Suy
Niệm Lời Chúa Chúa Nhật Tuần XVII Thường Niên B
Hai mươi chiếc bánh dọn cho
một trăm người ăn no nê và còn dư thừa. Quả thật Ê li sê là người Thiên Chúa
sai đến nuôi sống những người nghèo giữa thời đói khổ. Nhưng bằng ấy thì chưa
thấm vào đâu với vị TIÊN TRI thời Tân Ước, Ngài nuôi năm ngàn người chỉ bằng
năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ. Người ta ăn no, mà vẫn còn dư thừa những mười
hai thúng đầy. Chỉ có quyền năng của Thiên Chúa mới có thể làm được những việc
lớn lao như thế. Quả thật, Chúa Giêsu chính là vị Tiên tri đích thực của Thiên
Chúa đến cứu độ trần gian. Đó chính là Tin mừng gửi đến cho thế giới hôm nay.
Sách
Các Vua:
Trong Cựu Ước, chúng ta tìm
gặp một mẫu phép lạ mà Đức Ki tô thực hiện được kể lại trong các sách Tin Mừng.
Ở đây, tác giả kể lại rằng Ngôn sứ Ê li sa hóa bánh đủ nuôi 100 người ăn giữa
nạn đói đang hoành hành khắp xứ. Tất cả các phép lạ đều là một dấu chỉ của Tình
yêu Thiên Chúa đối với dân Người. Phép lạ hóa bánh của Ê li sa báo trước phép
lạ mà Chúa Giê su sẽ thực hiện để nuôi đám dân đi theo Ngài.
Thánh
vịnh 144:
Cùng với tác giả, chúng ta
hãy ca tụng và chúc khen Thiên Chúa đã mở rộng đôi tay để ban phát dư đầy cho
những người đang sống. Bài ca này là lời Tạ ơn và Chúc tụng sự quan phòng của
Chúa.
Thư
Ê phê sô:
Thánh Phao lô mời gọi chúng
ta chịu đựng lẫn nhau bằng tình yêu và và lòng khiêm tốn. Chúng ta được kêu gọi
qui tụ lại trong Bình An. Chúng ta hãy dùng những sự khác biệt mà làm phong phú
cho nhau để tạo thành một thân thể và một tinh thần với Chúa Giêsu, Ngài sẽ dẫn
chúng ta đến cùng Cha Ngài.
Tin
Mừng: Ga 6, 1-15
NGỮ
CẢNH
Từ Chủ nhật này và năm Chủ
nhật tiếp theo, bài đọc 3 chuyển qua sách Tin Mừng Gioan chương 6: trình thuật
hoá bánh ra nhiều và diễn từ về Bánh sự Sống. Trình thuật “dấu chỉ” được xây
dựng thành 4 phân đoạn cân đối nhau. Phần đầu (cc. 1-2) và phần cuối (cc. 14-15)
kể lại những tương quan mờ nhạt giữa Chúa Giêsu và đám đông: họ bị các dấu chỉ
lôi cuốn, và vì không hiểu sứ điệp nên muốn tôn phong Chúa Giêsu làm vua. Còn
Chúa Giêsu thì thực hiện một dấu chỉ nữa, có tính quyết định đưa đến sự đoạn
tuyệt: Ngài rút lui một mình. Ở phần trung tâm, trình thuật gồm phần chuẩn bị
(cc. 3-9) và phần chính (cc.10-13).
TÌM
HIỂU
Sang bên kia biển hồ: vị trí
địa lí của chương 6 tỏ ra hợp lí hơn nếu đặt liền sau chương 4. Thật vậy,
chương 5 trình bày Chúa Giê su ở Giêrusalem.
Có đông đảo dân chúng: trong
Tin Mừng thánh Gioan, đây là lần đầu tiên dân chúng tự phát kéo đến với Chúa
Giê su (6, 5). Các tác giả Tin Mừng khác thường nói đến các đám đông vây chung
quanh Chúa Giê su.
Dấu lạ: Gioan đã kể 3 dấu lạ
do Chúa Giê su thực hiện (2,1-12; 4, 43-54; 5, 1-16). Ở đây ông ám chỉ đến các
dấu chỉ khác như trong 2, 23; 3, 2. Rõ ràng Gioan biết nhiều phép lạ khác trong
Tin Mừng nhất lãm tuy ông không qui chiếu đến.
Núi: trong Thánh Kinh, núi
có một ý nghĩa tôn giáo. Chúa Giêsu thực hiện trên núi nhiều hành vi nói lên sứ
mạng của Ngài (Mt 5: bài giảng thứ nhất; Mt 17 và song song: biến hình..). Chỉ
có Ga và Mt 15, 29 đặt dấu chỉ hoá bánh ra nhiều trên núi. Do đó đây là một
hành vi Chúa Giêsu tự mạc khải cho thấy Ngài thực hiện lời hứa thiết đãi một
bữa tiệc thời cánh chung cho muôn dân trên một ngọn núi (Is 25, 6).
Ngồi đó: Như trong Mt 5, 1
và 15, 29, ở đây Chúa Giê su ngồi: đó là tư thế của người giảng dạy. Như ông
Môsê mà chính Chúa Giêsu đã tự so sánh (6, 31-32), Chúa Giêsu nuôi dưỡng và
giảng dạy đám đông.
Sắp đến lễ Vượt qua: ghi chú
này rất quí giá theo thời biểu, nhưng nhất là về phương diện thần học. Các Tin
Mừng nhất lãm đặt việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể trong bầu khí Vượt qua. Còn
Gioan thì bỏ trình thuật ấy và đặt vào dịp gần lễ Vượt qua diễn từ trong đó
Ngài tự gọi chính mình là “bánh hằng sống” và loan báo công việc mà Ngài sắp
thực hiện qua cái chết và sống lại.
Bánh: thấy đám đông dân
chúng, Chúa Giêsu chuẩn bị thực hiện một hành vi có ý nghĩa, bằng cách cho họ
ăn bánh. Trái với Mc và Lc (theo đó thì Chúa Giêsu giảng dạy trước rồi sau đó
mới cho ăn), trong Gioan, Chúa Giêsu bắt đầu bằng một dấu chỉ có thể gợi lên
nhiều câu hỏi. Bài diễn từ theo sau sẽ cho thấy tầm quan trọng của nó.
Để thử ông: động từ “thử
thách” trong Hy-lạp chỉ được Gioan dùng ở đây và trong 8, 6, trong khi ở các
Tin Mừng khác nó rất thường xuất hiện. Phi-líp là người trước tiên bị Chúa Giêsu
thử thách lòng tin: Phi-líp chờ đợi gì từ Chúa Giêsu?
Ngài đã biết: Chúa Giêsu là
người có sáng kiến. “Ngài biết rõ Ngài sẽ làm gì”, không những để nuôi đám
đông, nhưng còn để soi sáng đức tin ngang qua dấu chỉ bánh và sau đó ngang qua
giáo huấn mà Ngài sắp thực hiện.
Hai trăm quan tiền bánh: đây
là số tiền lương của hai trăm ngày công. Luôn luôn có sự khác biệt giữa lời
Chúa Giêsu nói và cách hiểu đầu tiên của những kẻ nói chuyện với Ngài (3, 4; 4,
8-9; 7, 34-35; 13, 8-9). Chúa Giêsu gợi lên một câu hỏi để mở vào mầu nhiệm của
ơn cứu độ.
Anrê: là người dẫn Phê rô
đến với Chúa Giê su (x.1, 40).
Có em bé: chỉ có Gioan nói
về em bé này, và cũng chỉ có ông mới cho biết chính xác đó là chiếc bánh lúa
mạch, cũng như trong phép lạ tiên tri Ê-li-sê (2 V 4, 42). Trong cả hai trường
hợp con người tích cực đóng vai trò của mình trong việc hình thành dấu chỉ.
Cũng như trong Giáo Hội: Chúa Giêsu liên kết các môn đệ với giáo huấn cũng như
với hành động cứu thế của Ngài.
Có nhiều cỏ: “Chúa là Mục tử
tôi,.. trên đồng cỏ xanh tươi, Ngài cho tôi nằm nghỉ” (Tv 23, 1-2).
Phân phát: tác giả Gioan
nhấn mạnh đến tính cách phong phú của ơn ban khi nói rằng: “Ai muốn ăn bao
nhiêu tuỳ ý”.
Mười hai thúng: các con số:
năm chiếc bánh, hai con cá, năm ngàn người ăn, mười hai thúng, giống như trong
các Tin Mừng khác.
Làm vua: khi hoá bánh ra
nhiều cho đám đông được ăn uống no nê, Chúa Giêsu đã hành động vì thương xót.
Nhưng người ta đã muốn tôn Ngài làm vua. Ngài từ khước vương quyền trần gian,
như Ngài đã từ khước theo trình thuật Mathêu (4, 8) “tất cả các nước cùng với
vinh quang của chúng”. Chỉ trong vinh quang của ngày Lễ Lá, Ngài mới chấp nhận
lời tung hô của dân chúng (12, 13), và rồi trước mặt Phi la tô, Ngài dè dặt
chấp nhận là vua (18, 33-37).
Một mình: theo các Tin Mừng
nhất lãm là để chuẩn bị cho sứ mạng.
SỨ
ĐIỆP
Chia sẻ
Chủ nhật này chúng ta nghe
những bài đọc mời gọi và thúc đẩy chúng ta vươn tới trước. Trước tiên, là bài
đọc Sách các Vua quyển thứ nhất. Nó đưa chúng ta trở về thời kì đất nước bị nạn
đói hoành hành. Một người đến dâng cho tiên tri Ê-li-sê 20 chiếc bánh lúa mạch
và một bao bột mì. Nhưng vị tiên tri không giữ lại cho mình mà truyền dạy: “Hãy
mang cho tất cả những người ấy để họ ăn”. Vâng, nhưng làm sao có thể nuôi hơn
một trăm người với ít thức ăn như thế?
Ngày hôm nay, vấn đề không
còn là nuôi vài trăm người thậm chí một đám đông, nhưng là cả một vùng rộng lớn
gồm nhiều dân tộc đang là nạn nhân của chiến tranh, nạn diệt chủng và nạn đói
khát triền miên. Không còn là con số hai trăm ngày lương để nuôi sống họ. Nhu
cầu là hằng trăm tấn lương thực, hằng triệu lít nước, hằng tấn thuốc men. Đó là
một sự khẩn cấp tuyệt đối vì hằng triệu người đang chết đói. Trước thảm cảnh
đó, thỉnh thoảng chúng ta nghe có người trách Thiên Chúa: Ngài đang ở đâu, đang
làm gì? Tại sao Ngài lại để quá nhiều người trong một hoàn cảnh khốn cùng như
thế?
Chính vì thế mà chúng ta
phải trở lại trang tin mừng chủ nhật hôm nay. Nó cho chúng ta thấy cái nhìn của
Chúa Giêsu trên đám đông đang đói khát. Ngài nhìn thấy họ mệt lả, kiệt sức. Họ
cần mọi sự nhưng trước tiên họ cần bánh ăn. Đứng trước nỗi khốn khổ ấy, Ngài
chạnh lòng thương và quảng đại ra tay cứu vớt. Ngài sẽ phục vụ họ một bữa ăn
bánh cá no nê và thừa mứa. Sẽ có đủ thức ăn cho tất cả mọi người, thậm chí còn
dư mười hai thúng cho các đám đông khác. Người Ki tô hữu muốn làm tông đồ cho
anh em mình không được quên những nhu cầu thiết yếu ấy của con người. Đức Giáo
Hoàng Piô XI nói rằng cần phải có một mức sống tối thiểu để có thể lắng nghe
lời Thiên Chúa. Trong lịch sử Giáo Hội, người ta thấy có những vị thánh bắt đầu
hành động bằng cách tấn công vào sự đói nghèo vật chất. Nhiều cộng đoàn đã dành
ưu tiên cho những người nghèo nhất. Đối với một người ki tô hữu, đó là cách gắn
bó với lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho những người nghèo khổ nhất. Dĩ
nhiên, vấn đề không phải là dụ người ta theo đạo. Cứu giúp người khác không
phải để chiêu dụ họ trở thành ki tô hữu và lãnh nhận bí tích rửa tội, nhưng chỉ
vì yêu thương họ như Thiên Chúa đã thương xót tất cả mọi người và muốn cứu
thoát họ ra khỏi cảnh nghèo đói.
Trong bài Tin Mừng, chúng ta
để ý vai trò quan trọng của một em bé. Em có ý kiến hay là đóng góp phần ăn của
mình, năm chíếc bánh và hai con cá. Tin Mừng không nói cho chúng ta biết em đã
phản ứng như thế nào khi người ta đề nghị em chia sẻ. Dù sao thì Chúa Giê su
sắp dùng phần đóng góp khởi đầu nhỏ bé ấy. Ngài muốn tỏ cho chúng ta thấy rằng
Thiên Chúa không làm gì mà không có chúng ta. Người đòi chúng ta một cử chỉ nhỏ
để Người sẽ đáp lại bằng một hành động vĩ đại. Nếu chúng ta chấp nhận chia sẻ
phần dư thừa, hoặc cả cái cần thiết của mình nữa, thì Thiên Chúa sẽ nhân lên
gấp bội ơn ban của Người.
Đứng trước sự dữ trên thế
gian, Thiên Chúa không bất lực khoanh tay ngồi nhìn. Ngài ban cho chúng ta một
hành tinh với nhiều khả năng và tài nguyên bao la. Người đã ban cho chúng ta
một trí khôn để nhân lên khối tài nguyên ấy. Vấn đề lớn đó là con người không
biết sống chung với nhau như anh em. Thay vì chia sẻ, họ đã phung phí, đánh
nhau, phá hủy của cải có thể cứu sống nhiều triệu người khác.
Hai bài đọc muốn chất vấn
chúng ta về vị trí mà chúng ta dành cho tất cả những người bị loại khỏi xã hội
và thế giới chúng ta. Ngang qua họ, chính Đức Ki tô đang hiện diện và rất
thường, chúng ta không nhận ra Ngài. Một ngày nọ, Ngài đã nói: “Ta đói, nhưng
các ngươi đã cho (hoặc không cho) ta ăn.
Cứ mỗi lần các ngươi cho một người bé nhỏ nhất là các ngươi làm cho chính ta”
(Mt 25). Đức Kitô đứng về phía những người đang đau khổ vì bệnh tật, chiến
tranh và đói khát, chúng ta có nhận ra Ngài không?
Chúng ta hãy đón nhận những
bài đọc này như một lời mời gọi thay đổi cái nhìn chúng ta về thế giới, và có
một cái nhìn giống như Đức Kitô. Vấn đề là chúng ta phải liên kết với Ngài
trong chương trình cứu giúp tất cả mọi người và mang đến điều tốt nhất của
chúng ta. Ngài ở với chúng ta gần hơn là chúng ta tưởng. Không những Ngài ban
cho chúng ta khả năng nuôi sống chính mình Nhưng khi tự hiến thành lương thực,
Ngài muốn làm dịu cơn đói khát của nhân loại. Điều kiện duy nhất là tất cả mọi
người cộng tác vào công cuộc yêu thương của Ngài.
ĐÀO
SÂU
1. HỎI: Sách các Vua là sách gì?
THƯA: Đây là những quyển sách được xếp vào loại
“Sách Sử”, ghi chép lại lịch sử song song ở hai Vương quốc trong năm thế kỷ, từ
thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên. Sau khi Vua Salomon qua đời
năm 933, Ít-ra-en bị chia thành hai vương quốc: Vương quốc phía Bắc gọi là Ít-
ra-en, và vương quốc phía Nam là Giu-đa.
2.
HỎI: Sách các vua chép sử để làm gì?
THƯA: Sách các vua
được xếp vào loại sách sử, nhưng không phải là những quyển sách sử theo nghĩa
hiện đại là cố gắng ghi chép chính xác và khách quan hết sức có thể. Trái lại
sách các Vua chép sử là nhằm rút ra một bài học giáo lí cho độc giả. Qua những biến
cố được kể lại, tác giả cho thấy chỉ có lòng trung tín với giao Ước mà Thiên
Chúa đã ký kết mới bảo đảm hạnh phúc cho dân mà thôi.
3. HỎI:
Tiên tri Ê-li-sa là ai?
THƯA: Êlisa thực hiện
sứ mạng tiên tri ở Vương quốc phía Bắc vào giữa khoảng những năm 850 và 800.
Ông là con thiêng liêng và là người kế thừa tiên tri Êlia. Các tác giả Kinh
thánh gán cho ông những quyền phép giống như một tiên tri lớn. Về sau khoảng
năm 200 trước CN, sách Huấn ca có tóm tắt cuộc đời ông như sau: “Khi ông Êlia
được ẩn trong cơn lốc, thì ông Êlisa được đầy thần khí của người. Suốt đời ông
Êlisa, không thủ lãnh nào có thể làm ông lung lạc, cũng chẳng ai khuất phục
được ông. Đối với ông, chẳng có gì là quá sức, ngay cả khi ông đã qua đời, thân
xác ông vẫn còn giữ năng lực của một Ngôn sứ. Lúc sinh thời, ông đã làm nhiều
dấu lạ, sau khi chết, ông vẫn còn thực hiện những điềm thiêng” (Hc 48, 12-14).
4.
HỎI: Điểm nổi bật trong sứ vụ tiên tri Ê-li-sa là gì?
THƯA: Ông không để lại
cho hậu thế một tác phẩm nào. Sở dĩ ông nổi tiếng và được người đời sau ca
tụng, đó là nhờ các phép lạ của ông được ghi lại trong sách các Vua quyển thứ
2. Trong số đó có các phép lạ như: ông đã lấy áo choàng thầy mình đập xuống
nước sông Giođanô, và nước rẽ ra để ông đi qua (2V2,14); ông dùng muối và làm
cho nước độc hóa lành (2 V2, 19); ông can thiệp nhiều lần cho gia đình bà
Sunêm, nhất là cho con trai bà sống lại (2 V4, 8); cho dầu đầy bình cứu giúp
người đàn bà nghèo khổ trả nợ và sinh sống (2 V4, 1-7). Nổi tiếng hơn cả và
được nhắc lại trong phụng vụ là phép lạ cho bà Sunêm sinh con trai (2 V4, 8-16)
và phép lạ cứu chữa tướng quân Syria khỏi bệnh phong cùi (2 V5).
5.
HỎI: Phép lạ hóa bánh trong bài đọc 1 có ý nghĩa gì?
THƯA: Một lần nữa,
tiên tri Ê-li-sa hành động trong bối cảnh cứu giúp người nghèo khổ. Trong khi
phương tiện con người bất lực để giúp đỡ những người lâm cơn đói kém thì Êlisa
vẫn tin tưởng vào quyền phép của Thiên Chúa. Hai mươi chiếc bánh lúa mạch thì
thấm vào đâu cho hằng trăm người đang đói, nhưng ông vẫn truyền lệnh cho đầy
tớ: “Cứ phát cho người ta ăn! Vì Đức Chúa phán thế này: “Họ sẽ ăn, mà vẫn còn
dư”. Đúng như lời Thánh Vịnh 144/145: “Thiên Chúa gần gũi những ai kêu cầu
Ngài, gần gũi với tất cả những ai kêu cầu Ngài với lòng thành thật”.
6.
HỎI: Phép lạ trong Kinh Thánh gồm có những yếu tố nào?
THƯA: Tất cả các phép
lạ trong Cựu Ước cũng như trong Tân ước luôn có bốn yếu tố sau đây: một là hoàn
cảnh thật sự cần thiết: như bệnh tật, chết chóc, đói khát..; hai là một hành vi
tự do, như ở đây một người đem bánh biếu ông Êlisa; ba là cầu xin người của Thiên
Chúa giúp đỡ, ở đây là tiên tri Ê-li-sa; và bốn là tin vững vàng rằng Thiên
Chúa sẽ cứu giúp.
7.
HỎI: Bài đọc một liên kết với bài Tin mừng (Ga 6, 1-15) như thế nào?
THƯA: Phép lạ tiên tri
Ê-li-sa thực hiện trong bài đọc một là hình ảnh báo trước phép lạ hóa bánh ra
nhiều của Chúa Giê su được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay (Ga 6, 1-15). Cả
hai có những điểm chung như sau: lương thực “quá ít” không thấm vào đâu với đám
đông; lệnh ban phát bánh, bữa ăn và số thực phẩm còn dư lại.
8.
HỎI: Có khác biệt nào giữa hai phép lạ nói trên không?
THƯA:
Tuy
có nhiều điểm chung, giữa hai phép lạ có nhiều khác biệt quan trọng. Trong Tin
Mừng, phép lạ của Chúa Giêsu quan trọng hơn vì không có nguồn cung nào khác ngoài
số bánh do Chúa Giêsu ban phát, số người ăn cao hơn, và pháp lạ được thực hiện
bởi quyền năng của Thiên Chúa chứ không do lời sấm.
9.
HỎI: Ngữ cảnh bài Tin mừng (Ga 6, 1-15) như thế nào?
THƯA: Sau phép lạ chữa
người bại liệt tại hồ nước Bết-da-tha (5, 1-18) Chúa Giêsu giảng dạy về công
việc mà Con Thiên Chúa thực hiện (5, 19-47). Sau đó, Ngài thực hiện dấu chỉ hóa
bánh ra nhiều cho đám đông ăn no (6, 1-15).
10.
HỎI: “Có đông đảo dân chúng đi theo Ngài” (c.2) chi tiết ấy cho ta thấy điều
gì?
THƯA: Thánh Gioan cũng
đã có một nhận xét tương tự trong câu 2, 23. Đám đông đi theo Chúa Giêsu vì đã nhìn thấy các phép lạ
Ngài làm cho những kẻ đau ốm. Gioan gọi các phép lạ là dấu chỉ mời gọi người ta
cần phải vượt qua hiện tượng lạ lùng bên ngoài để đi đến ý nghĩa đích thực bên
trong. Đám đông bị thu hút bởi các phép lạ mà không hiểu ý nghĩa nên đã đi theo
Chúa Giêsu vì tò mò hơn là vì đã thực sự tin vào Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế.
11.
HỎI: “Chúa Giê su lên núi và ngồi đó với các môn đệ” (c.3). “Núi” làm cho độc
giả liên tưởng đến điều gì?
THƯA: Chúa Giêsu dẫn
đám đông và các môn đệ lên “núi”. “Núi” mà Thánh Gioan nói đến ở đây không chỉ
một ngọn núi nào cụ thể, mà chỉ muốn độc giả hiểu rằng giờ của bữa tiệc cánh
chúng mà tiên tri Isaia loan báo đã điểm: “Ngày ấy trên núi nầy, Đức Chúa các
đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc, tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon..” (Is 25,
6). Trước đám đông đang đói khát lương thực nuôi sống, Chúa Giê su thực hiện
dấu chỉ cho thấy ngày mà họ hằng mong đợi đã đến.
12.
HỎI: Bối cảnh lễ Vượt qua gần đến mang lại cho câu truyện ý nghĩa nào?
THƯA: Bầu khí sôi động
lên cao điểm trong những ngày trước lễ Vượt Qua. Biến cố giải phóng trong quá
khứ (khỏi ách nô lệ Ai cập) dưới mắt mọi người sẽ làm tiền đề cho sự giải phóng
vĩnh viễn mà Đấng Messia sẽ mang lại. Chính vì thế mà Thánh Gioan đã cẩn thận
ghi chú: “Lúc ấy sắp đến lễ Vượt qua là đại lễ của người Do thái” (c. 4) để
nhấn mạnh yếu tố quan trọng của mầu nhiệm Vượt qua trong việc hiểu ý nghĩa phép
lạ hóa bánh ra nhiều. Cái chết của Chúa Giêsu có ý nghĩa như là sự trao hiến
thân mình để trở nên Bánh đích thật đem lại sự sống.
13.
HỎI: Theo Tin Mừng Gioan, thì đây là Lễ Vượt qua lần thứ mấy trong cuộc đời
Chúa Giêsu?
THƯA: Tin
mừng Gioan ghi lại ba lễ Vượt qua:
1) Lễ Vượt qua thứ nhất:
Chúa Giê su thanh tẩy đền thờ ngay sau khi dự tiệc cưới Ca-na (Ga 2,13-23).
2) Lễ Vượt qua thứ hai: Chúa
Giê su hóa bánh ra nhiều (Ga 6, 4), được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay.
3) Lễ Vượt qua thứ ba: cuộc
khổ nạn (Ga 11, 55). Như thế đây là lễ Vượt qua thứ hai trong cuộc đời Chúa Giê
su.
14.
HỎI: Bài tin mừng kể lại việc hóa bánh ra nhiều có liên hệ gì với trình thuật
bí tích Thánh Thể không?
THƯA: Có. Trước tiên,
thánh Gioan mô tả hành động của Chúa Giêsu thực hiện phép lạ giống như khi Ngài
lập bí tích Thánh Thể trong bữa tiệc ly: “Ngài cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn,
rồi phân phát cho những người ngồi đó” (c. 11. So sánh với các trình thuật Bí
tích Thánh thể: Mt 26, 26; Mc 14, 22; Lc 22, 19; và 1 Cr 11, 25). Kế đến các
động từ “tạ ơn và phân phát”, và cuối cùng các từ “thu lại những miếng thừa”
đều thuộc về nghi thức cử hành Thánh Thể.
15.
HỎI: Câu “Ngài nói thế là để thử ông (Phi-líp)” (c. 6)có nghĩa gì?
THƯA: Thánh Gioan giải
thích câu hỏi của Chúa Giê su: ‘Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?’ chỉ là để
thử Phi líp vềđ ức tin của ông cũng giống như Thiên Chúa đã ban ma-na trong sa
mạc vừa là dấu chỉ cho thấy quyền năng của Ngài, vừa là sự thử thách niềm tin
của dân Chúa trong sa mạc.
16.
HỎI: Có chi tiết nào trong câu 9 nhắc lại phép lạ của Ê-li-sa (bài đọc một)
không?
THƯA:
Có
các chi tiết sau đây: “em bé” và “năm chiếc bánh lúa mạch” nhắc lại phép lạ của
tiên tri Ê-li-sa, nhằm nêu bật sự bất lực của con người và đề cao quyền năng
Thiên Chúa.
17.
HỎI: Tại sao Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ “gom lại = qui tụ” những miếng
bánh thừa (c.12) ?
THƯA:
Trong
khi Mác cô dùng động từ ‘nhặt lại’ những miếng bánh vụn thì tác giả Gioan dùng
động từ “gom lại = qui tụ” trong câu 12 nhằm nhắc lại Bí tích Thánh Thể có mục
đích “qui tụ các con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11, 52).
18.
HỎI: Tại sao khi thấy dấu lạ Chúa Giêsu làm, đám đông nói: “Hẳn ông này là vị Ngôn
sứ, Đấng phải đến thế gian!” (c. 14) ?
THƯA: Vì người Do thái
hằng mong đợi là vào thời thiên sai, phép lạ man-na sẽ tái diễn. Vì thế khi
Chúa Giê su hóa bánh ra nhiều, dân chúng liền nhận ra ngài là “vị Ngôn sứ phải
đến trong thế gian.
19.
HỎI: Tại sao Chúa Giê su lánh mặt đám đông đi lên núi một mình (c. 15)?
THƯA: Chúa Giêsu lánh
mặt đi lên núi một mình vì thấy đám đông sắp đến bắt Ngài tôn làm vua. Chúa
Giêsu lẫn tránh họ, vì họ đã theo giấc mộng thiên sai trần tục, đã tìm kiếm bánh
của họ, chứ không tìm kiếm bánh mà Ngài ban cho. Qua việc ấy, Chúa Giêsu cho
thấy quan niệm thiên sai của Ngài và lương thực Ngài muốn ban cho loài người
thuộc một bình diện khác.
20.
HỎI: Đâu là sứ điệp mà các bài đọc muốn
gửi đến cho chúng ta?
THƯA: Các bài đọc hôm
nay cho thấy con người không có khả năng tìm ra lương thực để tự cứu mình khỏi
những cơn đói khát triền miên. Chỉ có Chúa Giêsu mới có quyền năng ban thứ
lương thực ấy. Cái chết tự hiến của Ngài trên thập giá đã là cơ hội mang lại
cho trần gian bánh ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Ngài.
21.
HỎI: Phải thực hiện sứ điệp ấy như thế
nào?
THƯA: Phải thực thi sứ điệp
Lời Chúa hôm nay bằng ba việc sau đây:
- Thứ nhất: nuôi dưỡng lòng
khát khao lãnh nhận bánh Thiên Chúa ban cho một cách “nhưng không” và “hào
phóng”.
- Thứ hai: chia sẻ với người
chung quanh tình yêu mà mình đã nhận được từ Thiên Chúa, từ Chúa Giê-su và từ
Hội Thánh.
- Thứ ba: xây dựng cộng đoàn
gia đình, giáo xứ, giáo phận và cộng đồng xã hội thành cộng đoàn hiệp nhất, yêu
thương và thuận hòa như Chúa Giê-su mong muốn.