CHỦ NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN
Có đức tin để làm gì? Có người trả lời: Không dùng vào việc gì cả. Đức tin, giống như tình yêu, thuộc vào một trật tự khác hẳn phạm vi tiện ích. Đức tin, như Tình yêu, có một khả năng kì diệu là có thể thay đổi toàn bộ cuộc sống. Như một tia sáng đột nhiên chiếu vào căn phòng tối, đức tin mạc khải cho chúng ta điều thần linh.
Tiên tri Hb 1,2-3. 2,2-4
Trước mọi sự xấu trong thế gian nầy, người ta có tin vào một Thiên Chúa tốt lành không? Đó là câu hỏi ngàn đời của người tín hữu: “Tại sao Thiên Chúa không can thiệp để chấm dứt bạo lực, nghèo khổ và mọi thứ xấu xa? Tiên tri Ha ba cúc loan báo rằng sẽ có câu trả lời vào Giờ của Thiên Chúa. Người công chính sống bởi Đức tin.
Thánh Vinh 94
Đây là Thánh Vịnh mà Giáo Hội cầu nguyện mỗi ngày, và cả người do thái nữa cũng tiếp tục cầu nguyện mỗi ngày. “Xin đừng đóng tâm hồn chúng con lại”. Thái độ Tạ ơn dâng lên Thiên Chúa giả thiết đức tin, cho phép giữ cho tâm hồn luôn mở ra đón nhận Lời ban sự Sống trước mọi thử thách hiện tại.
Thư 2Tm 1,6-8.13-14
Vị có trách nhiệm trong một Hội thánh đã lãnh nhận việc đặt tay là để phục vụ đức tin: Ngài là Chứng nhân của Chúa, dù phải trả giá; Ngài dạy giáo lí dựa trên giáo huấn các Tông đồ; Ngài cố gắng gìn giữ Tin mừng sao cho tòan vẹn.
Tin mừng Lc 17, 5-10
NGỮ CẢNH
Sau huấn dụ về gương xấu đối với những kẻ nhỏ (17,1-2) và lời mời gọi tha thứ cho anh em mình (3-4), Chúa Giê su đưa ra một lời dạy về sức mạnh cửa đức tin để trả lời cho câu hỏi của các môn đệ. Riêng đoạn 17,7-10 chỉ có trong tin mừng Luca, nói về sự phục vụ của những người tôi tớ trong đức tin.
TÌM HIỂU
Các tông đồ: x. 6,13. Các tông đồ khác với các môn đệ bởi trách nhiệm của họ trong cộng đoàn.
Sự kiện họ thưa với Chúa Giê su như là Chúa (hai lần như thế) cho thấy rằng Lu ca sắp đọc câu truyện nầy trong môi trường của Giáo Hội sau phục sinh của Chúa Giê su. Chỉ có Lu ca thuật lại lời nầy, trong đó một vài người nói với một người để xin một điều gì mà một người không thể cho. Nhưng các tông đồ cảm nhận Chúa Giê su hơn một người bình thường.
Lòng tin: yêu thương anh em mình, có sức mạnh để chia sẻ và để tha thứ đòi hỏi một đức tin cá nhân thật sự mạnh mẽ. Chúng ta tìm gặp ở đây từ tin đã không xuất hiện từ đọan 8,50 (X. 5,20; 7,9.50). Đi theo Chúa Giê su trên đường lên Giê ru sa lem đòi phải có một đức tin lớn hơn là đi theo Ngài trên đường Ga li lê. Về phía Chúa Giê su, Ngài sẽ cầu nguyện cho đức tin của ông Si mon (22,32).
Hạt cải: theo hình ảnh nầy, đã được sử dụng ở 13,19, đức tin không xuất hiện ra bên ngòai nhiều, nhưng ngầm chứa một sức năng động vượt quá mọi hi vọng của con người: “Điều gì mà con người không thể làm được, thì Thiên Chúa lại làm được” (18,27).
Biển: hình ảnh riêng của Lu ca. Biển vốn là nơi sự chết thống trị và là biểu tượng của quyền lực ma quỉ, nay trở thành đất trồng trọt và sinh sống. Do vậy, Chúa Giê su gợi lên hình ảnh một thế giới mới đã được khai mào và đức tin của Giáo Hội sẽ thể hiện cho mọi người thấy. Theo cách đó, người ta sẽ không còn ngạc nhiên nữa khi nhìn thấy giá trị bị đảo ngược và những kì công do Thiên Chúa thực hiện, như cây được trồng dưới biển. Đức tin tạo nên điều mới mẽ như sự tha thứ và chia sẻ.
Người đầy tớ: chỉ có Lu ca kể lại câu truyện nầy. Theo đó thì dường như Chúa Giê su tiếp tục nói với các tông đồ (17,5). Tuy nhiên nội dung của sứ điệp lại có vẻ như ngỏ với đám đông. Chúa Giê su hỏi có lẽ là muốn gợi lên sự chú ý hơn là để hỏi thực sự.
Có thể dịch là nô lệ. Trong trường hợp nầy thì đó là một người không thể đòi hỏi một quyền lợi gì cho mình. Hình ảnh mà Chúa Giê su dùng cho thấy rằng những người mà Ngài ngỏ lời không quan trọng, bởi vì chủ nhà chỉ có một người đầy tớ và một nô lệ làm ở ngòai đồng và trong nhà bếp. Cả hai tông đồ thuộc về thế giới nhỏ bé (như ông Dê bê đê làm việc với các con ông và một vài người làm công: Mc 1,19-20).
Vào bàn ăn đi: khác với các chủ nhà trần gian, Chúa Giê su làm công việc của các đầy tớ (12,37; x. Ga 13,1-13).
Theo lệnh phải làm: bằng cách thay đổi thể bị động sang thể chủ động, ta có thể dịch: “điều mà Thiên Chúa đã truyền lệnh”. Chúa Giê su đưa ra một giáo huấn cho các môn đệ của Ngài: họ là tôi tớ bởi vì Thiên Chúa là chủ của họ.
Vô dụng: đúng hơn có lẽ dịch “tầm thường”. Từ hi lạp có nghĩa là: “không cần thiết”, và không chỉ muốn nói là “vô ích”. Trong một ngữ cảnh khác, cũng từ ấy thì có nghĩa “vô dụng” (Mt 25,30).
Sau khi đã làm điều mình phải làm, các tông đồ không được lợi dụng danh nghĩa tông đồ nhằm tìm vinh danh cho chính mình, hay nhằm các lợi ích các nhân khác. “Vinh quang không phải cho chúng con, Lạy Chúa, không phải cho chúng con, nhưng cho danh Ngài” (Tv 115,1).
Sau khi Chúa Giê su sống lại, các tông đồ nhiều lần phải chống lại các vinh quang mà người ta dành cho mình (Cv 3,12;10,26;14,15). Còn hơn thế nữa, ơn cứu độ mà họ trông chờ không phải là một thứ tiền lương dành cho công việc họ làm, mà là một quà tặng miễn phí của ông chủ.
Phải làm: một bản văn Híp pri diễn tả cùng một ý tưởng tương tự: “Anh em không phải là những người tôi tớ phục vụ Chúa mình với điều kiện lãnh nhận một phần thưởng. Trái lại, anh em hãy là những người tôi tớ phục vụ Chúa mình với điều kiện là không nhận lãnh một phần thưởng nào cả” (Pirche Abot 1,3). Đối với người tôi tớ thì được Thiên Chúa tuyển chọn là một lí do để biết ơn Người.
SỨ ĐIỆP
Đức tin
Từ chủ đạo trong các bài đọc kinh thánh chủ nhật hôm nay là đức tin.Về vấn đề nầy, còn nhiều sai lầm cần phải giải tỏa. Tin ở đây không chỉ là hành vi tin vào một điều gì, cũng không đơn thuần là một ý kiến, hay một kết luận từ một suy tư hoặc một lí luận. Trước tiên, đức tin là một đà sống, một gắn bó, một dấn thân của con người hướng về Thiên Chúa. Như thế, “tin” là một động từ quá nghèo nàn, không đủ để mô tả thực tại phong phú ấy. Điều quan trọng nhất là dựa vào Thiên Chúa, nghe lời Ngài như người ta hạnh phúc lắng nghe tiếng nói của người mà người ta thực sự tin tưởng. Tất cả điều ấy chỉ có thể trở thành hiện thực nếu như chúng ta có đôi tai và trái tim mở rộng. Đó là một cố gắng mà chúng ta phải thực hiện hằng ngày.
Trong bài đọc thứ nhất, chúng ta thấy tiên tri đối diện với bạo lực của người ác và quyền thế. Tình huống ngày nay cũng tương tự, chúng ta thường mất tinh thần vì sự bạo lực leo thang trên thế giới, trong xã hội hay học đường hiện nay. Từ đó, chúng ta hiểu được lời than vãn của tiên tri Ha ba cúc khi ông la lớn trước sự im lặng lạ lùng của Thiên Chúa: “Cho đến bao giờ, lạy Đức Chúa, con kêu cứu mà Ngài chẳng đóai hoài, con la lên: ‘Bạo tàn!’ mà Ngài không cứu vớt”. Tiếng kêu cứu đau khổ ấy luôn luôn có tính thời sự. Chúng ta cảm nhận trong thân xác của mình sự đau khổ của thế gian, bạo lực khủng khiếp. Nhưng là những người Ki tô hữu, chúng ta biết cần phải kín múc nơi nào sức mạnh để giải phóng nhân loại.
Thật ra, đúng như lời Đức Cha Coffy nói: “Người tín hữu không sống một cuộc sống khác cuộc sống bình thường, họ chỉ sống cuộc sống bình thường một cách khác”. Họ tin cậy vào Thiên Chúa. Họ không thể bằng lòng với một đức tin nhàm chán thể hiện qua những hình thức tín lí và những việc đạo đức ít nhiều mang tính phù phép. Họ hiểu rằng đức tin của họ phải được nuôi dưỡng bằng Lời Thiên Chúa và phải tích cực sống động. Với sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần, chúng ta phải sẵn sàng khơi lại ngọn lửa ơn sủng sắp tắt.
Như Ha ba cúc và các tông đồ, chúng ta được mời gọi hướng về Thiên Chúa để cầu xin Người gia tăng đức tin cho chúng ta. Và trong Tin mừng, Chúa Giê su nói đến trách nhiệm của chúng ta. Đức tin không phải là một sự thóai thác. Niềm hi vọng không phải là một sự nhẫn nhục chịu đựng. Chúa Giê su so sánh đức tin với một năng lực lạ lùng có thể nâng cả thế giới lên. Như một hạt nhỏ xíu có thể chuyển dời cả núi non. Những ngọn núi gây trở ngại cho chúng ta: đó là sự dửng dưng, sự bất động, sự sợ hãi dấn thân, tính ích kỉ dưới mọi hình thức. Chúng ta được mời gọi chính là để cho cuộc chiến đấu hằng ngày ấy.
Chúa tin tưởng chúng ta, nên Ngài giao phó cho chúng ta những trách nhiệm trong thế giới mà chúng ta đang sống. Ngài không làm việc thay thế cho chúng ta, nhưng ban cho chúng ta sức mạnh nội tâm mà chúng ta cần đến nếu chúng ta biết cầu xin Người. Sức mạnh ấy chính là Chúa Thánh Thần. Ngài ban Thánh Thần để chúng ta trở nên những người sáng tạo với Ngài. Nhưng Ngài nhắc nhở chúng ta luôn nhớ rằng mình chỉ là “những người đầy tớ vô dụng”. Công việc chính yếu thì do Thiên Chúa làm. Còn chúng ta chỉ là những dụng cụ. Một dụng cụ để một mình thì không dùng vào việc gì cả, nhưng không thể không có dụng cụ. Chúng ta đừng buồn vì mang tước hiệu “đầy tớ vô dụng”. Phải cố gắng hiểu cho đúng: “Anh em chỉ là những người đầy tớ”, vì chúng ta dấn thân cho một sứ mạng vượt quá sức chúng ta. Chúng ta chỉ là những kẻ thừa hành. Lời Chúa nói không phải là lời cứng cõi nhưng là lời động viên, nói với chúng ta rằng trách nhiệm chính yếu không nằm trên vai chúng ta.
Nói khác đi, đó là lời giảm nhẹ trách nhiệm, nhưng không vì thế mà chúng ta trở nên vô ích. Thiên Chúa kêu gọi chúng ta vì Người yêu thương và tin tưởng nơi chúng ta. Chính qua những việc làm chẳng ra gì của chúng ta mà Người thực hiện công trình của Người. Tất cả những điều đó phải khiến chúng ta tràn đầy hãnh diện nhưng không làm cho chúng ta lo lắng. Một điều Người đòi hỏi nơi chúng ta là luôn an phận người tôi tớ. Trách nhiệm chính là của Người. Người sẽ thực hiện những điều kì diệu, miễn là chúng ta tin tưởng đi theo và phục vụ Người. Vì thế chúng ta được mời gọi phó thác vào quyền năng của Thiên Chúa. Chính Người hành động chứ không phải đức tin mạnh hay yếu của chúng ta. Chúng ta làm hết sức mình trong việc loan báo tin mừng và xây dựng một thế giới công bình và huynh đệ hơn. Nhưng chúng ta không thể thực hiện được điều gì nếu không tin cậy và tha thiết cầu nguyện với Đức Ki tô.
Mỗi ngày chủ nhật, chúng ta đến kín múc tận nguồn suối là Lời Chúa và Mình Thánh Đức Ki tô. Lương thực ấy chỉ sinh hiệu quả khi chúng ta mở ra cho tình yêu đối với Cha và tất cả anh em chúng ta. Chính việc lãnh nhận lời Thiên Chúa và Thánh Thể nuôi dưỡng đức tin và giúp chúng ta có thể hành động cho Đức Ki tô và với Ngài.
ĐÀO SÂU
1. HỎI: Tiên tri Ha ba cúc là ai?
THƯA: Là vị tiên tri nhỏ xuất hiện vào khoảng năm 606 tại miền nam Giu đa. Truyền thống do thái cho rằng ông là con trai của Bà góa Shunam đã nuôi tiên tri Êlisa. Khác với các tiên tri trong Cựu Ước, ông không mang lời Chúa đến cho dân, mà lại trình bày những nỗi thống khổ và lời phàn nàn của dân lên Chúa. Sách của ông chỉ gồm ba chương, mỗi chương chừng 20 câu, nhưng chứa đầy cảm xúc. Từ lời than vãn đến bạo lực, từ lời kêu cứu đến niềm vui cực điểm. Nhưng không bao giờ vắng bóng niềm hi vọng.
2. HỎI: Nội dung bài đọc một như thế nào?
THƯA: Trước mắt tiên tri là cảnh bạo tàn và tội ác khiến ông có cảm tưởng như Thiên Chúa không hiện diện. Dù vậy, Thiên Chúa mời gọi ông kiên trì và tin tưởng rằng cuối cùng Người sẽ can thiệp: “Ai kiên trì sống công chính sẽ được sống nhờ lòng tin của mình”.
3. HỎI: Cảnh bạo tàn mà Ha ba cúc nói đến là gì?
THƯA: Đó là cảnh đàn áp dân Do thái do quân Ba by lôn mà tiên tri gọi là người “Kan đê” gây ra. Khoảng năm 600 trước CN, địch thù số một là quân Át si ri ở Ni ni vê, nhưng đã bị Ba by lôn đè bẹp. Từ đó, Ba by lôn đã trở thành thế lực đáng sợ đang lên vùng Trung đông.
4. HỎI: Thiên Chúa nói đến thị kiến sẽ xảy ra. Đó là thị kiến gì?
THƯA: Đó là thị kiến mà Ha ba cúc sẽ mô tả ở chương sau. Nhưng từ giờ người ta cũng đã thấy trước đó là sự giải thoát những kẻ hiện thời bị áp bức.
5. HỎI: Tiên tri Kha ba cúc phải có thái độ nào?
THƯA: Toàn bộ sứ điệp của tiên tri Kha ba cúc có thể tóm tắt như sau: trong cơn thử thách, dù khó khăn đến mấy thì thái độ duy nhất cần có là giữ lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa. Đó là chấp nhận không hiểu biết gì, và đừng trách cứ Thiên Chúa. Còn nghi ngờ chỉ đưa đến sự dữ mà thôi.
6. HỎI: “Người không có tâm hồn ngay thẳng” ám chỉ ai?
THƯA: Ám chỉ Ba by lon. Nó kiêu căng về những chiến công chinh phục của mình và tin rằng sẽ xây dựng một tương lai phú túc bền vững trên đó. Trái lại, người công chính biết rằng chỉ có một mình Thiên Chúa có thể làm cho sống mà thôi.
7. HỎI: Bài tin mừng hôm nay có bố cục như thế nào?
THƯA: Thoạt nhìn thì bài tin mừng hôm nay gồm những câu nối tiếp nhau nhưng không có cùng nội dung. Phần thứ nhất: cuộc đàm thoại giữa Chúa Giê su và các tông đồ về đức tin. Và phần thứ hai, một dụ ngôn về người tôi tớ.
8. HỎI: Tại sao các tông đồ xin Chúa gia tăng đức tin cho họ?
THƯA: Bởi vì, ngay trước đó Chúa Giê su đã nói về sự tha thứ, lòng thương xót, sự hiếu khách mà họ phải có như là dấu đặc trưng. Tuy nhiên, sống như lời Chúa đòi hỏi cần phải có một đức tin chân chính, đó là một điều khó khăn trong thế giới này. Vì lý do đó, các tông đồ cầu xin Chúa: “Xin tăng thêm đức tin cho chúng con”.
9. HỎI: Đức tin mà các tông đồ xin Chúa là gì?
THƯA: Đối với họ, đức tin mà họ xin Chúa tăng cường cho họ, đó là khả năng tiếp nhận mầu nhiệm Thiên Chúa được mạc khải trong Chúa Giêsu Kitô, và diễn tả trong một cách sống phù hợp (trong sự tha thứ, yêu thương những người bé mọn, trong niềm hy vọng).
10. HỎI: Lời Chúa Giê su nói: “Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải” có nghĩa gì?
THƯA: Chúa muốn nói rằng: “Chỉ cần có một đức tin chân chính có sức mạnh vạn năng, giống một hạt cải bé tí cũng đủ làm những việc xem ra không thể làm được. Khi anh em hành động nhân danh tin mừng, thì hãy nhớ rằng không gì là không thể đối với Thiên Chúa”.
11. HỎI: Chúng ta có thực sự là vô ích không?
THƯA: Chúng ta không vô ích, vì nếu vậy, không ông chủ nào giữ chúng ta lại! Nếu Thiên Chúa coi chúng ta là đầy tớ, chính là vì Người cần đến chúng ta. Nếu Chúa Giê su chọn các tông đồ, ấy là vì Người cần đến sự cộng tác của họ. Việc chúng ta làm không ra gì, nhưng với việc làm nhỏ bé ấy, chúng ta đem lại mùa gặt cho Chúa. Chúng ta vẫn mãi là người tôi tớ: còn đấng có trách nhiệm chính là Ngài.
12. HỎI: Chúa Giê su muốn dạy gì khi dạy chúng ta nói: “Chúng ta chỉ là người đầy tớ vô dụng”?
THƯA: Chúa Giê su muốn dạy hai điều: thứ nhất Ngài mời gọi chúng ta đừng bao giờ cậy vào công việc mình làm để chờ đợi phần thưởng của Chúa. Thứ hai Ngài mời gọi chúng ta hãy bình thản trong khi thi hành sứ mạng của mình. Chính ngài là Chủ mùa gặt, chứ không phải chúng ta.
13. HỎI: Tương quan giữa hai phần của bài tin mừng nầy như thế nào?
THƯA: Hai phần liên kết chặt chẽ với nhau: chỉ cần một chút đức tin, dù yếu đến đâu cũng đủ để Thiên Chúa thực hiện phép lạ. Còn bổn phận chúng ta là lo phục vụ Người.
14. HỎI: Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta điều gì khi nói: “Nếu có đức tin bằng hạt cải ...”?
THƯA: Ngài muốn dạy chúng ta rằng đức tin là điều mạnh mẽ nhất, có sức mạnh và thực chất hơn tất cả các thực tại vật chất khác (cây, núi, sông). Đức tin đạt đến “trái tim” của Thiên Chúa và con người. Vì vậy, người sống bằng đức tin không cần phải di chuyển núi hoặc cây dâu tằm. Thực chất, họ đã di chuyển tất cả rồi bởi vì họ nhìn thấy mọi thứ vào đúng chỗ của chúng, nơi mà Thiên Chúa đã đặt để phục vụ con người.