Trang Chủ > Suy Niệm > Thường Niên 26-34 > Tuần 27

CHỦ NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN B

traitim21.jpgPhải thượng tôn Tình yêu trong đời sống thì chúng ta mới có thể trở nên giống như Đức Ki tô, Con Thiên Chúa và là anh em loài người. Ngay từ nguyên thủy và cho đến muôn ngàn đời sau, Thiên Chúa đã tạo dựng Tình yêu và từ nay tình yêu chúc tụng Thiên Chúa. Thiên Chúa không thể quên tình yêu đầu tiên của Người, đó là CON NGƯỜI. Người đã tạo dựng họ, có nam có nữ để họ tiếp tục cuộc tạo dựng của Người.

Sách Sáng Thế Kí:

Ở đây chúng ta đọc trình thuật thứ hai về sự Sáng Tạo, dùng hình ảnh để trả lời một cách cụ thể cho các câu hỏi mà người ta đặt ra về người đàn ông, người đàn bà và Tình yêu. Người đàn ông được tạo dựng như một hữu thể xã hội chứ không phải để kéo dài kiếp sống cô đơn. Khả năng Yêu thương giúp ông ta cảm nghiệm Tình yêu như một nhu cầu sinh tồn trong chính bản năng của mình.

Thánh Vịnh 127:

Thánh vịnh nầy nhìn hạnh phúc của con người trong khung cảnh gia đình. Đó là kết quả mang lại do lời chúc phúc của Thiên Chúa đổ tràn trên người công chính và gia đình ông. Bài ca nầy rất xứng hợp để ca tụng Chúa trong hôn nhân ki tô giáo.

Thư Do thái:

Đức Ki tô là nguồn gốc ơn Cứu độ cho tất cả mọi người. Việc Ngài được tôn vinh phải thôi thúc chúng ta thực hiện ơn gọi làm người và làm con Thiên Chúa. Giữa Đấng chúc phúc và những người được chúc phúc từ nay có một sự liên đới thân tình đến nỗi Chúa Giê su gọi chúng ta là Anh Em. Chúng ta được tiền định họp thành một Thân thể duy nhất, một Giáo Hội phổ quát.

Tin mừng: Mc 10,2-16

NGỮ CẢNH:

Chúa Giê su rời Galilê lên Giêrusalem (10,1). Đó là câu chuyển tiếp sứ vụ Chúa Giê su từ Galilê sang sứ vụ ở Giêrusalem. Chúa Giê su tiến dần đến đích cuộc hành trình, và dọc đường Người không ngừng giảng dạy “theo thói quen”. Cuộc hành trình lên Giê ru sa lem được xen kẻ bằng những giáo huấn quan trọng dành cho người môn đệ trước khi phải đối đầu và chấp nhận thập giá Chúa Giê su. Giữa lời loan báo Khổ nạn lần thứ hai (9,31) và lần thứ ba (10,32-34), Chúa Giê su dành cho các môn đệ các giáo huấn căn bản về cuộc sống người ki tô: trong cộng đoàn (35-50); tôn trọng dây hôn phối (10,1-12); tinh thần trẻ thơ (13-16); cảnh giác với của cải trần gian (17-31).

Có thể đọc đoạn tin mừng nầy theo bố cục sau đây: phần đầu dành cho dân chúng nói về việc rẫy vợ (2-9); phần thứ hai (10-12) dành riêng cho các môn đệ về điều kiện để vào Nước Trời.

TÌM HIỂU

Để thử Người: một lần nữa, các đối thủ của Chúa Giê su muốn thử Người (x. 8.11 và x. thêm 12.13.15). Họ giăng bẫy buộc Người chọn một trong hai cách trả lời, nhưng cách nào cũng dẫn đến mâu thuẫn. Nếu Chúa Giê su trả lời là được phép, thì Người bị họ tố cáo là mâu thuẫn với giáo huấn cũng như cung cách sống đầy yêu thương của Ngài. Còn nếu Ngài trả lời là không được phép, thì lại mâu thuẫn với lề luật. Nhưng cách Chúa Giê su giải quyết vấn đề họ đưa ra khiến cho họ sửng sốt.

Ông Mô sê đã cho phép: người Biệt phái dựa vào bản văn được ghi lại trong sách Đệ Nhị Luật (24,1). Đúng là có bản văn ấy, nhưng họ cố tình lạm dụng khi giải thích.

Lòng chai dạ đá: kiểu nói trong Thánh Kinh chỉ sự con người không thể hiểu ý muốn của Thiên Chúa và thực hiện các kế hoạch Người vạch ra. Câu hỏi mà họ đặt ra để gài bẫy Chúa Giê su và cách giải thích cho thấy lòng dạ chai đá của họ.

Lúc khởi đầu: Chúa Giê su khôn ngoan nhắc lại thánh ý ban đầu của Đấng Tạo Hoá. Sách Sáng Thế Ký ở câu 1,27 và 2,24 cho thấy: việc vợ chồng là do thánh ý Thiên Chúa thiết định ngay từ thuở ban đầu, theo đó, người nam và người nữ được kêu gọi tạo thành một tế bào gia đình độc lập. Người muốn thực hiện một sự kết hợp linh thánh mà thánh Phao lô về sau đã so sánh với chính sự kết hợp giữa Đức Ki tô và Giáo Hội. Từ đó Người muốn đưa ra một luật mới cho tình yêu đơn nhất và bất khả phân ly trong hôn nhân.

Khi về đến nhà: Mác cô thường xử dụng kiểu nói có tính văn chương nầy để kết thúc các huấn giáo của Chúa Giê su nhằm đưa ra một lời giải thích riêng cho các môn đệ (ở trong nhà).

Trẻ em: đây không phải là những đứa trẻ thơ, nhưng đúng hơn là những đứa bé đã đến tuổi khôn. Điều nầy cần thiết để hiểu đúng lời dạy của Chúa Giê su. Khó mà biết chính xác lí do nào đã khiến cha mẹ đem con cái mình đến với Chúa Giê su. Có lẽ là theo thói quen bình dân. Nên coi đây như là biểu hiện mối tương giao đầy thân tình của Chúa Giê su với đám đông.

La rầy: la rầy ai ? trẻ em hay người lớn ? theo bản văn thì có thể hiểu cả hai. Phản ứng nầy cho thấy các môn đệ muốn tỏ ra mình là người lớn, là những nhân vật quan trọng, và như thế ngược lại với điều Chúa Giê su dạy về sự khiêm tốn và phục vụ.

Bực mình: Chúa Giê su phản ứng nhẹ nhàng chứ không giận dữ (như trong 3,5). Qua đó, chúng ta thấy Chúa Giê su tỏ ra rất gần gủi với thế giới của những trẻ nhỏ (x.9.36,42). Đó chính là sự hài hòa giữa sứ điệp của Chúa Giê su và những gì mà trẻ nhỏ đang sống một cách vô tư. Chính vì sự hài hoà ấy mà Chúa Giê su bảo hãy để trẻ nhỏ đến với Ngài (x.9,32).

Là của những ai giống như chúng: Chúa Giê su không đề cao sự vô tội của trẻ nhỏ, mà đúng hơn là tư thế thấp kém, tuỳ thuộc, nhưng sẵn sàng, vui vẻ và mau mắn tiếp nhận, dễ ngạc nhiên và đầy tin tưởng của chúng. Đó là mẫu mực cho những ai muốn vào Nước Chúa. Có lẽ Chúa Giê su muốn cho các môn đệ hiểu rằng cần phải sống như trẻ em: chấp nhận không có quyền bính, tin vào tình yêu mà không đặt vấn đề, và không biết đến mãnh lực của tiền bạc.

Đặt tay chúc lành: chỉ có tin mừng Mác cô mới nói đến chi tiết nầy nhằm cho thấy thói quen của Chúa Giê su. Việc Ngài thường đặt tay chúc lành cho trẻ em như muốn nói lên sự che chở đầy yêu thương và quảng đại ban phát những kho tàng thiêng liêng của Ngài cho chúng.

SỨ ĐIỆP

Khi nghe bài tin mừng hôm nay ai trong chúng ta có thể nghĩ đến những tình huống đau thương: ngày mà vợ chồng ra trước tòa để xin li dị, để rồi từ đó, tổ ấm mà họ đã thiết lập và thề hứa trung tín đắp xây không còn hiện hữu nữa.

Điều mà người ta quên là đừng bao giờ đưa ra tòa kết án ai. Chúa Giê su không đến để lên án ai mà để cứu chuộc mọi người. Ngài dẫn hai người phối ngẫu về với lương tâm của mình, về với tiếng nói nội tâm mạc khải cho họ chân lí về tình yêu.

Vào thời Chúa Giê su, li dị là một vấn đề gây nhiều tranh luận. Có người thì rất nghiêm khắc cho rằng chỉ có sự bất trung của người vợ mới có thể gây ra sự đỗ vỡ. Có người thì dễ dãi hơn, chủ trương chỉ cần một bữa ăn không ngon miệng cũng đủ để li dị. Khi bắt buộc Chúa Giê su tỏ rõ lập trường, người ta muốn giăng bẫy thử Ngài. Nếu Ngài cho phép li dị, Ngài sẽ có những đối thủ chống lại Ngài. Còn nếu Ngài cấm, Ngài sẽ mâu thuẫn với luật Mô sê cho phép li dị. Câu trả lời của Chúa Giê su phát xuất từ ý muốn của Thiên Chúa. Người đàn ông và người đàn bà được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa. Họ bình đẳng nhau về nhân phẫm. trong hôn nhân họ không còn phải là hai, nhưng là một xác thịt. Vậy, điều mà Thiên Chúa phối hợp thì con người không được phân li.

Như thế, thật rõ ràng: Con Người đến là để tái lập chương trình của Thiên Chúa Cha về yêu thương. Khi các môn đệ thắc mắc và vô cùng ngạc nhiên trước sự nghiêm khắc ấy thì Chúa Giê su nói trắng ra: Bỏ nhau rồi đi cưới người khác đó cũng là ngoại tình, đối với chồng cũng như đối với vợ. Nhiều người cảm thấy khó hiểu trước những khẳng định và đòi hỏi đó, và muốn xem lời nói nghiêm khắc đó là sai lầm bằng cách nghĩ rằng cần phải thông cảm, đưa về lại mức độ con người.

Và như thế con người đã lèo lái lời Chúa khi biến đổi Lời Ngài thành lời con người hay luật lệ của con người. Mô sê là người trước tiên nhượng bộ kiểu đó. Ông không chủ trương cho li dị, nhưng từ những tình huống cụ thể ông đã cho phép để hạn chế những thiệt hại  có thể xảy ra. Chúa Giê su muốn lột mặt nạ cội rễ sự ác. Đó chính là tâm hồn con người. Không thể yêu mến theo cách của Thiên Chúa nếu tâm hồn chai cứng và xấu xa, đầy tính ích kỉ và kêu căng. Khi muốn đặt bản thân mình làm thầy, con người muốn trở thành độc nhất và không chừa đất sống cho người người khác. Đó là nguyên nhân đưa đến sự chạm trán của đôi vợ chống. Họ trở thành hai kẻ chống đối nhau như hai người lạ mặt, thình thoảng như thù địch. Từ đó không thể có hiệp thông thực sự. Ngày nay có nhiều gia đình sống chung nhưng không thực sự yêu thương nhau. Dù sự rạn nứt không tỏ ra bên ngòai, nhưng coi như đã li dị. Chúa Giê su đã đến loan báo  một tin mừng: điều gì mà con người không thể thì Thiên Chúa lại có thể thực hiện được. Người có thể ban cho chúng ta một tâm hồn mới, một thần trí mới. Vấn đề đích thực cho mỗi người chúng ta không phải là tìm cách cải hóa người khác, nhưng là cải hóa chính mình: đổi mới chính tâm hồn chúng ta. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể dạy chúng ta yêu thương như Người đã yêu thương, nghĩa là một cách nhưng không và không đòi điều kiện tiên quyết. Người trung thành ngay cả khi chúng ta phản bội. Người vẫn mãi yêu thương bất chấp chúng ta đối xử với Người như thế nào. Nếu chúng ta muốn là con Thiên Chúa, thì hãy trở nên hòan hảo như Cha chúng ta ở trên trời là đấng hòan hảo. Mà cho dù chúng ta chưa thực hiện được điều Người mong ước, thì ước muốn của Người bao giờ cũng vẫn là niềm hạnh phúc của chúng ta.

Nhưng chúng ta phải làm gì khi so sánh lí tưởng hòan thiện ấy với con người yếu đuối của chúng ta. Ai trong chúng ta cũng đều nhận rằng mình không phải là thánh nhân cũng không phải là những bậc anh hùng. Dù vậy, chúng ta phải không ngừng bảo vệ gia đình, vì bảo vệ gia đình tức là bảo vệ toàn xã hội. Đức Gio an Phao lô II đã thường xuyên nhắc nhở rằng tương lai nhân lọai tùy thuộc vào gia đình. Chính nơi đó chúng ta học những bài học về sự chia sẻ, cống hiến, và kính trọng người khác. Cũng chính nơi đó mà chúng ta học được cách mở tâm hồn ra để tiếp nhận sự phong phú của lòng tha thứ và lắng nghe, sự kính trọng những khác biệt và sự kiên trì để được lớn lên. Chúa không ngừng mời gọi chúng ta dẹp bỏ khỏi tâm hồn sự giả hình giống như pha ri sêu. Tất cả chúng ta là những người mà Thiên Chúa đã kết hợp bằng phép thanh tẩy như là những phần tử cùng một gia đình. Như những người khập khểnh dựa vào nhau để bước đi, chúng ta hãy dìu nhau để bước đi cho thẳng, đừng tách rời những người mà Thiên Chúa đã phối hợp và tiếp tục gọi là con cái của Ngài. Nhiều hoàn cảnh khó khăn của đôi vợ chồng Ki tô có thể tránh khỏi hoặc được vượt thắng nhờ lời mời gọi đôi vợ chồng nhớ đến ân sủng bí tích hôn nhân của họ. Tại sao lại không bảo nhau thường xuyên hơn: “Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta đã hứa trung thành với nhau, Cũng chính Ngài ban người nầy cho người kia. Tại sao bây giờ lại nghi ngờ? Thiên Chúa thì không thay đổi”.

Chúa muốn nhắc lại tất cả những điều ấy cho các đôi vợ chồng trước cộng đoàn Ki tô hữu. Vợ chồng Ki tô sống một mình là điều nguy hiểm: họ không thể không cần đến sự nâng đỡ của cộng đoàn, của toàn thể Giáo Hội. Đứng lẻ loi một mình thì không thân cây nào có thể chống chọi lại những cơn bảo táp. Rồi sẽ đến một ngày nó không còn sức chống nỗi và sẽ gục ngã. Nếu liên kết thành một khối, cả rừng cây sẽ đứng vững trước mọi cơn bão táp. Hơn thế nữa, các đôi vợ chồng ki tô càng cần kết họp với nhau thành một để có thể chống lại những cơn lốc của một nền văn mình tìm mọi cách để thổi bay những cột mốc Ki tô! Chính vì nghĩ đến tất cả những giới hạn và yếu đuối mà chúng ta hôm nay hướng về Chúa. Chúng ta phải không ngừng nói lên và lặp lại rằng: Thiên Chúa yêu thương tất cả chúng ta một cách không điều kiện, cho dù chúng ta có ra sao và lỗi lầm như thế nào. Người vẫn đến tìm và gặp chúng ta ngay chính nơi chúng ta đang té ngã để mời gọi chúng ta tiến lên một bước nữa trên con đường sự sống. Ước gì tin mừng ấy nuôi dưỡng niềm hi vọng và lời kinh của chúng ta.

ĐÀO SÂU

1. HỎI: Bài đọc 1 trích từ sách nào?

THƯA: Bài đọc 1 trích từ chương 2 sách Sáng Thế Kí là quyển sách đầu tiên của Kinh Thánh. Phần đầu của sách nầy gồm 11 chương, là một suy tư về việc Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ và con người, về nguồn gốc sự ác và ơn cứu độ. Mục tiêu của tác giả trong bài đọc nầy là nhắm đặt hôn nhân con người trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

2. HỎI: Bài đọc 1 dạy ta sự gì?

THƯA: Bài đọc nầy dạy cho ta biết: thứ nhất, chương trình của Thiên Chúa là muốn cho con người được hạnh phúc. Thứ hai, hôn nhân của con người là một điều tốt vì nằm trong ý định của Thiên Chúa. Thứ ba, lý tưởng đề ra cho đôi vợ chồng không phải là chế ngự nhau, nhưng bình đẳng và tương trợ lẫn nhau.

3. HỎI: Tại sao người Pharisêu hỏi Chúa Giê su về việc người chồng rẫy vợ mà không nói đến khả năng người vợ được phép bỏ chồng mình?

THƯA: Vì theo luật Môi sê, việc li dị được coi như là một đặc ân chỉ dành cho người chồng mà thôi.

4. HỎI: Tại sao trong câu hỏi của người Pha ri sêu, tin mừng Mát thêu thêm vào chi tiết “vì bất cứ lí do nào” (Mt 19,3) mà Mác cô không có??

THƯA: Mác cô viết tin mừng cho các độc giả không phải là Híp pri, tức là những người ngoại, còn Mát thêu viết cho những người Híp pri. Do đó, Mác cô bỏ câu chú thích của Mát thêu có liên quan đến những cách giải thích khác nhau trong các trường phái ráp bi.

5. HỎI: Người Pha-ri-siêu, vốn có tiếng là giữ luật rất nghiêm minh, đặt câu hỏi này với Chúa Giêsu, chỉ là để thử thách Chúa Giêsu, hay còn vì nghi ngờ trong việc giải thích câu Đnl 24,1?

THƯA: Thực ra, vấn đề căn bản là cuộc tranh luận giữa các trường phái Do Thái về việc giải thích câu Đnl 24,1 về lí do cho phép vợ chồng li dị. Trường phái Shammai nhiệm nhặt, chỉ cho phép ly hôn vì lí do ngoại tình, còn trường phái Hillel thì rộng rãi hơn, cho phép li hôn vì những lý do đơn giản hơn (ví dụ như khi người chồng không hài lòng với những thức ăn do người vợ không nấu vv.). Người Pharisêu của hai trường phái muốn đưa Chúa Giêsu vào cuộc tranh luận của họ.

6. HỎI: Câu trả lời của Chúa Giêsu đứng trên lập trường của cả hai trường phái?

THƯA: Đúng, Ngài không có ý định đứng về phía trường phái nào hết. Kết luận của Ngài không dựa vào ý kiến ​​của con người, nhưng dựa trên ý định rõ ràng của Thiên Chúa khi tạo dựng loài người có nam có nữ, và phối hợp cả hai nên một.

7. HỎI: Chúa Giêsu qui chiếu đến quyển sách nào trong Kinh Thánh và Ngài muốn dạy chúng ta điều gì khi dùng kiểu nói: “Một xương một thịt”?

THƯA: Trong câu trả lời cho người Pha ri sêu, Chúa Giê su đề cập đến những gì Thiên Chúa đã thực hiện được kể lại trong Sách Sáng thế kí 1,27, 2,24. Khi tạo dựng người phụ nữ cho người đàn ông đầu tiên, Người đã phân biệt hai giới tính khác nhau nhằm một mục đích rõ ràng: người đàn ông và người phụ nữ được hướng đến một cuộc phối hợp đơn nhất và bất khả phân li (“một xương một thịt”).

8. HỎI: Tại sao hôn nhân theo Thánh ý Thiên Chúa lại bất khả phân li?

THƯA: Sứ mạng của đôi vợ chồng là trở thành “hình ảnh của Thiên Chúa”, và vì là hình ảnh Thiên Chúa nên họ luôn luôn phải là một, bất khả phân li.

9. HỎI: Như vậy tại sao ông Mô sê lại cho phép viết giấy li dị (c. 4)?

THƯA: Chúa Giê su cho thấy trong Kinh Thánh không có mâu thuẫn giữa sách Sáng Thế Kí và Luật Môsê. Ly dị không phải là một lệnh truyền của Mô-sê, nhưng là biện pháp khoan dung trước trước thực tiển cuộc sống của dân. Việc khoan dung ấy bắt nguồn từ việc người do thái cứng lòng, không nhạy bén với thánh ý Thiên Chúa. Điều lề luật qui định người chồng từ bỏ tất cả các quyền hạn đối với vợ mình là một thủ tục pháp lý để giảm thiểu việc lạm dụng và nhất là để bảo vệ người phụ nữ. Người chồng, trên thực tế, sau khi viết giấy ly hôn không còn quyền hạn gì đối với vợ mình nữa.

10. HỎI: Tại sao các môn đệ la mắng những người dẫn trẻ em với Chúa Giêsu?

THƯA: Họ la mắng không phải vì sợ chúng quấy rầy việc Chúa rao giảng, nhưng vì đối với họ, trẻ em không đại diện cho bất cứ điều gì. Theo các môn đệ, Vương quốc của Thiên Chúa thuộc về người lớn. Và để đạt đến, phải có những lựa chọn có ý thức, phải thực hiện một số việc làm. Tuy nhiên Chúa Giêsu cảnh báo rằng Nước Thiên Chúa phải được “tiếp nhận”, tức là một sáng kiến ​​đến từ Thiên Chúa, và sau đó mới đến nỗ lực cá nhân để gia nhập vào. Do đó, thái độ xứng hợp là thái độ “tiếp nhận” của trẻ em.

(Nếu đọc bài Tin mừng Lc 1,26-38 trong lễ kính Mân côi, xin lấy lại bài giải thích của Chủ Nhật 4 Vọng B)

KINH MÂN CÔI

1. HỎI: Mân côi là gì?

THƯA: Mân côi, Môi Khôi hay còn gọi là Môi Côi có nghĩa là cánh Hoa hồng. Xưa nay, người ta thường kết từng tràng hoa để kính tặng các bậc vị vọng, các bậc anh hùng để tôn vinh những việc làm hay những chiến công hiển hách của các họ. Chuỗi Mân côi được kết thành những hoa hồng tức là những kinh Kính Mừng dâng lên Đức Maria Nữ Vương trên trời để tôn vinh và cầu xin Ngài chuyển cầu Thiên Chúa ban xuống nhiều ơn cho nhân loại.

2. HỎI: Nguồn gốc của Kinh Mân côi như thế nào?

THƯA: Vào thế kỷ mười ba, bè rối Albigeois nổi lên ở miền nam nước Pháp, gây nhiều thiệt hại cho Giáo hội. Và theo truyền thuyết, chính Đức Mẹ đã hiện ra và truyền dạy thánh Đa Minh phép lần lật Mân côi, như là một phương thế tuyệt diệu để cảm hóa bè rối. Và sự thật đã xảy ra đúng như thế. Chỉ sau một thời gian ngắn quảng bá việc lần chuỗi Mân côi, thánh Đa Minh đã dẫn đưa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo hội. Và đó chính là nguồn gốc của kinh Mân Côi.

3. HỎI: Bè rối Albigeois là gì?

THƯA: Là Bè rối nổi lên vào thế kỉ 13 ở miền Nam nước Pháp, chủ trương Nhị nguyên (hai nguồn) cho rằng: mọi vật chất đều xấu và do ma quỉ mà ra. Còn sự hoàn thiện hệ tại sự từ bỏ phi nhân bản để sống khắc khổ. Chủ trương này dẫn tới sự lãnh cảm, chẳng hạn đối với việc hôn nhân, và chôn vùi mọi cơ cấu xã hội gia đình.

4. HỎI: Nguồn gốc lễ Mân côi như thế nào?

THƯA: Vào thế kỷ mười sáu, vua Thổ Nhĩ Kỳ dẫn đạo quân Hồi giáo của mình xâm chiếm Âu Châu. Sau khi lấy được đảo Chypre và Crêta, ông ngang nhiên tuyên bố sẽ cho ngựa ăn cỏ trong đền thờ thánh Phêrô. Trước sự tấn công như vũ bão, cũng như trước áp lực nặng nề ấy, các nước Âu châu đã phải liên kết với nhau. Đồng thời, Đức Giáo Hoàng đã truyền cho mọi người phải ăn chay, cầu nguyện và nhất là lần chuỗi Mân côi. Sau cùng, đạo quân Công giáo đã dành được chiến thắng tại vịnh Lépante. Để cám ơn Đức Mẹ và để kỷ niệm chiến thắng lịch sử này, Đức Thánh Cha Piô V đã thiết lập lễ kính Mẹ Mân Côi hôm nay. Và đó chính là nguồn gốc của lễ Mẹ Mân Côi.

5. HỎI: Lời cầu nguyện với Tràng chuỗi Mân côi có những đặc điểm nào?

THƯA: Có hai đặc điểm nầy:

- Hình thức đơn sơ

- Nội dung phong phú

6. HỎI: Hình thức đơn sơ là sao?

THƯA: Là một sáng kiến đạo đức được Mẹ Maria đưa ra, nên chuỗi Mân côi có một hình thức thật đơn sơ: một trăm năm mươi kinh Kính mừng, mười lăm kinh Lạy Cha và mười lăm sự việc được xoay quanh mười lăm đề tài suy gẫm cụ thế và dễ hiểu.

7. HỎI: Nội dung phong phú là sao?

THƯA:Tuy hình thức đơn sơ, nhưng chuỗi Mân côi lại có được một nội dung phong phú. Thực vậy, kinh Lạy Cha và kinh Kính mừng là những kinh cao trọng nhất xuất phát từ Tin mừng. Còn những mầu nhiệm suy gẫm là những biến cố được rút tỉa từ cuộc đời của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Chính vì thế, chúng ta có thể gọi kinh Mân côi là một cuốn Phúc âm được rút ngắn của người tín hữu.

8. HỎI: Tại sao kinh Mân côi đã trở thành một việc đạo đức phổ biến của các tín hữu?

THƯA: Vì các lí do sau đây:

1. Vì lời kinh Kính mừng là một lời kinh vừa dễ đọc, vừa dễ thuộc, có thể đọc mọi nơi mọi lúc.

2. Vì tình cảm của chúng ta thường dễ hướng tới người mẹ.

3. Vì chính Mẹ Maria đã nhiều lần hiện ra khuyên nhủ con cái Ngài hãy siêng năng lần hạt và hứa ban nhiều ơn lành cho những ai trung thành với việc đạo đức ấy.

9. HỎI: Cầu nguyện với chuỗi Mân côi đem lại những hậu quả nào ?

THƯA: Kinh Mân côi còn đem lại cho chúng ta nhiều an ủi và khích lệ, nhất là trong những giờ phút chúng ta gặp phải khổ đau và buồn phiền.

Nếu chúng ta trung thành đọc và sống kinh Mân côi, thì kinh Mân côi sẽ là một bảo đảm cho phần rỗi của chúng ta. Cha Lacordaire, OP nói: “Con đường bảo đảm nhất để về trời là con đường của các bà già, bởi vì các bà luôn có cỗ tràng hạt trong tay”.

 


Các bài viết mới hơn
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Sáu Tuần XXVII Thường Niên - Nt. Maria Nguyễn Thị Anh Thư, OP
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Ba Tuần XXVII Thường niên - Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Ba Tuần XXVII Thường Niên - Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Hai Tuần XXVII Thường Niên - Lm . J. P
     Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật Tuần XXVI Thường Niên Năm A - Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
     Lời Chúa Thứ Bảy Tuần XXVII Thường Niên- Lm. Duy Khang
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Sáu Tuần XXVII Thường Niên- Lm Micae Vũ An Lộc
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Năm Tuần XXVII Thường Niên-Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Tư Tuần XXVII Thường Niên- Nt. Anna Têrêxa Thiên Hoàng, O.P Dòng Đa Minh Thánh Tâm
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Ba Tuần XXVII Thường Niên- Lm.JB

Các bài viết cũ hơn
     LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI. Lm. Paul Nguyễn Nguyên
     SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT XXVII THƯỜNG NIÊN NĂM B: SỨC MẠNH CỦA KINH MÂN CÔI. Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
     SUY NIỆM THỨ BẢY TUẦN XXVII THƯỜNG NIÊN NĂM A- HƠN CẢ CÔNG LÊNH. Nt. Anna Têrêxa Thiên Hoàng, ĐMTT
     SUY NIỆM THỨ NẮM TUẦN XXVII THƯỜNG NIÊN NĂM A-KIÊN TRÌ TRONG CẦU NGUYỆN. Sr. Nguyễn Sao
     SUY NIỆM THỨ BA TUẦN XXVII THƯỜNG NIÊN NĂM A. Minh Tứ
     SUY NIỆM CHÚA NHẬT XXVII THƯỜNG NIÊN A - HÃY LÀM CHO VƯỜN NHO TRỔ SINH HOA TRÁI - Lm. Paul. Nguyễn Văn Đông
     MẸ MÂN CÔI. Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
     LỜI KINH TUYỆT DIỆU. Lm Giuse Nguyễn Hữu An
     NHỚ LỜI ĐỨC MẸ NHẮN NHỦ- LỄ MẸ MÂN CÔI. Lm Jos Tạ Duy Tuyền.
     SUY NIỆM CHÚA NHẬT XXVII THƯỜNG NIÊN NĂM A- ĐÁNH MẤT CƠ HỘI. Lm. Lm. Giuse Đỗ Đức Trí