CHỦ NHẬT LỄ LÁ
Cuộc thương khó của Chúa Giê su
Cuộc khải hoàn vào Thành thánh Giêrusalem mang nhiều
ý nghĩa. Đối với các môn đệ đó là cách thực hiện niềm hi vọng của họ đối với
Chúa Giê su, đối với các thù địch Chúa Giê su, thì đó là cớ để họ kết án Ngài.
Còn đối với Chúa Giê su, thì đó là điểm đến cuối cùng của con đường hoàn toàn
tùng phục thánh ý Thiên Chúa Cha. Với toàn thể Giáo hội, chúng ta hãy cầu
nguyện xin đừng bao giờ quên rằng chính Tình yêu là nguyên do mọi sự đau khổ
của Chúa Giê su và cuộc đời chúng ta là lời đáp trả cho tình yêu ấy.
Sách Tiên tri Isaia
50, 4-7
Vị Tiên tri trình bày diện mạo người Tôi tớ đau khổ.
Người Tôi tớ đích thật luôn lắng nghe Lời và đáp trả Xin Vâng trước những lời
dạy cùa Thiên Chúa. Đức Giê su chính là người Tôi trung tuyệt vời ấy. Vì chữ
Tín trung mà Ngài phải lãnh lấy những hình khổ ghê gớm nhất. Sự kiên trì của
Ngài là hòan hảo và không suy suyển. Ngài đi đến cùng, cho đến chết, cho đến sự
sống.
Thánh vịnh 21
Thánh vịnh nầy là lời mô tả trung thực cuộc khổ nạn.
Các khổ hình kinh khủng nhất, những lời chế diễu bỉ ổi nhất, cuộc hành hạ kinh
hoàng nhất, không gì có thể đánh mất lòng trung kiên của người tôi tớ đau khổ
đối với Đấng hiến ban sự sống, hi vọng. Chúng ta hãy đọc Thánh vịnh nầy trong
ngữ cảnh toàn bộ Kinh thánh.
Thư gửi Phi líp phê 2,
6-11
Đức Giê su Ki tô là Chúa. Trong
Đức Ki tô, Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta Người là Thiên Chúa, Chủ tể trần
gian, đấng Messia và đấng Cứu độ. Ngài nhập thể là sự hiện diện của Cha trên
trần gian. Người tôi tớ vô ích, đấng Messia đau khổ, đấng Cứu thế bị kết
án..Con đường ấy, Thiên Chúa đề nghị cho Giáo Hội để cho Vương quốc của Người
ngự đến.
Bài Tin mừng 1: Mt 21,1-11.
Chúa Giê su khải hoàn vào thành
Giê ru sa lem
NGỮ CẢNH
Mát
thêu cũng như hai tin mừng nhất lãm kia (Mc và Lc) đều đặt trước trình thuật
Khổ nạn một sưu tập các biến cố, dụ ngôn, đối thoại và tiên tri tạo thành một
đơn vị đậm chất bi kịch và đối kháng mang dáng dấp một cuộc tranh tụng trước
tòa.
Đoạn
thứ nhất là biến cố Chúa Giê su đi vào thành Giê ru sa lem khởi đầu cho tuần lễ
cuối cùng trong cuộc đời Chúa Giê su.
TÌM HIỂU
Bết pha
ghê: để đi đến Giê ru sa lem, từ Giê ri cô, người ta phải đi
ngang qua Bê ta ni a và Bết pha ghê. Tên gọi Bết pha ghê có nghĩa là “nhà cây
vả”, có lẽ nhằm chuẩn bị cho phép lạ cây vả bị khô héo đi sau (21,18-22).
Hai môn đệ: Chúa Giê su sẽ còn sai hai môn đệ (26,17-19) đi chuẩn bị một căn phòng ở
Giê ru sa lem cho bữa tiệc Vượt qua. Nên chú ý đến tước hiệu mà Chúa Giê su tự
gán cho mình trong cả ba tin mừng nhất lãm: “Chúa”.
Con lừa mẹ: chỉ có Mt mới ghi lại rõ ràng chi tiết nầy để theo sát lời sấm tiên tri
Da ca ria 9,9. Trong bản Híp pri, người ta đọc: “Ngài ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ”. Đây chắc
là hai từ đồng nghĩa chỉ một con lừa duy nhất. Mt đặt hai con lừa chắc là để
cho thấy rằng lời Kinh Thánh được hoàn thành từng chữ, nhưng lại gây lúng túng
cho người đọc: Chúa Giê su ngồi cùng một lúc trên hai con lừa!
Áo choàng của mình: giống như lúc Vua Giê hu lên ngôi (2V 9,13).
Hôsanna: có nghĩa là: “Xin thương cứu giúp con” trích từ thánh vịnh 118,25. Dùng
riêng, kiểu nói nầy tương đương một lời tung hô, một tiếng hò la phấn khởi. Áp
dụng cho Chúa Giê su, con Vua Đa vít trong trường hợp nầy, nó mang ý nghĩa
thiên sai (Messia).
Chúc tụng: Lời tung hô nầy trích từ Tv 118,26 hát lên trong Lễ Lều, khi những người
tham dự đám rước, tay vẫy cành lá. Tv nầy còn được trích dẫn trong câu 21, 42.
Náo động: trong tiếng hi lạp nguyên bản, động từ nầy còn được dùng để chỉ đất rúng
động đi theo cái chết của Chúa Giê su. Trong câu 8,24, nó diễn tả cơn bão hoành
hành trên biển hồ, và trong câu 28,2 diễn tả nỗi kinh hoàng tột độ của những
người lính canh lúc Chúa Giê su sống lại.
Ngôn sứ Giê su: Tước hiệu không long trọng bằng tước Vua trong Luca và Gioan, cũng không
bằng tước Con vua Đa vít trong trình thuật Mát thêu (21,9.15). Chỉ có Mt dùng
để phản ánh ý kiến của dân chúng về Chúa Giê su (21,46).
Bài Tin mừng 2: 26,14-27,66.
Cuộc Khổ nạn của Chúa Giê su
NGỮ CẢNH
Xét
theo truyền thống, ý nghĩa và độ dài, trình thuật khổ nạn chiếm một chỗ quan
trọng trong các Tin mừng.
Cũng như
hai tin mừng kia, Mát thêu bắt đầu trình thuật Khổ nạn bằng câu chuyện Giu đa
phản bội (26, 14-16). Sau bữa tiệc li và và hấp hối ở vườn cây dầu (17-56),
Chúa Giê su bắt đầu bị thẩm vấn, xét xử và hành hạ: trước tòa Cai pha (26,57-
27,10); và tòa Phi la tô (27,11-31). Phần cuối nói về đường thập giá và cái
chết của Chúa Giê su (27,32-54) để kết thúc bằng việc chôn cất và canh gác mộ
Chúa Giê su (55-66).
Đặc
tính thường thấy trong sách tin mừng Mt như hài hòa, sáng sủa và trang trọng
vẫn tiếp tục trong bài tường thuật vê cuộc Khổ nạn. Đặc biệt Mát thêu kể lại
những biến cố không thấy có trong các tin mừng khác như: Giu đa tự tử (27,3-10), vợ Phi la tô can
thiệp (27,19), một vài biến cố xảy ra chung quanh cái chết của Chúa Giê su
(27,51-54), tổ chức canh mồ (27,62-66), và việc phao tin xác Ngài đã bị đánh
cắp (28,11-15). Lí do có lẽ là vì sách tin mừng Mát thêu được viết cho môi
trường Pa lết ti na.
Trình
thuật của Mát thêu có tinh cách giáo hội và mang hình thức một bài giáo lí: lối
hành văn sáng sủa, rõ ràng, thích hợp với phụng vụ. Đặc biệt trong lối trình
bày các sự kiện: được đức tin soi sáng, các biến cố trở nên dễ hiểu.
a.
Trong phần Chúa Giê su bị bắt, trong
khi Mác cô tìm cách đánh động độc giả bằng cách kể các sự kiện, thì Mát thêu lại
thích dùng những lời soi sáng giải thích các sự kiện đó. Mát thêu bỏ qua một
vài chi tiết sống sượng (Mc 14,44: “Tôi
hôn ai..”; 14,51: “Một thanh niên
chạy trốn mình trần..”), và trình bày một cách thanh thản, trang trọng hơn,
rõ ràng hơn. Đặc biệt Mát thêu luôn tìm cách soi sáng mọi việc xảy ra bằng lời
nói (26,50: “Này bạn, bạn đến đây làm gì,
thì cứ làm đi!”. 52-54: “Hãy xỏ gươm
vào vỏ..”). Trong phần nầy, Mát thêu cho thấy Chúa Giê su chọn con đường tự
hạ trong sự sáng suốt và tự do hoàn toàn, vì Ngài nhận ra đó là con đường mà
thánh ý Thiên Chúa đã vạch sẵn. Bởi đó, đừng đọc trình thuật nầy như một biên
bản những gì đã xảy ra. Khi nhìn cuộc khổ nạn, Giáo Hội sơ khai lấy Thánh Kinh
để hiểu ý nghĩa của nó, và nhận ra, có sự tương hợp giữa ý định ban đầu của
Thiên Chúa được tiên báo trong Cựu Ước và các biến cố lúc đầu xem ra khó hiểu.
b. Phiên tòa Do Thái. Sau khi bị bắt, Chúa
Giê su bị giao nộp cho các lãnh đạo Do Thái giáo: người ta điệu Ngài đến vị
thượng tế. Tại đây mọi thủ tục tố tụng bắt đầu. Mát thêu đặc biệt nhấn mạnh đến
cuộc hỏi cung ban đêm: câu hỏi của vị thượng tế mang hình thức một lời yều cầu
long trọng. Và thay vì trực tiếp trả lời “chính
là tôi!”(như Mc 14,62), Chúa Giê su dựa vào câu nói của vị thượng tế: “Ông nói đó!” (Mt 26,64). Qua đó, Ngài
cho biết không phải chính Ngài có sáng hiến công bố phẩm chức Thiên sai, và tỏ
ra dè dặt đối với quan niệm thiên sai của những kẻ tố cáo Ngài.
Mát thêu còn thêm
vào đoạn nói về “giá máu” Chúa Giê su
(27,3-10), cho thấy đây là một vụ án bất công (lời thú nhận thái độ của Giu đa,
27,4-5). Đàng khác Mt cũng nhấn mạnh rằng ý định của Thiên Chúa được thực hiện
theo lời tiên báo của Thánh Kinh (27,9-10).
c. Khác với Mác
cô vắn tắt trong một vài dòng, Mát thêu trình bày rõ ràng hơn phiên tòa Rô ma. Phần độc đáo của ông
nằm trong giai thoại về Baraba qua hai yếu tố mới: vợ Phi la tô bất ngờ can
thiệp, theo lời mộng báo, nhìn nhận Chúa Giê su là người công chính và bênh vực
Chúa Giê su (27,19) và màn rửa tay của Phi la tô từ chối trách nhiệm trong việc
giết Chúa Giê su ( 27,24-25). Qua diễn biến phiên tòa, Mát thêu muốn làm nổi
bật tương quan giữa Chúa Ki tô với dân Is ra ên. Trong khi người ngoại xin tha
cho “người công chính”, thì dân do thái lớn tiếng đòi giết đấng Thiên sai.
Trách nhiệm mà Phi la tô từ khước thì “toàn dân” do thái nhận lấy trên đầu
mình. Như thế, từ nay, muốn vào Vương quốc Thiên Chúa, ngườ Is ra ên phải hối
cải và gia nhập giao ước mới ký kết trong máu Chúa Giê ssu (Mt 26,28).
d. Sau khi bị kết
án tử hình thập giá, Chúa Giê su bị bọn lính hành hạ, rồi dẫn lên núi Sọ, đóng
đinh vào thập giá. Cái chết của Ngài là biến cố chủ chốt của lịch sử cứu độ,
qua đó, Mát thêu muốn cho thấy thời đại cũ đã chấm dứt, và Hội Thánh Chúa Ki tô
được khai sinh.
Bọn lính hành hạ
(27,27-31). Người do thái ở sân Thượng tế chế nhạo Chúa Giê su là tiên tri (26,
67-68), và bây giờ là lính Rô ma hành hạ Ngài trong tư cách một ông Vua: khoác
cho Ngài một áo choàng, một vòng gai làm vương miện, và một cây sậy làm vương
trượng, rồi quì gối nhạo báng Ngài. Cảnh tượng nhục nhã và đau thương ấy là
phương tiện nghịch thường mà Thiên Chúa chọn để cho thấy rằng, Chúa Giê su đích
thật là Vua dân do thái, Vua mọi dân tộc.
Đóng đinh Chúa
Giê su (27,32-54). Cũng như Mc, Mát thêu đóng khung việc Chúa Giê bị đóng đinh
trong hai câu chuyện về ông Si mon và các người nữ đạo đức. Ở đây, ta gặp lại
tước hiệu “Vua dân do thái” (ở trên
kia). Tiếp đến là màn chế diễu của những kẻ qua đường, các lãnh đạo do thái
giáo. Sau khi Chúa Giê tắt thở, màn trong Đền thờ bị xé ra làm đôi, và viên bách
quản tuyên xưng đức tin của mình. Việc màn đền thờ bị xé làm đôi chứng thực lời
tiên báo Đền thờ sẽ bị phá hủy, nhường chỗ cho một đền thờ mới.
Chúa Giê su tắt
thở. Nhìn từ bên ngoài, mọi sự hình như đã tiêu tan, đã chấm dứt. Nhưng thực
ra, mọi sự đã xong theo nghĩa tích cực: mọi sự đã hoàn tất như đã báo trước.
Sau cùng các âm
hưởng do cái chết Chúa Giê su được bố trí trong một quang cảnh vĩ đại làm nổi
bật tầm quan trọng cánh chung của
biến cố: thời đại cũ chấm dứt và thời đại mới khai mào.
TÌM HIỂU
Ba mươi đồng bạc: Chỉ có Mt đưa ra chi tiết
chính xác nầy (lặp lại ở 27,9) qui chiếu đến lời Tiên tri Dacaria 11,12 và nhắc
lại số tiền phải bỏ ra để mua một người nô lệ (Xh 21,32).
Thời của Thầy đã gần tới: chỉ có Mt mới dùng kiểu
nầy. Chúa Giê su hành động như người chủ, khi đã ra lệnh cho các môn đệ và chủ
con lừa (21,2-3) và chủ căn phòng. Ở đây, Ngài đưa ra lí do là giờ của Ngài đã
gần, cuộc đời của Ngài đã đến cao điểm. Chúa Giê su nói về thời giờ đó như
Khinh Thánh nói về thời giờ của Thiên Chúa hoặc Gioan nói về giờ của Chúa Giê
su. Đó là khoảng thời gian có liên hệ đến toàn bộ lịch sử nhân loại, bởi vì nói
mang lại cho con người ý nghĩa tối hậu cho thời gian của họ. Cũng ở đây, Chúa
Giê su chủ động các biến cố và muốn biến bữa tiệc nầy thành một hành vi mạc
khải.
Như Lời đã chép: Mt nhấn mạnh nhiều lần
rằng cuộc Khổ nạn đang bắt đầu xảy ra như đã chép (cc.31.54.56).
Kẻ nộp Người: Chỉ có Mt thuật lại câu
hỏi của Giu đa và câu trả lời khẳng định của Chúa Giê su bằng một công thức mà
người ta còn gặp lại ở câu 26,64. Ý Chúa Giê su muốn để cho người hỏi hoàn toàn
chịu trách nhiệm về điều mà anh ta mới hỏi.
Mà ăn: Lời
mời nầy cũng như lời mời “Anh em tất cả
hãy uống” (27) của Chúa Giê su chỉ có trong Mt.
Cho muôn người được tha tội: chỉ riêng Mt
mới có chi tiết nầy gợi lại chủ đề nền tảng của Tân Ước (x. Mc 1,4; Lc 1,77;
24,47; Cv 2,38; Ep 1,7; Hp 9,22; 10,18). Khi trao nộp mình và máu mình cho loài
người, Chúa Giê su giải phóng họ khỏi tội lỗi và giao hòa với Thiên Chúa.
SỨ ĐIỆP
Sau bài trình
thuật Thương Khó, thường người ta im lặng để cảm xúc lắng dịu suy niệm về cái
chết của Chúa Giê su. Thật vậy, chúng ta sẽ khám phá Chúa Giê su, Con Thiên
Chúa, trong sự thật của bản tính loài người: Ngài đã chịu đau khổ, bị nhục mạ,
và lo lắng khi đối diện sự chết: trên thập giá, chúng ta đã nghe tiếng Ngài
thổn thức: “Lạy Cha, sao Cha bỏ
con ?”. Lời đó rút ra từ Thánh Vịnh 121 kết thúc bằng tiếng kêu đầy
tin tưởng: “Lạy Cha, con phó thác hồn con
trong tay Cha”.
Ngang qua Chúa
Giê su, chính Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta diện mạo và bản tính chân thật
của Ngài. Ngài không phải là một ai đó vô cảm, nhưng là một ai đó đến với chúng
ta trong những đau khổ và sự chết của chúng ta. Ngài chịu đau khổ với chúng ta
và cho chúng ta. Cuộc Khổ nạn của Đức Ki tô, không chỉ là chuyện của Ngài, mà
là chuyện của chúng ta và của tất cả mọi người trên trần gian.
Trong trình thuật
khổ nạn, chúng ta nhận rõ sự độc ác, hèn nhát và sự bất công của con người. Vì
quen sống bầu bạn với những người ngoại và những kẻ bị loại trừ, nên Chúa Giê
su đã trở thành cái gai nơi mắt người Do thái. Và như thế Ngài đã khiến họ phẫn
nộ nên đã xách động đám người cuồng nhiệt căm thù và giết hại Ngài. Nhưng Ngài
đã vượt lên tất cả để sống đến cùng tình yêu đối với tất cả mọi người, kể cả
những kẻ làm hại Ngài. Đáng tiếc thay, con người đã không chấp nhận diện mạo
nầy của Thiên Chúa.
Và kết cục là sự
phản bội, kết án và xử tử hình Chúa Giê su trên thánh giá. Tất cả những điều ấy
đưa chúng ta về với chính mình với sự lựa chọn và những ưu tiên của mình: trong
cuộc sống hằng ngày, chúng ta có thực sự ở về phía Thiên Chúa không, về phía
của người tìm cách đem lại sự sống và hi vọng cho những người hèn kém và bị
loại trừ không? Đừng quên rằng Ngài tự đồng hóa với mọi người trong họ. Khi
chúng ta làm điều xấu cho ai, chúng ta tiếp tục đứng về phía những người phỉ báng
Đức Ki tô. Vì thế chúng ta phải tuyệt đối lọai trừ tất cả những lời nói và thái
độ có thế gây thương tổn. Chúng là sự nhục mạ đấng đã đến để cho tất cả mọi
người có sự sống dồi dào.
Nhưng nơi đâu tội
lỗi đầy tràn, ân sủng càng chan chứa. Đức Ki tô làm chứng cho một tình yêu
không điều kiện, một tình yêu tha thứ và cứu độ. Nỗi khốn cùng của chúng ta đó
là không biết yêu thương. Chính trong nỗi khốn cùng ấy mà Chúa Giê su đến gặp
chúng ta để lôi kéo chúng ta yêu thương bằng một tình yêu mà chỉ Thiên Chúa mới
có và ban cho chúng ta mà thôi.
Chúng ta sẽ cùng
nhau sống tuần thánh sắp tới. Đối với tất cả mọi người ki tô hữu trên tòan thế
giới, đây là lúc quan trọng nhất trong năm, khi chúng ta có cơ hội đi theo Chúa
Giê su trên đường Can vê. Cái chết, ngày thứ sáu thánh, không phải là điểm dừng
cuối cùng. Nó chỉ có nghĩa là một “sự vượt qua” từ thế giới nầy đến với Cha.
Chính vì thế mà Chúa Giê su đã đến để mở ra cho chúng ta một con đường, cho
phép toàn thể nhân lọai đi vào trong vinh quang của Cha. Chúng ta sẽ cùng nhau
hát và công bố rằng: “Anh hãy nhớ rằng
Chúa Giê su Ki tô đã từ sống lại từ cõi chết. Ngài là sự cứu độ và là vinh
quang vĩnh cửu của chúng ta”.
ĐÀO SÂU
CHẾT ĐỂ CỨU ĐỘ CHÚNG TA
Kiệu lá
Mt 21,1-11 Đức Giê su vào thành Thánh
Giê-ru-sa-lem như đấng Thiên sai
1. HỎI: Ngữ cảnh bài Tin mừng (kiệu lá) (Mt 21,1-11) như
thế nào?
THƯA: Trên đường tiến
về Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su và các môn đệ khi ra khỏi thành Giê-ri-cô đã chữa
lành hai người mù (Mt 20,29-34). Tới làng Bết-pha-ghê Ngài sai hai môn đệ
(21,1tt) đi trước chuẩn bị cho Ngài vào thành Thánh trong tư cách đấng Thiên
sai tiến vào thành của mình. Tiếp sau đó là những hoạt động của Ngài tại
Giê-ru-sa-lem trước tuần Khổ nạn. Có 2 ý chính: 1) Đức Giê-su tổ chức cuộc rước
(21,1-7); 2) Đức Giê-su tỏ mình (21,8-11).
2. HỎI: Bết-pha-ghê nằm ở đâu và có nghĩa gì?
THƯA: Để đi đến
Giê-ru-sa-lem, từ Giê-ri-khô, người ta phải đi ngang qua Bê-ta ni-a và
Bết-pha-ghê. Tên gọi Bết-pha-ghê có nghĩa là “nhà cây vả”, có lẽ nhằm chuẩn bị cho phép lạ cây vả bị khô héo đi
sau (21,18-22).
3. HỎI: Việc Đức
Giê-su sai hai môn đệ đi dọn trước cho Ngài có ý nghĩa gì?
THƯA: Cho thấy Ngài biết trước và chủ động mọi sự trong cuộc khổ nạn. Điều này
cho hiểu là Đức Giê-su ý thức Người là Đấng Mê-si-a, Người làm chủ tình hình,
Ngài sắp đặt các biến cố như một nhà đạo diễn. Điều đó cho thấy cuộc khổ nạn
không đổ ập xuống đầu Ngài như một tai nạn không thể tránh được, nhưng là thánh
ý Thiên Chúa Cha mà Ngài phải vâng phục.
4. HỎI: Đức
Giê-su sử dụng mấy con lừa?
THƯA: Chỉ có Mt mới ghi lại rõ ràng chi tiết nầy để theo
sát lời sấm tiên tri Da-ca ri-a 9,9. Trong bản Híp-pri, người ta đọc: “Ngài ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn
còn theo mẹ”. Đây chắc là hai từ đồng nghĩa chỉ một con lừa duy nhất. Mt
đặt hai con lừa chắc là để cho thấy rằng lời Kinh Thánh được hoàn thành từng
chữ, nhưng lại gây lúng túng cho người đọc: Chúa Giê su ngồi cùng một lúc trên
hai con lừa!
5. HỎI: Câu tung
hô “Hô-san-na” có nghĩa gì?
THƯA: “Hô-san-na” có nghĩa là: “Xin thương cứu giúp con” trích từ thánh
vịnh 118,25. Dùng riêng, kiểu nói nầy tương đương một lời tung hô, một tiếng hò
la phấn khởi. Áp dụng cho Đức Giê-su, con Vua Đa-vít trong trường hợp nầy, nó
mang ý nghĩa thiên sai (Mê-si-a).
6. HỎI: “Thiếu nữ Si-on” là ai?
THƯA: “Thiếu nữ Si-on” trong truyền thống
ngôn sứ là Ít-ra-ên cánh chung được nhân cách hóa, ở đây là dân cư
Giê-ru-sa-lem.
7. HỎI: Dân chúng là ai?
THƯA: Mát-thêu phân biệt: đám đông tham dự vào cuộc rước dường như là đoàn
người đã đi lên với Đức Giêi-su từ Giê-ri-khô (20,29.34). Còn dân cư
Giê-ru-sa-lem thì lãnh đạm chứng kiến sự cố.
HỎI: “Chúc tụng”
lời tung hô nầy có nghĩa gì?
THƯA: Lời tung hô nầy
trích từ Tv 118,26 hát lên trong Lễ Lều, khi những người tham dự đám rước, tay
vẫy cành lá. Tv nầy còn được trích dẫn trong câu 21, 42.
Trong Thánh Lễ
Is 50,4-7 Người tôi tớ của Thiên Chúa
chấp nhận chịu đau khổ
Tv 22,8 Lạy Thiên Chúa của con, lạy
Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ con ?
Pl 2,6-11 Đức Giê-su tự hạ và được tôn
vinh
Mt 26,14-27,66 hoặc Mt 27,11-54 Cuộc Khổ nạn của Đức Giê-su
1. HỎI: Các bài đọc được liên kết theo chủ đề gì?
THƯA: CHẾT ĐỂ CỨU ĐỘ CHÚNG TA. Diện mạo của người Tôi tớ đau khổ mà Tiên tri I-sai-a giới thiệu
(Bđ1) và người đau khổ (Tv 21) được hiện thực nơi Đức Giê-su trên thánh giá.
Ngài đã tự hạ và vâng phục cho đến chết trên thánh giá vì loài người chúng ta
(BTM).
2. HỎI: Nội dung bài đọc một (Is 50,4-7) nói gì?
THƯA: Bài đọc một trích từ sách Tiên tri I-sai-a
chương 50 (4-9), thường được gọi là ‘Bài
Ca thứ ba về người Tôi Tớ Thiên Chúa’, mô tả người tôi tớ Thiên Chúa như
người môn đệ quan tâm lắng nghe Lời Chúa dạy và dù bị bách hại vẫn quyết tâm
trung thành với sứ mạng cho đến cùng.
3. HỎI: Bối cảnh bài đọc một (Is 50,4-7) như thế
nào?
THƯA: Bản văn nầy có lẽ được tác giả viết ra vào
khoảng thế kỉ thứ 6 trước Công Nguyên cho cộng đoàn dân Ít-ra-ên đang bị lưu
đày ở Ba-by-lon. Họ đang sống trong những tình thế hết sức bi đát khiến nhiều
người thất vọng, muốn buông xuôi và quay lưng lại với Thiên Chúa. Vì thế, tiên
tri nhắc họ rằng họ vẫn luôn là người tôi tớ của Thiên Chúa, được Người tín
nhiệm để hoàn thành chương trình cứu độ nhân loại.
4. HỎI: Đặc điểm nổi bật nơi người Tôi tớ Thiên Chúa
là gì?
THƯA: Trong bài ca, Tiên tri đề cao tương quan giữa Thiên Chúa và tôi tớ của Người.
Nhưng điểm đặc biệt ông nhấn mạnh là việc người tôi tớ chăm chỉ lắng nghe Lời
Người phán và an tâm phó thác để cho Người dạy dỗ.
5. HỎI: Tương quan giữa Thiên Chúa và dân Người hệ
tại điều gì?
THƯA: Đó là sự tin tưởng lẫn nhau. Thiên Chúa tin
tưởng nên trao cho tôi tớ Người một sứ mạng. Đáp lại, một khi đã lãnh nhận sứ
mạng thì người Tôi tớ phải hoàn toàn tin tưởng nơi Thiên Chúa để được mạnh mẽ
và vững vàng thi hành sứ mạng ấy trong mọi nghịch cảnh.
6. HỎI: Đâu là tư cách chính yếu của người Tôi tớ
Thiên Chúa?
THƯA: Đó là người lắng nghe và thực hành Lời Chúa.
Ngoài ra, người Tôi tớ còn phải sẵn sàng chịu đựng mọi cuộc bách hại, phải luôn
tìm kiếm sức mạnh nơi Thiên Chúa để có thể kiên tâm cho đến cùng.
7. HỎI: Tại sao người tôi tớ “trơ mặt ra như đá”?
THƯA: “Trơ
mặt ra như đá” là kiểu nói diễn tả sự quyết tâm, kiên định và can trường.
Người tôi tớ Thiên Chúa phải kiên quyết cho tới cùng, không nao núng trước mọi
nghịch cảnh. Đó không phải là kiêu căng tự phụ nhưng là một lòng phó thác cậy
trông vào Chúa.
8. HỎI: Bài đọc một có liên quan với bài tin mừng
không?
THƯA: Trong bài đọc một, Tiên tri I-sai-a nói đến
đám dân bị bách hại, bị tủi nhục trong kiếp lưu đày ở Ba-by-lon chứ không có ý
ám chỉ Đấng Mê-si-a. Nhưng khi đọc lại bài ca ấy dưới ánh sáng của Chúa Thánh
Thần, những người tín hữu đầu tiên nhận ra người Tôi tớ của Thiên Chúa chính là
Đức Giê-su trong cuộc Khổ nạn. Dù bị đối xử như một tội nhân, Ngài đã trung
thành thực hiện sứ mạng cứu độ cho đến cùng.
9. HỎI: Nội dung
bài đọc 2 (Pl 2,6-11) như thế nào?
THƯA: Bài thánh ca chúc tụng Đức Giê-su Ki-tô đã tự hủy thẳm sâu khi hạ mình
cho đến chết trên thánh giá nên được Thiên Chúa Cha tôn vinh làm Chúa.
10. HỎI: Bài
tường thuật Khổ nạn Đức Giê-su trong các tin mừng nhằm mục đích gì?
THƯA: Các bài trình thuật Khổ nạn trong các sách Tin mừng không nhằm mô tả
chính xác và tỉ mỉ tất cả những gì đã xảy ra trong cuộc Khổ nạn của Đức Giê-su.
Mục tiêu nhắm đến là cho thấy việc Ngài chịu nạn là để hòan tất các lời tiên tri trong Cựu Ứớc. Hầu hết các chi tiết đã
được tiên báo trong các Thánh vịnh 21 và 68, nhất là trong chương 53 sách Tiên
tri I-sai-a nói về cuộc khổ nạn của người Tôi tớ Thiên Chúa. Do đó, các bài
tường thuật khổ nạn là lịch sử thánh nhằm
nâng đỡ đức tin.
11. HỎI: Trình thuật Khổ nạn trong tin mừng Thánh Mát-thêu
có đặc điểm nào?
THƯA: Trước tiên Thánh Mát-thêu muốn làm nổi bật
hai thái độ tương phản trong cuộc Khổ nạn Đức Giê-su: lẽ ra người Do thái phải
là những người tin vào Đức Giê-su, thì họ lại chối từ, khinh dễ và hành hạ
Ngài. Trái lại, dân ngoại dù không biết Ngài là ai, lại dùng những tước hiệu
cao quí để tôn trọng Ngài.
12. HỎI: Thánh Mát-thêu dùng những tước hiệu nào?
THƯA: Thánh Mát-thêu dùng những tước hiệu sau đây
để nói về Đức Giê-su: Vua người Do thái, Đấng Mê-si-a, Người Công chính, và Con
Thiên Chúa.
13. HỎI: Tước ‘Vua
người Do thái’ được dùng với mục đích gì?
THƯA: Trong khi quân dữ ba lần gọi Đức Giê-su là ‘Vua người Do thái’ để nhục mạ và chế
diễu Ngài, thì tấm bảng gắn trên đỉnh thập giá ghi hàng chữ ‘Giê-su, Vua dân Do thái’ (27,37) làm nổi
bật mầu nhiệm Đức Giê-su: Ngài là Vua và là Đấng cứu độ dân Ngài. Đó chính là
điều mà người ta chờ đợi nơi Đấng Mê-si-a.
14. HỎI: Tước hiệu ‘Đấng Mê-si-a’ được dùng với mục đích gì?
THƯA: Phi-la-tô hai lần dùng tước hiệu nầy để gọi
Đức Giê-su (27,17.22). Bà vợ ông trong một giấc mơ đã thấy Ngài được gán cho
tước hiệu cao cả nhất của Cựu Ước là người “công chính” (27,19). Như thế, chính
những người ngoại lại nói lên sự thật về Đức Giê-su.
15. HỎI: Còn tước hiệu ‘Con Thiên Chúa’?
THƯA: Lúc đầu tước hiệu cao quí nầy được sử dụng để
chế diễu Đức Giê-su. Nhưng sau cùng được viên sĩ quan ngoại giáo dùng để tuyên
xưng lòng tin của ông vào Ngài (27,54). Lời tuyên xưng của ông cho thấy trước
sự hoán cải của người ngoại, và đối với thánh Mát-thêu thì cái chết của Đức
Ki-tô không phải là một thất bại nhưng là một chiến thắng.
16. HỎI: Niềm tin ấy như thế nào?
THƯA: Thánh Mát-thêu dùng tước hiệu nầy để kết thúc
toàn bộ trình thuật Khổ nạn. Đối với người sĩ quan ngoại giáo, cũng như đối với
các tín hữu thời sơ khai, cái chết của Đức Giê-su không phải là một thất bại,
nhưng là một chiến thắng. Hay đúng hơn chính trong sự yếu đuối đã tỏ hiện rõ
ràng sức mạnh và tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Đó chính là vinh quang trong
và ngang qua thập giá.
17. HỎI: Lời của
Đức Giê-su trên thập giá: “Lạy Thiên Chúa
sao Ngài bỏ tôi?” (Mt 27,46) có phải diễn tả tâm trạng bị Thiên Chúa Cha
ruồng bỏ không?
THƯA: Không phải vậy. Dù ở trên thánh giá bị mọi người sỉ nhục và chế diễu, Đức
Giê-su không bao giờ cảm thấy cô đơn. Đúng hơn, Ngài đã cầu nguyện với Thiên
Chúa Cha qua Thánh vịnh 22. Ngài chỉ đọc lớn câu đầu tiên, vì câu nầy nói lên ý
nghĩa toàn bài Thánh vịnh. Sau nầy, Thánh Lu-ca đã diễn tả đúng tâm trạng đầy
tin tưởng và bình thản của Đức Giê-su lúc đó: “Lạy Cha, con phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).
18. HỎI: Thánh
Mát-thêu mô tả điều gì khi viết: “mồ mả
bị bật tung, và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được trỗi dậy. Sau khi Chúa
trổi dậy, các ngài ra khỏi mồ vào thành thánh, và hiện và với nhiều người”?
THƯA: Có người hiểu các câu trên như sự kiện thực sự xảy ra để báo trước sự sống lại của thân xác lòai người vào ngày
cánh chung. Nhưng dường như phải đọc các câu trên, theo cách biểu tượng: Thánh Mát-thêu đã muốn
truyền lại giáo huấn về thời cuối cùng vào lúc đấng Mê-si-a đến lần thứ hai,
tất cả, người sống cũng như kẻ chết, đều phải ra trước nhan Thiên Chúa để chịu
Phán xét chung.
19. HỎI: Sống sứ
điệp lời Chúa như thế nào?
THƯA: 1. Hôm nay, chúng ta thấy mình ở trong đám đông nào? Đoàn người đi theo
Đức Giê-su từ Giê-ri-khô hay dân cư Giê-ru-sa-lem? Chúng ta thấy mình được
tượng trưng bởi đoàn người vẫn đang đi theo Đức Giêsu: đây là Hội Thánh lữ hành
đang tiến đi mà loan báo cho cả người Do Thái (cc. 10-11) lẫn Dân ngoại (x.
28,19) biết Đức Giê-su là “con vua Đa-vít”,
là Đấng Cứu độ loài người. Chúng ta mời gọi mọi người đón tiếp một Đấng Mê-si-a
nghèo hèn và khiêm nhường. 2. Tin thật Chúa Giê-su là Con Một Thiên Chúa, là
Đấng đã vì yêu thương nhân loại mà chấp nhận mọi cực hình thập giá, để cứu
chuộc chúng ta. Tình yêu vô biên ấy của Chúa Giê-su Ki-tô đòi chúng ta đáp lại
bằng tình yêu của chúng ta.
GLCG 613. Cái chết của Đức Kitô đồng thời vừa là hy lễ Vượt Qua, mang lại ơn Cứu Chuộc
tối hậu cho loài người, nhờ Con Chiên, Đấng xoá tội trần gian, vừa là hy lễ của Giao Ước Mới, cho con người
lại được hiệp thông với Thiên Chúa, khi giao hòa con người với Thiên Chúa nhờ
máu đổ ra cho muôn người được tha tội. (X. Đức Giê-su khải hoàn vào
Giê-ru-sa-lem 557-560. Chúa Giêsu: ‘trong
danh phận một Thiên Chúa’ và ‘đầy tớ’ đã vâng lời cho đến chết 449, 612, 713).
559 333, 132.
Giê-ru-sa-lem sẽ đón nhận Đấng Mê-si-a của mình như thế nào? Trong khi Đức
Giê-su trốn tránh mọi ý đồ của dân chúng muốn tôn Người làm vua (x.Ga 6,15) thì
Người lại chọn thời điểm và chuẩn bị mọi chi tiết chuyến vào Giê-ru-sa-lem,
thành phố của "Đa-vít, Cha của Người" (Lc 1,32) (x. Mt 21,1-11 với tư
cách là Đấng Mê-si-a. Người được dân chúng hoan hô như con vua Đavit, Đấng mang
lại ơn cứu độ ( Hosanna có nghĩa là "Xin cứu chúng con","Xin ban
ơn cứu độ!"). Nhưng "Vua Vinh hiển" (Tv 24,7-10) lại "ngồi
trên lưng lừa con" (Dcr 9, 9) tiến vào thành. Người không chinh phục Nữ Tử
Xi-on bằng mưu mẹo hay bằng bạo lực, nhưng bằng sự khiêm nhường, chứng từ của
Chân lý. Vì thế ngày hôm đó, thần dân vây quanh (x.Ga 18,37) Người là trẻ con
(x.Mt 21,15-16; Tv 8,3) và "những người nghèo của Thiên Chúa", tung
hô Người như các thiên thần đã loan báo Người cho các mục đồng (x.Lc 19,38;
2,14) Lời tung hô : "Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa" (Tv 118,
26) được Hội Thánh sử dụng trong kinh "Thánh! Thánh! Thánh!", để mở đầu
nghi thức tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa.