tin tưởng đến cầu khẩn ơn tha thứ nơi Đấng không đòi gì khác hơn là ban ơn cho họ.