Thứ Ba Tuần I Mùa Chay
Lời Chúa và lời người
(Is 55, 10-11; Mt 6, 7-15)
1. Lời Chúa ban sự sống
Lời Chúa được ví như hạt giống trong dụ ngôn Người Gieo Giống (Mt 13, 3-9). Nhưng trong bài đọc 1, trích sách ngôn sứ Isaia, Lời Chúa được ví như mưa, như tuyết, vốn là những điều kiện thiết yếu cho hạt giống lớn lên. Ngoài ra, để nẩy mầm, lớn lên và sinh hoa kết trái, hạt giống còn cần ánh sáng nữa. Và Lời Chúa cũng là ánh sáng. Như vậy, Lời Chúa là tất cả: vừa là hạt giống và vừa là điều kiện thiết yếu làm cho hạt giống nầy mầm; bởi lẽ Lời Chúa là chính Sự Sống (Ga 1, 4).
Ước ao của Thiên Chúa, điều mà Lời được sai đi thực hiện, là gì? Hình ảnh mưa và tuyết nói rõ: tưới gội mặt đất, làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói của bánh ăn. Tất cả tạo nên một hình ảnh thật đẹp, thật sống động và rất gần gũi, để giúp chúng ta hiểu Lời Chúa phục vụ sự sống như thế nào, và cũng hiểu được tại sao, người ta sống không chỉ bởi cơm bánh, nhưng còn bởi Lời Chúa nữa.
Như thế, Lời của Đức Chúa trong sách ngôn sứ Isaia giúp chúng ta hiểu đúng hướng dụ ngôn Người Gieo Giống, đó là niềm hi vọng hoa trái, và hoa trái bội thu tất yếu của hạt giống Lời Chúa, bất chấp những trở ngại, thậm chí bất chấp điều tưởng là thất bại. Thay vì chỉ hiểu dụ ngôn theo hướng luân lí.
Dụ ngôn cũng loan báo Mầu Nhiệm Thập Giá. Nơi Thập Giá, trở ngại lớn nhất là tội và sự dữ, và sự dữ được để cho đi đến cùng, nghĩa hủy diệt Hạt Giống, vốn cũng là Người Gieo Giống. Nhưng điều kì diệu đã xẩy ra: đó lại là con đường thần linh, nhưng cũng rất nhân linh và thiên nhiên, để cho Hạt Giống nảy mầm, lớn lên sinh hoa kết quả “gấp trăm” cho sự sống của con người, hôm nay và mãi mãi:
Đó chính là công trình của Thiên Chúa,
công trình kì diệu trước mắt chúng ta. (Tv 118, 22)
2. Lời người, theo khuôn mẫu của Lời Chúa
Trong bài Tin Mừng của thứ tư Lễ Tro, Đức Giêsu mời gọi chúng ta một cách thật mạnh mẽ: anh em đừng bố thí, cầu nguyện và ăn chay như những người giả hình (c. 2.5.16); giả hình là chỉ có bề ngoài thôi, không có bên trong, không có sự thật. Thật vậy, người “đạo đức”, trong mọi tôn giáo và thuộc mọi thời, thường thực hành những việc này một cách phô trương; phô trương là làm vì người khác và tìm sự chú ý của người khác. Hoàn toàn không có chiều kích “thiêng liêng”, nghĩa là vì Thiên Chúa, bởi Thiên Chúa và hướng về Thiên Chúa.
Trong ba việc đạo đức, Đức Giêsu nói về cầu nguyện cách đặc biệt nhất: trước hết, việc cầu nguyện có vị trí trung tâm, không chỉ ở trung tâm của bộ ba bố thí, cầu nguyện và ăn chay, nhưng còn ở trung tâm của toàn bộ “Bài Giảng Trên Núi”; và ngoài ra, Đức Giêsu nói về cầu nguyện dài nhất, trong đó có lời nguyện “Lạy Cha của chúng con”, vang lên trên môi miệng của chúng ta nhiều lần trong ngày. Và đó nội dung bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe (c. 7-15).
Lời dạy của Đức Giêsu về cầu nguyện còn có một điểm đặc biệt nữa, đó là Ngài không chỉ nói: “khi anh em cầu nguyện, đừng trở nên như những người giả hình” (c. 5), nhưng còn nói: “anh em đừng lải nhải như dân ngoại!” (c. 7) Thực vậy, lời nguyện của chúng ta không được trở thành những lời lải nhải chỉ qui về mình, nghĩa là nhằm thỏa mãn nhu cầu, hoặc như những âm thanh vô hồn, nhưng phải là một lời ca tụng dựa trên tương quan thiết thân Cha-Con. Vì thế, trong lời nguyện “Lạy Cha của chúng con”:
Ø Chúng ta được mời gọi ra khỏi mình để đi vào tương quan phụ-tử với Thiên Chúa, là Cha của chúng ta.
Ø Ra khỏi mình để quan tâm trước hết đến Danh của Cha, đến Nước của Cha, đến Ý của Cha.
Ø Và sau đó mới quan tâm đến sự sống của mình, nhưng không phải sự sống mà mình muốn, nhưng là sự sống đích thật mà Thiên Chúa muốn: đó là sự sống được xây dựng trên những ơn huệ: ơn huệ lương thực, ơn huệ giải thoát khỏi sự dữ và ơn huệ thứ tha.
Và nếu chúng ta để ý lắng nghe bài Tin Mừng, chúng ta sẽ nhận ra rằng Đức Giêsu đặc biệt nhất mạnh đến ơn tha thứ, vì con người không thể sống nếu không có ơn tha thứ: tha thứ của Cha nhân hậu và sự tha thứ mà chúng ta trao ban cho nhau.
3. Lời tái sinh
Sau khi dạy những lời chúng ta cần ngỏ với Chúa Cha (c. 9-13), Đức Giêsu nhắc lại một điểm đã được nêu trong những lời này, đó là sự tha thứ: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta…” Như thế, sự tha thứ có tầm quan trọng đặc biệt. Chúng ta không thể sống với nhau nếu không tha thứ cho nhau (kinh nghiệm được bố mẹ và các anh các chị tha thứ khi chúng ta còn bé), và chúng ta cũng không thể “sống với” Chúa, nếu không được Ngài tha thứ. Bởi vì, lời tha thứ là lời tái sinh: “Con ta đã chết, nhưng nay sống lại” (dụ ngôn Người Cha nhân hậu trong Lc 15, 11-32).
Lời Đức Giêsu nhấn mạnh đặc biệt đến việc chúng ta cần tha thứ cho nhau, đến độ, tha thứ cho nhau là “điều kiện” cho ơn tha thứ của Thiên Chúa. Ngài nói về điều này 2 lần, một lần xác định và một lần phủ định:
Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em.
Tuy nhiên, theo lời nguyện “Lạy Cha” ơn tha thứ của Thiên Chúa không “tự động” rơi xuống trên chúng ta một khi chúng ta đã tha thứ cho nhau. Chúng ta vẫn phải xin: “Xin tha tội cho chúng con, như chính chúng con đã tha thứ (động từ ở thì quá khứ) cho những người có lỗi với chúng con”. Bởi lẽ ơn tha thứ không bao giờ là “tự động”, ơn tha thứ chỉ có thể được trao ban trong một tương quan nhìn nhận nhau, đón nhận nhau (x. dụ ngôn Người Con Hoang Đàng; và bí tích hòa giải cũng diễn tả tương quan này). Hơn nữa, nợ người ta mắc với chúng ta thì ít, còn nợ của chúng ta mắc với Thiên Chúa thì quá lớn (x. dụ ngôn nhỏ trong Lc 7, 40-43). Tuy nhiên, chúng ta không thể xin Thiên Chúa tha thứ, trong khi mình đã không tha thứ , sẵn sàng hay ít nhất ước ao tha thứ cho người khác.
* * *
Nhưng ai trong chúng ta cũng cảm thấy khó tha thứ cho nhau. Vì thế, kinh nghiệm lòng thương xót, sự bao dung và sự tha thứ của Thiên Chúa nơi bản thân mình chính là nguồn sức mạnh để chúng ta có thể tha thứ cho nhau.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc