Ban Loan Báo Tin Mừng Giáo Phận Phú Cường 2015
DẪN NHẬP
Đón nhận Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng như kim chỉ nam hướng dẫn công cuộc Tân Phúc Âm hóa hiện nay, trong năm mục vụ 2015 “Tân Phúc Âm hóa cộng đoàn Giáo xứ”, chúng ta lần lượt tìm hiểu và thực thi nội dung Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng qua một số bài hướng dẫn sau đây:
Đọc lại Sứ điệp kết thúc Đại hội lần thứ V hàng Giám mục Mỹ Châu Latinh và vùng Caraibê (Aparecida, 13- 31/05/2007).
Giới thiệu Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (Bài của Đức Hồng y Gioan Phêrô Ricard).
Một chuỗi cảm nghiệm dưới ánh sáng Niềm Vui Tin Mừng (Theo Lm. Phêrô Mariô, Milanô).
Hiến chương loan báo Tin Mừng: Một tấm ván nhảy cho sứ vụ.
Một cộng đoàn giáo xứ được mời gọi “đi ra” (Lm. Gioan Casanave).
Thoáng nhìn Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (Lm. Gioan Baotixita Jégo).
Sống Niềm Vui Tin Mừng.
Loạt bài đầu tiên (gồm 7 bài tiêu biếu) giúp các Ban Loan báo Tin Mừng tại Giáo hạt và Giáo xứ triển khai và đúc kết thành những bài học cụ thể trong sinh hoạt truyền giáo.
BÀI I
ĐỌC LẠI SỨ ĐIỆP KẾT THÚC ĐẠI HỘI LẦN THỨ V HÀNG GIÁM MỤC MỸ CHÂU LATINH VÀ VÙNG CARAIBÊ
(Aparecida, 13-31/05/2007)
DẪN
Nhiều người cho rằng, những điểm chính yếu của Tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng” đều nằm trong tài liệu Aparecida và Tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng” chỉ là việc tiếp tục triển khai tài liệu trên, một văn kiện mà có người đánh giá là một trong những tài liệu quan trọng nhất của Giáo hội ở đầu thể kỷ XI. Có mối tương quan mật thiết giữa tài liệu Aparecida và Tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng” là vì, Đức Giáo hoàng Phanxicô là soạn giả chủ yếu của cả hai văn kiện trên.
Vì thế, để giúp hiểu rõ những điểm chính yếu của tông huấn, chúng ta thử đọc lại Sứ điệp kết thúc Đại hội Aparecida.
TOÀN VĂN SỨ ĐIỆP
Tập họp tại Đền thánh Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội Aparecida tại Braxin, trong tình yêu của Chúa, chúng tôi xin chào toàn thể Dân Chúa và mọi người nam nữ thiện chí.
Từ ngày 12 đến 31 tháng 05 năm 2007, chúng tôi họp Đại hội lần thứ V của hàng Giám mục Mỹ Châu Latinh và Caraibê, Đại hội đã được khai mạc với sự hiện diện và lời phát biểu của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI.
Trong khi làm việc, được sống trong một bầu khí cầu nguyện nhiệt thành, tình huynh đệ và sự hiệp thông thân ái, chúng tôi đã nỗ lực tiến bước trên con đường canh tân được Giáo Hội Công Giáo từ Công đồng Vaticanô II cùng hành trình và trong bốn đại hội trước đây của Hàng Giám mục Mỹ Châu Latinh và vùng Caraibê.
Khi kết thúc Đại hội lần thứ V này, chúng tôi xin thông báo cho anh chị em, chúng tôi đã nêu lên một thách đố, thách đố hệ tại ở việc phải làm sao để tạo một đà lực và một sức mạnh mới cho sứ vụ của chúng ta bên trong và bên ngoài Châu Mỹ Latinh và vùng Caraibê.
1. Đức Giêsu, Đường, Sự Thật và Sự sống
“Tôi là Đường, là Sự Thật, và là Sự sống” (Ga 14,6).
Trước những thách đố mà giai đoạn mới đang đặt ra cho chúng ta, trong đó chúng ta bị nhận chìm, chúng ta đổi mới đức tin của mình, bằng cách vui vẻ công bố cho người nam người nữ trong Châu lục chúng ta biết rằng: chúng ta được yêu thương và được cứu độ trong Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng phục sinh, đang sống giữa chúng ta; nhờ Ngài chúng ta được giải thoát khỏi tội và mọi hình thức nô dịch, và sống trong công lý và tình yêu huynh đệ. Đức Giêsu là Đường giúp chúng ta khám phá ra chân lý và thế hiện trọn vẹn đời sống chúng ta.
2. Được mòi gọi theo Đức Giêsu
“Họ đã đến xem chỗ Ngài ở và ở lại với Ngài” (Ga 1,39).
Lời mời gọi đầu tiên Đức Giêsu trao gửi cho mọi người đã gặp gỡ Ngài, đó là trở nên môn đệ của Ngài, để bước theo dấu chân Ngài và thuộc về cộng đoàn của Ngài. Niềm vui lớn lao hơn của chúng ta là trở nên môn đệ của Ngài! Ngài mời gọi chúng ta, đích danh từng người - vì Ngài biết rõ lịch sử chúng ta cách sâu sắc (x. Ga 10,3) - để chúng ta sống với Ngài và tiêp tục sứ vụ của Ngài (x. Mc 3,14-15).
Chúng ta hãy theo Chúa Giêsu! Môn đệ là người, khi đáp lại lời mời gọi này, đã theo Đức Giêsu từng bước trên những nẻo đường của Tin Mừng. Bước theo Ngài, chúng ta nghe và thấy triều đại Thiên Chúa đến, thái độ hoán cải của mỗi người, điểm xuất phát để biến đổi xã hội và mở ra cho chúng ta những con đường của sự sống đời đời. Tại trường học của Đức Giêsu, chúng học được một nếp sống mới được Chúa Thánh Thần làm cho sinh động và được phản ánh trong những giá trị Nước Trời.
Khi chúng ta đồng hóa với Thầy, đời sống chúng ta được chuyển động dưới sự thúc đấy của tình yêu và để phục vụ người khác. Tình yêu này đòi hỏi chọn lựa liên tục và phân định để theo con đường các Mối Phúc (x. Mt 5, 3-12; Lc 6, 20-26). Chúng ta đừng sợ thập giá mà lòng trung thành với Đức Kitô giả định, thập giá ấy được soi chiếu bằng ánh sáng của biến cố Phục Sinh. Như thế, là môn đệ, chúng ta mở ra những con đường sự sống và hy vọng cho các dân tộc chúng ta, đang chịu đau khổ vì tội lỗi và mọi hình thức bất công.
Lời kêu gọi trở nên môn đệ - truyền giáo đòi hỏi về phía chúng ta phải có sự chọn lựa rõ ràng đối với Đức Giêsu và Tin mừng của Ngài, phải sống gắn bó với đức tin của mình, thể hiện những giá trị Nước Trời, hòa nhập với cộng đoàn và trở nên dấu chỉ mâu thuẫn và sự mới mẻ trong một thế giới chỉ biết đặt tiêu thụ lên hàng đầu và làm biến dạng những giá trị mang phẩm giá cho con người. Trong một thế giới tự khép mình trước Thiên Chúa tình yêu, chúng ta hãy trở nên một cộng đoàn tình yêu, không thuộc về thế gian nhưng cho thế gian (x. Ga ,19; 17,14-16).
3. Việc sai đi truyền giáo trong mục vụ của Giáo hội
“Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”(Mt 28,19).
Chúng tôi cũng chân nhận hành trình của người môn đệ truyền giáo thật sự, là nguồn canh tân mục vụ của chúng ta trên Châu lục và là điểm xuất phát mới để Tân Phúc Âm hóa các dân tộc chúng ta.
- Một Giáo Hội trở nên môn đệ.
Trong dụ ngôn “Người Mục tử tốt lành”, chúng tôi cũng nhận ra cách thế để trở thành những môn đệ, nhờ được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa: “Các chiên theo người mục tử, vì chúng nhận biết tiếng của người ấy” (Ga 10, 4). Chớ gì Lời Sự sống (x. Ga 6,63) được tận hưởng trong lúc cầu nguyện, và việc cử hành và sống hồng ân Thánh Thể sẽ biến đổi chúng ta và mặc khải cho chúng ta sự hiện diện sống động của Chúa Phục Sinh, Đấng luôn đi bên cạnh chúng ta và hành động trong lịch sử (x. Lc 24,13-35).
Với thái độ mạnh mẽ và cương quyết, chúng tôi tiếp tục thi hành trách vụ tiên tri của mình bằng cách phân định đâu là con đường chân lý và sự sống; bằng cách lên tiếng nói tại những nơi công chúng của các dân tộc và thành phố chúng ta, đặc biệt đối với những người bị xã hội loại bỏ. Chúng tôi muốn cỗ vũ việc đào tạo những Kitô hữu làm chính trị và làm luật để họ góp phần vào việc xây dựng một xã hội công bình và huynh đệ, phù hợp với những nguyên tắc học thuyết xã hội của Giáo hội.
- Một Giáo hội đào tạo những con người nam nữ làm môn đệ.
Trong Giáo hội, tất cả chúng ta đều được kêu gọi trở thành môn đệ và truyền giáo, cần huấn luyện mình và toàn thể Dân Chúa đảm đương trách vụ này với tinh thần trách nhiệm và can đảm.
Niềm vui trở thành môn đệ và truyền giáo đặc biệt được nhận thấy ở chỗ chúng ta đào tạo một cộng đoàn huynh đệ. Chúng ta được kêu gọi trở thành một Giáo hội với đôi cánh tay dang rộng, một Giáo hội biết tiếp đón và yêu quý mỗi thành viên của mình. Vì thế, chúng tôi khích lệ những nỗ lực cần được thể hiện trong các Giáo xứ để trở nên “mái nhà và ngôi trường hiệp thông”, tác động và thiết lập những cộng đoàn nhỏ và những cộng đoàn Giáo hội cơ bản, cũng như trong những hiệp hội giáo dân, những phong trào Giáo hội và các cộng đoàn mới.
Chúng tôi đề nghị tăng cường sự hiện diện và tiếp cận của chúng ta. Để làm điều này, trong công tác mục vụ của mình,
Chúng tôi mời gọi mọi người hãy dành thời gian nhiều hơn, để lắng nghe, để kề vai sát cánh trong những giây phút quan trọng của đời sống và nâng đỡ nhau trong việc liên kết tìm kiếm hững giải đáp cho các nhu cầu của cuộc đời. Chúng ta hãy làm sao để tất cả mọi người, khi nhận biết mình được yêu quý, cũng có thể cảm nhận mình ở trong Giáo hội như là ở nhà mình.
Khi tái khẳng định thái độ cổ vũ cho việc đào tạo các môn đệ truyền giáo, Đại hội này có ý định quan tâm nhiều hơn đến việc tham gia vào những giai đoạn của cuộc loan báo đầu tiên, việc nhập môn Kitô giáo và sự trưởng thành trong đức tin. Ngay khi củng cố căn tính người Kitô hữu, chúng ta hãy giúp đỡ mỗi anh chị em khám phá ra việc phục vụ mà Chúa yêu cầu họ thể hiện trong Giáo hội và xã hội.
Trong một thế giới khao khát đời sống tinh thần và vì ý thức đến vị trí trọng tâm mà sự tương quan với Chúa trong đời sống môn đệ cần nắm giữ, chúng ta mong muốn trở nên một Giáo hội học tập cầu nguyện và dạy cách cầu nguyện. Một kinh nguyện phát xuất từ cuộc sống và tâm hồn, là điểm khởi đầu cho các cuộc cử hành sống động và mang tính tham dự, sẽ tác động và nuôi dưỡng đức tin.
4. Ngưòi môn đệ truyền giáo nhằm phục vụ sự sống
“Tôi đến để họ được sống và sống dồi dào ” (Ga 10,10).
Từ phòng tiệc ly Aparecida, chúng tôi chuẩn bị thực hiện một giai đoạn mới cuộc hành trình mục vụ của chúng ta, bằng cách tuyên bố mình thường xuyên truyền giáo. Với lửa của Thánh Thần, chúng ta sẽ dùng tình yêu đốt sáng Châu lục chúng ta: “Anh em sẽ nhận sức mạnh Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ đến trên anh em và anh em sẽ là chứng nhân của Thầy... cho đến mút cùng trái đất” (Cv 1, 8).
- Trung thành với mệnh lệnh truyền giáo
Tất cả mọi người đều được Đức Kitô mời gọi tham gia vào sứ vụ của Ngài. Chớ gì không có ai ngồi khoanh tay! Truyền giáo đó là loan báo Đức Giêsu-Kitô với tinh thần sáng tạo và can đảm trong mọi nơi mà Tin Mừng chưa được loan báo hay đón nhận đủ, đặc biệt trong những môi trường khó khăn hay bị quên lãng và ở bên kia biên giới của chúng ta.
- Như men trong bột
Chúng ta hãy trở nên những người truyền giáo của Tin Mừng, không chỉ bằng lời nói, nhưng nhất là bằng đời sống của chúng ta, bằng cách hiến thân, phục vụ, kể cả đến tử đạo.
Đức Giêsu đã bắt đầu sứ vụ của mình bằng cách thành lập một cộng đoàn các môn đệ truyền giáo, khởi đầu cho Nước Trời. Cộng đoàn của Ngài cũng tham gia vào việc loan báo của Ngài. Được hòa nhập trong xã hội, chúng ta hãy làm cho mọi người nhận thấy tình yêu và sự liên đới huynh đệ của chúng ta (x.Ga 13, 35) và cổ vũ cuộc đối thoại với những người hoạt động xã hội và tôn giáo khác nhau. Trong một xã hội càng ngày càng trở nên khác biệt, chúng ta hãy dồn sức lực vào việc xây dựng một thế giới công bình, hòa giải và liên đới hơn.
- Những người phục vụ bàn chia sẻ.
Những chênh lệch hiển nhiên giữa giàu và nghèo mời gọi chúng ta làm việc nhiều hơn để trở thành những môn đệ biết dựng lên cho mọi người bàn sự sống, bàn ăn cho mọi con cái nam nữ của Chúa Cha, một bàn mở ra, tiếp đón, ở đó không thiếu một ai. Vì thế, chúng tôi tái khẳng định, việc tuyển chọn ưu tiên và mang đặc chất Tin Mừng dành cho những người nghèo.
Chúng tôi cam kết bảo vệ những người yếu đuối nhất, đặc biệt những trẻ em, những người bệnh, khuyết tật, những người trẻ đang gặp nguy cơ, những người già yếu, những người bị tù, những di dân. Chúng tôi quan tâm đến quyền của các dân tộc cần phải được bảo vệ và cổ vũ “những giá trị tiềm ẩn trong mọi tầng lớp xã hội, đặc biệt nơi các dân tộc bản địa” (ĐGH Bênêđictô XVI, diễn từ Guarulhos, sô 4). Chúng tôi muốn góp phần bảo đảm những điều kiện của một đời sống xứng đáng: sức khỏe, ăn uống, giáo dục, nhà ở và việc làm cho mọi người.
Lòng trung thành với Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta chống lại những hành động xấu ác nhằm tác hại hay tiêu diệt sự sống, như phá thai, chiến tranh, nạn bắt cóc, bạo lực có vũ khí, khủng bố, khai thác tình dục và buôn bán ma túy.
Chúng tôi mời gọi mọi nhà lãnh đạo của đất nước chúng, hãy bệnh vực chân lý và chăm lo bảo vệ quyền bất khả xâm phạm và thiêng thánh đối với sự sống và phẩm giá con người, từ lúc thụ thai cho đến cái chết tự nhiên.
Chúng tôi dành những nỗ lực mục vụ của Giáo hội sẵn sàng phục vụ các đất nước chúng ta, để cổ vũ một nền văn hóa lương thiện, nhằm sửa trị tận căn những hình thức bạo lực khác nhau, việc làm giàu cách phi pháp và sự biển chất đầy hư hỏng.
Gắn kết với kế hoạch của Chúa Cha, Đấng tạo dựng, chúng tôi kêu mời mọi lực lượng mạnh mẽ trong xã hội hãy quan tâm đến ngôi nhà chung của chúng ta, là trái đất, đang bị sự hủy diệt đe dọa. Chúng tôi muốn cổ vũ một sự phát triển con người lâu dài, dựa trên sự phân bổ công bình những tài nguyên chia sẻ các của cải giữa mọi dân tộc.
5. Hướng đến một Châu lục sự sống, tình yêu và hòa bình
“Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ” (Ga 13,35).
Chúng tôi, những tham dự viên của Đại hội lần thứ V tại Aparecida và liên kết với toàn thể Giáo hội là “cộng đoàn tình yêu”, chúng tôi muốn ôm ấp tất cả Châu lục để thông truyền tình yêu của Thiên Chúa và của chúng tôi cho Châu lục này. Chúng tôi cũng muốn làm điều đó đối với toàn thể thế giới.
Vào lúc kết thúc Đại hội Aparecida, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chúng tôi mời gọi anh chị em hợp nhất với nhau để nhiệt thành thi hành thật tốt sứ vụ cao cả của Châu lục. Đó sẽ là một Lễ Hiện xuống mới thúc đẩy chúng ta, đặc biệt đi gặp gỡ những người Công giáo đang sống xa cách và những người chỉ biết ít hay không biết gì về Đức Giêsu-Kitô, để vui vẻ thiết lập cộng đoàn tình yêu của Thiên Chúa, Cha chúng ta. Một sứ vụ phải đạt đến toàn thể nhân loại, phải thường trực và sâu sắc.
Trong lửa của Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy tiến bước và với niềm hy vọng hãy xây dựng lịch sử cứu độ của chúng ta trên hành trình loan báo Tin Mừng, cùng với nhiều chứng nhân chung quang chúng ta (x. Dt 12, 1), là các vị tử đạo, các thánh và các chân phước của Châu lục chúng ta. Nhờ chứng tá của mình, họ đã minh chứng cho chúng ta rằng, lòng trung thành thật đáng sống và có thể sống đến cùng.
Hợp nhất với toàn thể Dân Chúa đang nguyện cầu, chúng tôi xin trao phó cho Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng ta, người môn đệ và truyền giáo đầu tiên đã phục vụ sự sống, tình yêu và hòa bình, được kêu cầu dưới những tước hiệu Đức Bà Aparecida và Đức Bà Guadalupe, đà lực mới xuất phát từ hôm nay trong toàn thể Châu Mỹ Latinh và vùng Caraibê, dưới luồng gió của Lễ Hiện xuống mới cho giáo hội chúng ta bắt đầu từ Đại hội lần thứ V này mà chúng tôi đã cử hành tại đây.
Tại Medellin và Puebla, chúng tôi đã kết thúc Đại hội bằng cách xướng lên: “Chúng tôi tin”. Tại Aparecida, như chúng tôi đã làm tại Saint-Domingue, chúng tôi cũng mạnh mẽ công bổ: Chúng tôi tin và chúng tôi hy vọng.
Chúng tôi hy vọng...
- Trở thành một Giáo hội sống động, trung thành và đáng tin, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Thánh Thể.
- Sống đời sống Kitô hữu của mình với niềm vui và sự xác tín như các môn đệ-truyền giáo của Đức Giêsu-Kitô.
- Thiết lập những cộng đoàn sống động để nuôi dưỡng: đức tin và tạo đà lực cho hoạt động truyên giáo.
- Yêu quý những tổ chức Giáo hội khác nhau trong một tinh thần hiệp thông.
- Cổ vũ một hàng ngũ giáo dân trưởng thành, đồng trách nhiệm với sứ vụ loan báo Tin Mừng và làm cho Nước Thiên Chúa được biểu lộ.
- Khích lệ sự tham gia tích cực của phụ nữ trong xã hội à trong Giáo hội.
- Giữ vững, với một nỗ lực luôn được đổi mới, sự ưu tiên chọn lựa phục vụ người nghèo của chúng ta theo tinh thần Tin mừng.
- Đồng hành với những người trẻ trong việc huấn luyện họ, giúp họ kiếm tìm căn tính, ơn gọi và sứ vụ của họ, bằng ách lặp lại sự chọn lựa phục vụ họ của chúng ta.
- Làm việc với tất cả những người thiện chí, nhằm xây dựng Nước Thiên Chúa.
- Yêu quý và tôn trọng các dân tộc bản địa và Mỹ-Phi của chúng ta.
- Tiến bộ trong công cuộc đối thoại đại kết “để mọi người nên một”, cũng như trong việc đối thoại liên tôn.
- Làm cho Châu lục này trở thành một mô hình hòa giải, công lý và hòa bình.
- Chăm sóc công trình sáng tạo, là mái nhà chung của clúng ta, trong thái độ trung thành với kế hoạch của Thiên Chúa.
- Cộng tác vào việc tập hợp các dân tộc Mỹ Châu Latinh và dân cư Caraibê.
- Chớ gì Châu lục hy vọng này cũng là Châu lục của tình yêu, sự sống và hòa bình!
Aparecida — Braxin, ngày 29/05/2007.
BÀI II
GIỚI THIỆU TÔNG HUẤN NIỀM VUI TIN MỪN
(Bài nói chuyện của Đức Hồng y Gioan Phêrô Ricard, Ngày 24/01/2014)
DÀN BÀI
- NHẬP ĐỀ
I. NIỀM VUI TIN MỪNG
1. Niềm vui này phát sinh từ một cuộc gặp gỡ với Đức Kitô.
2. Niềm vui này cần được thông truyền. Nó là trọng tâm công cuộc Phúc Âm hóa.
3. Dưới ánh sáng niềm vui, chúng ta khám phá khuôn mặt đích thực của Phúc Âm hóa.
II. LỜI MỜI GỌI GIÁO HỘI “ĐI RA”
1. “Vậy anh em hãy đi!” (Mt 28, 19)
2. Lời kêu gọi này được trao gửi cho toàn thể Giáo hội.
3. Cần phải đế ý đến đặc tính truyền thông.
4. Phúc Âm hóa cũng là một cuộc chiến thiêng liêng.
III. TIN VUI ĐƯỢC LOAN BÁO CHO NGƯỜI NGHÈO HAY CHIỀU KÍCH XÃ HỘI CỦA PHÚC ÂM HÓA
1. Trọng tâm của Phúc Âm hóa: tình yêu tha nhân.
2. Lắng nghe tiếng kêu của người nghèo.
3. Thực hành “nghệ thuật” hòa bình và tầm quan trọng của đối thoại.
- KẾT LUẬN
NHẬP ĐỀ:
- Đối với tôi, bản văn này mang hai nét đặc trưng:
- Đây thuộc loại văn chương quen thuộc của Tông huấn hậu Thượng Hội đồng. Kết thúc một Thượng Hội đồng, các nghị phụ giữ lại một số đề nghị và trao cho Đức Giáo hoàng, để ngài dựa vào đó xây dựng bản văn, một bản văn có một luồng nào đó và đưa ra những định hướng cho toàn Giáo hội. Đức hoàng thường sử dụng phần lớn những đề nghị của Thượng Hội đồng. Điều đó có thể làm cho bản văn hơi dài, khi bàn về một chủ đề dưới nhiều dạng hình. Đó là điều Đức Giáo hoàng Phanxicô đã làm tiếp theo Thượng Hội đồng Rôma tháng 10 năm 2012 về Tân Phúc Âm hóa. Ta có thể ghi nhận, Tông huấn này, khác với các Tông huấn trước đây, đã ra mắt khá nhanh sau khi kết thúc Thượng Hội đồng.
- Nhưng bản văn mang rất rõ dấu ấn của Đức Giáo hoàng Phanxicô. Ngài thường xưng “tôi” và chia sẻ những xác tín và cảm tình của mình. Ta cũng gặp ở đó nhiều suy tư nổi bật trong văn của Đại hội các Giám mục Mỹ châu Latinh và vùng Caraibê ngày 29 tháng 6 năm 2007, cũng được gọi là tài liệu Aparecida mà Đức Hồng Y Bergoglio là một trong những người soạn thảo chính. Khi đọc Tông huấn Niềm Vui Tin mừng, ta gặp ở đó những kiểu nói thân mật của Đức Giáo hoàng Phanxicô, mà ta đã nghe trong các bài giảng lễ hay những bài nói chuyện của ngài: Giáo hội không phải là một trạm thu phí... Tòa giải tội không thể là một phòng tra tấn... thích một Giáo hội bị tai nạn, bị thương tích, hơn là một Giáo hội bệnh hoạn... Không thể có tình trạng, một người già, phải sống cảnh đầu đường xó chợ, bị chết vì lạnh giá, không trở một tin tức, trong khi thị trường chứng khoán mất điểm lại rộn lên một tin báo động... Nói không với tinh thần thế tục... Ta cũng có thể nhận ra nhiều kiểu nói khác như thế. Bản văn này chủ yếu là do Đức Giáo hoàng soạn thảo. Thật vậy, ta có thể nói, ta đang đứng trước một văn kiện trình bày chương trình hành động của triều đại giáo hoàng ngài. Đức Tân Quốc Vụ Khanh, Phêrô Parolin không lầm khi vừa tuyên bố: Ngày nay, vấn đề ưu tiên là việc biến đổi truyền giáo của Giáo hội, để Giáo hội trở nên một Giáo hội đi ra, một Giáo hội năm trong tình trạng thường xuyên truyền giáo. Quả thực, trong văn kiện, Đức Giáo hoàng Phanxicô muốn: vạch ra những con đường cho cuộc hành trình của Giáo hội trong những năm sắp tới (số 1), bày tỏ mối quan tâm của ngài trong giai đoạn cụ thể công cuộc Phúc Âm hóa của Giáo hội (số 16), hướng dẫn trong toàn thể Giáo hội một giai đoạn Phúc Âm hóa mới mẻ, đầy nhiệt tình và năng lực (số 17). Trong bản văn này, Đức Giáo hoàng Phanxicô chia sẻ với chúng ta luồng gió mới và mối quan tâm truyền giáo lớn lao của ngài.
Chúng ta cũng nói thêm, Đức Giáo hoàng rất ý thức trách nhiệm lời nói của ngài. Nhưng ngài cũng nhấn mạnh đến những giới hạn của ngài. Ngài đã viết: Tôi cũng không tin rằng, người ta phải chờ đợi nơi huấn quyền giáo hoàng một lời chung cuộc hay đầy đủ về tất cả những vấn đề liên quan đến Hội Thánh và thế giới. Cũng không thích hợp Giáo hoàng lại thay thế hàng Giám mục địa phương trong việc phân định mọi vấn đề xảy ra trên lãnh thố của họ. về phương diện này, tôi cảm thấy cần phải cổ xúy một sự “tản quyền” bố ích (số 16). Không bao lâu nữa sẽ trở lại điểm quan trọng này (sẽ được triến khai trong việc cải tổ Giáo hội mà Đức Giáo hoàng đang hành động), bằng cách đề cập đến quy chế các Hội đồng Giám mục, hiện chưa được làm sáng tỏ (x. số 32).
I. NIỀM VUI TIN MỪNG
Khởi đi từ tiêu đề của Tông huấn là điều quan trọng: đó là hai từ “Evangelii Gaudium” (Niềm Vui Tin Mừng) mở đầu văn kiện. Từ “Niềm Vui” là từ nền. Tông huấn này thật sự là một lời mời gọi đón nhận niềm vui. Nhưng niềm vui đó như thế nào?
1. Niềm vui này phát sinh từ một cuộc gặp gỡ với Đức Kitô.
Niềm vui này là một kết quả của Thần Khí. Nó phát sinh cuộc gặp gỡ cá nhân với Chúa. Đức Kitô đến nói với mọi người: “Bạn là người được yêu. Dù bạn là ai, dù người khác phán đoán bạn thế nào hay bạn phán đoán về mình ra sao, thì bạn vẫn nói với mình, bạn là người được yêu. Bạn được Chúa yêu thương; bạn được mời gọi trở nên người con yêu dấu của Ngài. Hãy để cho bạn được yêu thương. Hãy để cho tình yêu này cư ngụ trong bạn. Tình yêu ấy sẽ biến đổi bạn, sẽ chữa lành bạn, sẽ soi sáng bạn. sẽ củng cố bạn. Nếu bạn được yêu, bạn cũng được mời gọi thể hiện yêu thương. Và nếu bạn sống như thế, bạn sẽ có sự sống. Triều đại Thiên Chúa sẽ mở ra cho Niềm vui phát sinh do việc khám phá ra ta được yêu. Đức giáo hoàng viết: “Đức Giêsu Kitô yêu mến bạn. Ngài đã hiến mạng sống mình để cứu độ bạn, và giờ đây, Ngài đang sống bên cạnh bạn mỗi ngày để soi sáng bạn, để củng cố bạn. để giải ít bạn” (số 164). Chính niềm vui phát sinh từ cảm nghiệm về tình yêu Thiên Chúa.
Do đó, Đức Giáo hoàng mời gọi: “Tôi mời gọi mọi Kitô, dù ở bất cứ nơi nào và hoàn cảnh nào, ngay hôm nay hãy canh tân cuộc gặp gỡ cá nhân mình với Đức Giêsu Kitô, hay ít hãy quyết định để cho Ngài gặp gỡ, và mỗi ngày không ngừng tìm kiếm Ngài” (số 3).
2. Niềm vui này cần đưọc thông truyền. Nó là trọng công cuộc Phúc Âm hóa.
Tình yêu này, phát sinh từ cuộc gặp gỡ với Đức Kitô, sẽ được củng cố trong cảm nghiệm của người Kitô hữu về sự sống trong Thần Khí, trong sự nhận biết những gì mà tình yêu của Chúa, dù gặp sự chống lại của tội lỗi, vẫn đang thay đổi trong ta. Chúng ta đã gặp được nguồn nước hằng sống đang giải khát ta.
Nguồn nước đó được trao ban cho ta, nhưng không thuộc về ta. Nó dành cho mọi người và chúng ta mong ước được nói với mọi người: Nếu bạn nhận biết ân huệ của Chúa (Ga 4,10). Đức Giáo hoàng viết: Chúng ta là những người được kêu mời trở nên những người mang vò nước để cho người khác uống (số 86). Niềm vui cần được thông truyền. Nó ước mong được chia sẻ. Đó là sự ngỡ ngàng trước ân ban nhưng không của Thiên Chúa mà ước muốn loan báo Tin Mừng phát sinh, đó là chia sẻ cho người khác nguồn suối niềm vui. Vả lại, niềm vui này luôn mang xác tín rằng, đời sống Kitô hữu tỏa chiếu Tin Mừng luôn đáp lại niềm mong đợi sâu xa của con người: sự nhiệt thành trong công cuộc Phúc Âm hóa được xây dựng trên niềm xác tín này (số 265). ơn cứu độ mà Thiên Chúa tặng ban cho con người trong Đức Kitô thật sự là một cống hiến dứt khoát: Không thể kiên trì trong việc nhiệt tình loan báo Tin Mừng, nếu chúng ta không xác tín từ kinh nghiệm bản thân rằng, biết Đức Kitô và không biết Đức Kitô thì hoàn toàn khác nhau, đi cùng với Ngài thì khác với đi trong tăm tối, có thể lắng nghe Ngài thì khác với không biết Lời Ngài; chiêm ngắm Ngài, tôn thờ Ngài, tìm bình an nơi Ngài, thì khác với không làm những điều ấy, cố gắng xây dựng thế giới với Tin Mừng của Ngài, thì khác với xây dựng nó với ánh sáng riêng của chúng ta. Chúng ta biết rõ rằng, với Đức Kitô cuộc đời trở nên phong phú hơn, và với Ngài ta sẽ dễ tìm thấy ý nghĩa trong mọi sự hơn. Đó là lý do khiến chúng ta loan báo Tin Mừng (số 266). Niềm vui này là hoa trái của Thánh Thần. Cách tự nhiên, nó cần được thông truyền.
Vì thế, sứ vụ nằm ở trung tâm đời sống Kitô hữu của mọi người đã chịu Phép Rửa. Đức Giáo hoàng mời gọi mọi môn đệ Đức Kitô hãy tự khám phá mình, và nghĩ về mình như “những môn đệ - truyền giáo”: do Phép Rửa tội, mọi thành viên của Dân Chúa phải trở nên những môn đệ - truyền giáo (x. Mt 28,19)... Mọi Kitô hữu đều là người môn đệ - truyền giáo theo mức độ họ đã gặp gỡ tình thương của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô; chúng ta không còn nói mình là những “người môn đệ” và “người truyền giáo” nữa, nhưng đúng hơn, chúng ta luôn luôn là những “người môn đệ - truyền giáo” (số 120).
Nếu những người môn đệ - truyền giáo này sống loan báo Đức Kitô và chia sẻ niềm vui của mình, họ cũng sẽ nghiệm thấy việc loan báo và chia sẻ này sẽ tăng cường niềm vui của mình, Đức Giáo hoàng nhấn mạnh: “Canh tân việc loan báo có thể cống hiến cho các tín hữu, cũng như cho những người nguội lạnh và không sống đạo, một niềm vui mới trong đức tin và một hiệu quả phong phú trong hoạt động truyền giáo” (số 11). Những cuộc trở về sau khi thi hành sứ vụ, đều là những giây phút vui mừng trong đức tin và tạ ơn đích thực.
3. Dưới ánh sáng niềm vui, chúng ta khám phá khuôn ặt đích thực của Phúc Âm hóa.
Dưới ánh sáng niềm vui, chúng ta nhận ra những gì không phải là Phúc Âm hóa. Phúc Âm hóa không phải là:
- Một tuyên truyền học thuyết hay trình bày những chân lý tín lý hoặc luân lý;
- Một chiêu dụ lỗi thời và không tôn trọng tự do người khác.
Phúc Âm hóa là một lời mời trân trọng và nồng nhiệt bước vào một cảm nghiệm, cảm nghiệm khám phá nguồn mạch niềm. Đức Giáo hoàng viết: “Người Kitô hữu có bổn phận loan báo Tin Mừng cho mọi người, không loại trừ bất kì ai, không như người áp đặt một bó buộc mới, nhưng như người chia sẻ một niềm vui, chỉ ra một chân trời đẹp, cống hiến một bữa tiệc ngon. Hội Thánh không phải phát triển bằng việc chiêu dụ, nhưng bằng sức thu hút” (số 14).
Điều đó chất vấn chúng ta cách cá nhân cũng như cộng đoàn, về tính chất đời sống thiêng liêng của ta, về đời sống của ta trong Đức Kitô, về niềm vui đang tác động ta. Đức Phaolô VI tuyên bố: “Chớ gì thế giới của thời đại chúng ta... có thể nhận được Tin Mừng không phải từ những người rao giảng rầu rĩ, chán nản, mất kiên nhẫn hay lo âu, nhưng từ những thừa tác viên Tin Mừng đang sống một cuộc đời đầy nhiệt huyết, những người trước đó đã nhận được niềm vui của Đức Kitô” (số 10).
II. LỜI MỜI GỌI GIÁO HỘI “ĐI RA”
Để minh chứng niềm vui này, cần phải đi ra gặp gỡ những người khác. Lời mời gọi “đi ra” là một đòi hỏi mà Đức Giáo hoàng Phanxicô luôn nhắc nhở. Ngài đã biến nó thành đề tài phát biểu của mình trong những đại hội diễn ra trước khi họp mật viện bầu Giáo hoàng. Ở đây, ngài mạnh mẽ lặp lại lời mời gọi ấy: “Sự mật thiết của Hội Thánh với Chúa Giêsu là một sự mật thiết di động và sự hiệp thông “được trình bày cách cơ bản như sự hiệp thông truyền giáo”. Trung thành với kiểu mẫu của Thầy, điều sống còn là Hội Thánh ngày nay đi ra loan báo Tin Mừng cho mọi người ở khắp nơi, trong mọi cơ hội mà không do dự, không chần chờ và không sợ hãi” (số 23).
1. “Vậy, anh em hãy đi!” (Mt 28, 19)
Hội Thánh phải theo Thầy mình mà ta thấy Ngài “đi ra”. Chúng ta hãy đọc bản văn của thánh Maccô mà ta có thể giữ như chân trời hay hậu cảnh của toàn thể tông huấn của chúng ta:
“Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Ngài đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Ông Simon và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Ngài, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!”. Ngài bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. Rồi Ngài đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ” (Mc 1, 35-39).
Đó là thái độ hiệp thông sâu xa của Ngài với Chúa Cha, được thể hiện trong lúc Ngài một mình tha thiết cầu nguyện để khởi đầu sứ vụ của mình. Để làm điều đó, Ngài ra khỏi Capharnaum, cảng căn cứ của Ngài, và mời gọi các môn đệ của mình đi đến nơi khác để loan báo cho mọi người Nước Thiên Chúa đã đến và biểu lộ những dấu chỉ của Nước đó. Không được khép kín mình trong vòng vây quen thuộc, nhưng cần đi gặp gỡ mọi người.
Để xác định “nơi khác” này, Đức Giáo hoàng Phanxicô thường dùng từ “ngoại vi”. Cần phải tiếp cận với những vùng ngoại vi: “Tất cả chúng ta được mời gọi chấp nhận lời mời gọi này: đi ra ngoài khu vực quen thuộc của mình và can đảm tiếp cận với mọi vùng ngoại vi đang cần đến ánh sáng Tin Mừng” (số 20). Hơn một lần, Đức Giáo hoàng cũng xác định, đó không là những vùng ngoại vi địa lý, mà còn là những vùng ngoại hiện hữu những hoàn cảnh sống của những con người nam đang chất vấn mình về một ý nghĩa cuộc sống, đang kiểm một sự chữa trị, đang khát vọng một sự cứu độ mà thường không biết.
2. Lời kêu gọi này được trao gửi cho toàn thể Giáo hội
Toàn thể Giáo hội được mời gọi theo Thầy mình và trở thành nhà truyền giáo. Cuộc mạo hiểm truyền giáo không chỉ dành riêng cho một số người ưu tuyển, một bộ phận những người truyền giáo có đặc sủng riêng. Chắc chắn, chúng ta cần đến những trụ cột, nhưng tất cả các cộng đoàn Kitô hữu cần phải được tưới tắm bởi năng lực tông đồ này. Lời mời gọi của Đức Giáo hoàng rất cấp thiết: “Tôi hy vọng rằng tất cả các cộng đoàn sẽ làm thế nào để sử dụng những phương tiện cần thiết nhằm thăng tiến trên con đường hoán cải mục vụ truyền giáo, không thể để sự việc như hiện nay. Giờ đây, chúng ta không một sự “quản trị đơn thuần”. Chúng ta hãy hình thành trong cả mọi miền trên trái đất một “tình trạng thường xuyên truyền giáo’' (số 25). Điều đó liên hệ đến các giáo phận, giáo xứ, các phong trào và trường sở; cũng như các ủy ban trung ương của Giáo hội và ngay cả giáo triều Rôma mà Đức Giáo Hoàng mong muốn một cuộc cải tổ.
Điều đó cũng mời gọi một Giáo hội luôn mở rộng đón tiếp mọi người. Đức Giáo hoàng nói: “Giáo hội được mời gọi trở thành Nhà Cha, luôn mở rộng cửa” (số 47), một mái nhà mở rộng cửa trong đời sống mục vụ của mình, trong thái độ tiếp đón mọi người đến lãnh nhận các bí tích (các cửa của bí tích không thể được đóng vì bất cứ lý do nào (số 47)). Đức Giáo hoàng cũng nói đến tầm quan trọng của việc mở rộng cửa “nhà thờ” của chúng ta. Không có gì chống lại một Giáo hội tiếp cận của Đức Giáo hoàng Phanxicô cho bằng quan niệm về một Giáo hội pháo đài, một Giáo hội khép kín trên mình và tự vệ trước một môi trường thù nghịch.
Nhưng tiếp đón những người đến gõ cửa thì chưa đủ, còn cần phải nối kết và gặp gỡ những người không đến, những người không đến nữa, những người không bao giờ đến. Giáo hội phải đến gặp gỡ mọi người, đặc biệt những người nghèo: “Hôm nay và mãi mãi "những người nghèo là những người ưu tiên được đón nhận Tin Mừng” và việc loan báo Tin Mừng một cách nhưng không cho họ là dấu chỉ của vương quốc mà Đức Giêsu đã đến để thiết lập” (số 48). Vì vậy, Giáo hội phải lắng nghe, đối thoại, đồng hành, phục vụ rửa chân cho mọi người, chạm đến thân xác đau khổ của Đức Kitô trong những người khác” (số 24). Ta không thể loan báo Tin Mừng mà lại không yêu mến mọi người, không bước vào trong cái nhìn của Đức Giêsu chịu đóng đinh, cái nhìn này sẽ mở rộng, và hướng đến toàn thể Dân Ngài, với tràn đầy yêu thương và nồng nhiệt (số 286).
Điều đó mời gọi Giáo hội và các cộng đoàn chúng ta phải nghiêm túc duyệt lại đời sống truyền giáo của mình. Đức Giáo hoàng cũng mời gọi mọi người thể hiện một sáng tạo tông đồ đích thực: “Mục vụ tương quan với truyền giáo đòi hỏi phải từ bỏ tiêu chuẩn mục vụ tiện lợi “ta vẫn làm như vậy”. Tôi kêu gọi mọi người mạnh dạn và sáng tạo trong việc suy xét lại các mục tiêu, cơ cấu, phong cách và phương pháp truyền giáo tại các cộng đoàn của mình” (số 33).
3. Cần phải để ý đến đặc tính truyền thông
Năng lực truyền giáo này bao hàm một chú ý đổi mới, không chỉ chú ý đến những người ta đối thoại, mà cả cách thức lời nói của ta, đặc biệt trong lời loan báo ban đầu.
Điều đó mời gọi chúng ta không nên dừng lại trên những khía cạnh thứ yếu của sứ điệp đức tin (và ở đây Đức Giáo hoàng gợi lên “phẩm trật các chân lý” mà Công đồng Vaticanô II nói đến), nhưng đi ngay vào trọng tâm của sứ điệp Kitô giáo: “Trong trọng tâm cơ bản này, điều tỏa sáng là vẻ đẹp tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được tỏ lộ trong Đức Giêsu Kitô chịu chết và sống” (số 36). Việc loan báo phải tập trung vào điều cốt yếu: đề nghị được đơn giản hóa, nhưng không mất chiều sâu và chân lý của nó, và như thế trở nên thuyết phục và rõ ràng hơn (số 35).
Nhưng việc loan báo sứ điệp nhất thiết phải liên kết với thái độ dấn thân của sứ giả loan báo Tin Mừng, đến đời sống của đức tin của họ. đến kiểu cách tương quan mục vụ với những lời mà họ trao đổi. Như tôi đã nói ở trên: sứ giả loan báo Tin Mừng phải yêu mến những người họ được sai gửi đến. Điều đó yêu cầu thái độ gần cận, sự hiện diện, thái độ lắng nghe, sẵn sàng đối thoại, kiên nhẫn, nhiệt tình tiếp đón, không kết án, luôn yêu thương, trắc ẩn và thương xót. Chúng ta phải làm cho hương thơm sự hiện diện gần gũi của Chúa Giêsu và cái nhìn cá nhân của Ngài hiện diện (số 169).
Chúa Giêsu yêu mến Cha Ngài và Ngài cũng yêu mến đám đông dân chúng. Người môn đệ - truyền giáo cũng cần phải mang trong mình hai tình yêu ấy. Nói về người giảng thuyết, Đức Giáo hoàng đã phát biểu: “Nhà giảng thuyết là người chiêm niệm Lời Chúa và cũng phải chiêm ngắm dân mình” (số 154). Trong Tông huấn, Đức Giáo hoàng sẽ dành một đoạn quan trọng bàn về bài giảng và việc chuẩn bị bài giảng (các số 135-159). Chúng ta sẽ gặp ở đó một lời mời gọi người giảng thuyết sống hai tình yêu ấy như một phục vụ đích thực đối với Chúa: tình yêu Thiên Chúa trong Lời Ngài nhờ thái độ chăm chú và lắng nghe Thánh Kinh và tình yêu dân chúng mà người giảng thuyết ngỏ lời với một chia sẻ cần thiết về đời sống và những mối bận tâm của họ để có thể trao cho họ một lời thích đáng. Người giảng thuyết không được lôi cuốn người nghe tập trung sự chú ý vào mình, nhưng vào Chúa - Đấng đang muốn nói với dân Ngài hôm nay. Bài giảng cần ngắn gọn, bởi lẽ nếu bài giảng dài, thì hoặc người giảng thuyết dễ gây buồn chán và người ta không lắng nghe ngài nữa, hoặc ngài sẽ gây hứng thú, nhưng chỉ tập trung sự chú ý vào mình. Trong cả hai trường hợp, Thiên Chúa có nguy cơ bị lãng quên. Đức Giáo hoàng tóm gọn ý tưởng của mình với lời trong sách Huấn Ca: “Hãy nói cho gọn, ít lời mà nhiều ý” (Hc 32,8) và ngài nói thêm: “Một thầy giáo cũ từng nói với tôi, một bài giảng tốt phải có: một ý tưởng, một tâm tình, một hình ảnh” (số 157).
4. Phúc Âm hóa cũng là một cuộc chiến thiêng liêng.
Nếu năng lực loan báo Tin Mừng liên kết với hành trình theo Đức Kitô của ta, thì ngày qua ngày nó bao hàm một cuộc trở lại đích thực với Tin Mừng. Do đó, nhiều lực cản, trong đời sống cá nhân cũng như nếp sống cộng đoàn của ta, sẽ chống lại cuộc hoán cải này. Vì thế, chúng ta được mời gọi phải đương đầu với cuộc chiến thiêng liêng này. cần phải chống lại những cơn cám dỗ thường xuất hiện trước chúng ta. Chúng ta cũng đừng quên rằng Đức Giáo hoàng Phanxicô là tu sĩ Dòng Tên, đã nhiều lần giảng về đường lối linh thao của thánh Inhaxiô. Trước chúng ta, luôn có Đức Kitô và thế giới, cần phải tuyển chọn. Đức Giáo hoàng Phanxicô thích những tương phản. Chúng ta có thế nhận ra điều đó trong những gì ngài đã nói với chúng ta về những cơn cám dỗ của người hoạt động mục vụ (số 76-109). Những cơn cám dỗ ấy làm đảo lộn mọi sự chung quanh, thái độ sống co cụm trên mình, như người đàn bà khòm lưng trong Tin Mừng (x. Lc 13,10-17). Khi tập trung trên mình, ta quên rằng, chính Thiên Chúa là chủ mùa gặt, và ta sẽ làm hỏng cuộc gặp ỡ với những người mà ta được gửi đến. Chúng ta sẽ kể ra một những cơn cám dỗ này:
- Cám dỗ của thuyết tương đối: ta có nguy cơ bị thuyết tương đối và chủ nghĩa cá nhân chung quanh ảnh hưởng. Mỗi người đều có những xác tín của mình. Tại sao lại xông vào khu vườn bí mật của kẻ khác? Ta sợ phải để lại dấu vết khác biệt ủa mình. Ta bị rình rập. Lúc đó, ta đừng nói gì hết. Ta đừng để lình bị cướp mất nhiệt tâm truyền giáo (số 80).
- Cám dỗ của ươn Iưòi ích kỷ: Sự ươn lười nói lên sự khô khan, thiếu năng động, chán nản. Ta thường sợ rằng, việc dấn thân truyền giáo sẽ lấy đi khỏi mình quá nhiều. Ta muốn ổn định đời sống cá nhân. Ta không có giờ để cống hiến. Hay có thể, ta làm nhiều sự việc đến nỗi trở nên “trống rỗng nội tâm” và không tìm ra được cách thể để đổi mới việc loan báo Tin mừng. Đức Giáo hoàng gọi tình trạng đó là ươn lười mục vụ (số 82). Ta cũng thường tự đóng khung mình trong những vấn đề tổ chức. Ta mang một nỗi cay đẳng và sự chán nản: “Tâm lý nấm mồ dần dần biến các Kitô hữu trở thành những xác ướp trong viện bảo tàng sẽ phát triển” (số 83).
- Cám dỗ của thái độ bi quan vô bổ: đó là thái độ bi quan của những người chỉ thấy khía cạnh xấu của sự việc, của những nhà tiên tri gây thảm họa mà Đức Giáo hoàng Gioan XIII tố giác trong diễn từ khai mạc Công đồng Vaticanô II. Họ không biết nhận ra Chúa đang hoạt động và hạt giống tốt đang mọc lên giữa cỏ lùng. Như Đức Hồng Y Marty nói: Những bức tường thành sụp đổ sẽ gây vang động hơn là sự nảy mầm âm thầm của những hạt giống.
- Cám dỗ của tinh thần thế tục: ta thường biến Giáo hội thành việc làm cá nhân của mình, thành một nơi quyền lực hay thăng tiến mình. Bám chặt vào quá vãng, ta biến Giáo hội thành viện bảo tàng. Đam mê thương mại, ta giản lược việc loan báo Tin Mừng vào một số luật lệ theo kiểu nghiên cứu thị trường. Tự coi mình ở trên những người khác, ta đánh giá cao những người sống những hình thức khác của Giáo hội, bởi lẽ, chẳc chắn ta tin mình là những người tốt hơn. Tinh thần thế tục cũng được diễn tả trong khuynh hướng đề cao giáo sĩ, gạt phụ nữ hay người trẻ ra bên lề. Đức Giáo hoàng nói, trong tinh thần thế tục này, luôn có sự hưởng thụ giả dối của tính tự mãn ích kỷ (số 95), ngài đưa ra một nhận xét đáng sợ: trên thực tế, người ta không thực sự quan tâm đến Chúa Giêsu hoặc tha nhân (số 94). Ta đừng để mình bị cướp mất Tin Mừng (số 94).
- Cám dỗ của chiến tranh nội bộ giữa các nhóm trong Giáo hội: ghen ghét, phê bình, tư tưởng bất bao dung, có thể làm cho đời sống Giáo hội trở nên khó khăn: “Tôi cảm thấy rất đau lòng khi khám phá ra rằng, làm sao trong một số cộng đoàn Kitô hữu và thậm chí giữa những người được thánh hiến, còn có chỗ cho những hình thức khác nhau của hận thù, chia rẽ, vu khống, nói xấu, trả thù, ghen ghét, mong muốn áp đặt tương tự như những cuộc săn lùng các phù thủy. Chúng ta sẽ rao giảng Tin Mừng cho ai với những hành vi như thế? (số 100). Và Đức Giáo hoàng kết luận về điểm này: Chúng ta đừng để mình bị cướp mất lý tưởng tình yêu huynh đệ! (số 101).
Theo Đức Giáo hoàng, một Giáo hội để cho những cơn cám dỗ trên khuất phục mình và sống co cụm trên mình, sẽ trở thành một Giáo hội bệnh hoạn. Giáo hội ấy sẽ mang nỗi buồn phiền của người thanh niên giàu có (x. Lc 18,23). Giáo hội ấy sẽ trở nên cằn cỗi về đời sống tông đồ. Vì vậy, chúng ta hãy chống lại những cơn cám dỗ này: Chúng ta đừng để cho mình bị cướp mất nhiệt tình truyền giáo! (số 109).
III. TIN VUI ĐƯỢC LOAN BÁO CHO NGƯỜI NGHÈO HAY CHIỀU KÍCH XÃ HỘI CỦA PHÚC ÂM HÓA
1. Trọng tâm của Phúc Âm hóa là tình yêu tha nhân
Nếu tình yêu là trọng tâm Tin Mừng ta phải loan báo và của đời sống Kitô hữu ta cần diễn tả, thì tình yêu ấy vừa là tình yêu Thiên Chúa vừa là tình yêu tha nhân. Ta không thể được tình yêu tác động nếu không yêu thương người khác và mong muốn cho họ được hạnh phúc: “Việc chấp nhận lời rao giảng ban đầu, mời gọi chúng ta đến để được Thiên Chúa yêu thương và yêu lại Ngài với tình yêu mà Ngài thông truyền cho chúng ta, gây ra trong cuộc sống và hành động của chúng ta một đáp trả đầu tiên và cơ bản: mong muốn, tìm kiếm và quan tâm đến hạnh phúc của những người khác” (số 178). Như thánh Gioan nói: “Nếu ai đó nói “Tôi yêu Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, thì đó là người nói dối. Thật vậy, người không yêu người anh em mà mình trông thấy thì không thế yêu thương Thiên Chúa mà mình không thấy được... Ai yêu Thiên Chúa, thì người ấy cũng yêu thương anh em mình” (lGa ,20-21). Các cộng đoàn Kitô hữu cần phải cống hiến một khuôn mặt cụ thể cho tình yêu huynh đệ này, để biểu lộ hiệu năng của ân sủng húa trong các mối tương quan con người. Vì vậy, tình yêu huynh đệ không phải là kết quả của việc loan báo Tin Mừng, nhưng đúng ra nó là một trong những nhân tố của Phúc Âm hóa. Việc loan báo Tin Mừng không chỉ nằm trong phạm vi diễn từ. Nó không thể được giản lược vào một chiến lược loan báo. Như chứng tá của Đức Kitô, việc loan báo Tin Mừng được biểu lộ qua lời nói và hành động. Sứ điệp của chúng ta không thể tách biệt với cách thức chúng ta sống tương quan với nhau.
Hơn nữa, tình yêu này khi xây dựng tình huynh đệ giữa con người, cũng phù hợp với thánh ý Chúa là Đấng cứu độ hết mọi người và muốn quan tâm đến hạnh phúc của mọi người. Ngài kêu mời họ cũng bước vào vương quốc của Ngài và ơn cứu độ la Ngài tác động đến mọi chiều kích đời sống họ. Đức Giáo hoàng ghi lại khẳng định này trong tài liệu Aparecida: “Mệnh lệnh vê đức ái của Chúa bao trùm tất cả mọi lãnh vực của đời sống xã hội và tất cả mọi dân tộc” (số 181). Đức Giáo hoàng tố giác quan niệm về tôn giáo nhằm giam hãm tôn giáo trong sự thân mật kín đáo của con người, chớ không nhằm gây một ảnh hưởng nào trên đời sống xã hội. Cũng ở đó, Đức Giáo hoàng nhấn mạnh đến tính ưu tiên tuyệt đối của thái độ “đi ra khỏi mình, hướng đến người anh em” (số 179). Và việc “ra khỏi mình hướng đến người anh em” này hiện mang lại hai hiệu quả cơ bản:
- Việc hòa nhập xã hội của người nghèo.
- Hòa bình và đối thoại xã hội.
2. Lắng nghe tiếng kêu của người nghèo
Một sự chú ý đặc biệt phải được hướng đến người nghèo. Toàn bộ Thánh Kinh đều nói với chúng ta rằng Thiên Chúa luôn lắng nghe tiếng kêu của người nghèo. Đức Kitô đặt người nghèo vào trọng tâm của sứ vụ Ngài. Không phải trước hết Ngài được sai đến để loan báo Tin Mừng cho người nghèo (Lc 4,18) sao? Và một trong những dấu chỉ Đức Giêsu là Đấng được Thiên Chúa sai đến không phải là Tin Mừng được loan báo cho người nghèo (Mt 11,5) sao? Chính Ngài đã trở nên nghèo để chúng ta được giàu sang nhờ sự nghèo khó của Ngài, như thánh Phaolô đã nói trong 2 Cr 8, 9. “Đối với Hội Thánh, việc chọn lựa thương yêu người nghèo chủ yếu là một loại chọn lựa thân học hơn là loại chọn lựa văn hóa, xã hội học, chính trị hay triết học” (số 198).
Nói như thế, ta cần phải lắng nghe tiếng kêu của người nghèo: “Giả điếc trước tiếng kêu ấy, khi chúng ta là những công cụ của Thiên Chúa để lắng nghe người nghèo, đặt chúng ta ra ngoài thánh ý của Chúa Cha và kế hoạch của Ngài” (số 187). Sự hiện diện trước người nghèo có một chiều kích xã hội và bao hàm tình liên đới, bác ái và công bình. Đức Giáo hoàng biện hộ cho một phân bố hợp lý các của cải vật chất và tố giác thái độ cướp đoạt của cải của một số người. Ở đây, ngài tham chiếu toàn bộ đóng góp của học thuyết xã hội của Giáo hội, đặc biệt đến những gì mà học thuyết ấy bàn về công bình và việc sử dụng chung các của cải.
Ta cũng nên ghi nhận rằng, trong những thách đố của thế giới hiện nay mà ngài đã phân tích trong các số 52-57, Đức Giáo hoàng tố giác cách hết sức gay gắt tình trạng mà ngài gọi ngẫu tượng mới của tiền bạc (các số 55-56): “Việc thờ bò vàng xưa kia (x. Xh 32,1-35) đã tìm thấy một phiên bản mới và lẫn tâm trong chủ thuyết suy tôn tiền bạc quá đáng và chủ nghĩa độc tài của một nền kinh tế phi nhân và không có một ục đích nhân bản đích thực” (số 55). Con người bị hy sinh cho lợi nhuận tài chánh trực tiếp và những lợi ích thị trường. Con người bị sử dụng, rồi bị ném bỏ. Thái độ tố giác của Đức Giáo hoàng rất mạnh mẽ: “Chúng ta đã vận hành nền văn hóa vứt bỏ” (số 53). Thái độ tìm kiếm tiền bạc thái quá và một logic hưởng thụ làm cho của cải vật chất có vị trí ưu tiên, sẽ làm cho tâm hồn trở nên khô cằn và thu nhỏ góc nhìn. Điều đó tạo ra tình trạng mà Đức Giáo hoàng Phanxicô gọi là toàn cầu hóa sự dửng dưng (số 54). Ngài nói: “Văn hóa của sự thịnh vượng làm lúng ta mất đi sự mẫn cảm” (số 54). Thái độ dửng dưng này chỉ tạo nên bạo lực liên tục, sự tan rã xã hội và nhiều cuộc xung đột trên mặt đất này.
Ngược lại, Đức Giáo hoàng cũng kêu gọi một phân bổ hợp lý hơn những lợi nhuận, một thiết lập chế độ công ăn việc làm phù hợp hơn, một sự thăng tiển toàn diện người nghèo. Những chương trình đó chỉ có thể được thực hiện nếu chúng ta quan tâm đến người nghèo, nếu chúng ta để cho tiếng kêu của họ vang động trong chúng ta, nếu chúng ta tiếp cận với họ thật sự và chân thành. Vì lẽ rằng, đối với Đức Giáo hoàng Phanxicô, nếu sự nghèo khó xác định những tình trạng vật chất đáng phê phán, thì nó cũng vạch ra những hình thức yếu kém: những người không có nhà ở, những người nghiện ngập, những người tị nạn, di cư, những người già cả, các phụ nữ là nạn nhân của bạo hành, các trẻ thơ cần được sinh ra mà người ta lại hủy bỏ, lững nạn nhân do thái độ đối xử của con người hay thái độ không tôn trọng các thụ tạo trong thiên nhiên.
Lời kêu gọi của Đức Giáo hoàng cũng được trao gửi cho những người đảm trách chính trị.
Sự quan tâm tới người nghèo không chỉ giản lược vào sự trợ giúp để họ có một đời sống vật chất tốt hơn. Nhưng nó còn bao hàm cả mối lo lắng thiêng liêng cho người nghèo. Tình yêu quảng đại trong việc phục vụ người nghèo không thể biện minh cho việc quên lãng chiều kích này: “Họ cần Thiên Chúa và chúng ta không thể không cung cấp cho họ tình thân hữu của Ngài, phúc lành của Ngài, lời của Ngài, việc cử hành các bí tích và đề nghị một hành trình tăng trưởng và trưởng thành trong đức tin (số 200).
Đức Giáo hoàng mời gọi các Kitô hữu hãy để cho những cảnh khốn khổ này đụng chạm đến phần thâm sâu nhất của mình, như người Samaria tốt lành trong Tin Mừng đã làm khi nhìn thấy một người bị bỏ rơi đến chết bên vệ đường. Người ấy động lòng trắc ân (như người cha có hai đứa con trong dụ ngôn Tin Mừng, như Đức Giêsu trước đám đông hay trước nỗi đau khổ của người góa phụ thành Naim vì mất đứa con trai). Không thể loan báo Tin Mừng, nếu không có sự tiếp cận này, nếu không có sự băng rịt thương tích này. Hơn một lần, Đức Giáo hoàng nói đến lòng trắc ẩn, sự quan tâm chú ý, lòng thương xót. Vả lại, những người nghèo không chỉ là những người hưởng nhờ công việc loan báo Tin Mừng. Họ cũng loan báo Tin Mừng cho ta, bằng cách dẫn chúng ta trở lại với trọng tâm Tin Mừng. Họ mời gọi chúng ta ra khỏi cái lôgic “cho đi - cho lại”. Họ đặt chúng ta trở lại trước hồng ân nhưng không, và cuối cùng trước sự sống đích thực. Qua họ, chính Đức Kitô đang đến với chúng ta. Có một chiều kích bí tích của cuộc gặp gỡ Đức Kitô trong các anh em, và đặc biệt trong những người nghèo. Chúng ta hãy đọc lại dụ ngôn vê cuộc phán xét cuối cùng trong Tin Mừng theo thánh Matthêu, chương 25.
Đức Giáo hoàng mong ước có một Giáo hội luôn sống với người nghèo: “Tôi muốn có một Giáo hội nghèo cho người nghèo. Họ có nhiều điều để dạy chúng ta. Chúng ta cần phải để dạy mình được họ Phúc Âm hóa. Tân Phúc Âm hóa là một lời lời gọi để nhận ra sức mạnh cứu độ trong đời sống của họ, và đặt họ tại trung tâm trong cuộc hành trình của Giáo hội. Chúng được mời gọi để khám phá ra Đức Kitô trong họ, để cho họ mượn tiếng nói của ta mà nói lên những lý do của họ; nhưng cũng để trở nên bạn bè của họ, lắng nghe họ, hiểu họ và đón lận sự khôn ngoan nhiệm mầu mà Thiên Chúa muốn truyền ông qua họ (số 198).
3. Thực hành “nghệ thuật” hòa bình và tầm quan trọng của đối thoại
Một đóng góp khác cho tình huynh đệ, đó là thực hành “nghệ thuật” hòa bình và tầm quan trọng của đối thoại giữa con người (đó ỉà những gì mà trong Tông huấn Đức Giáo hoàng gọi là “đối thoại xã hội”). Qua việc thực hành “nghệ thuật” này (số 244), Đức Giáo hoàng có ý nhắm đến một thực hành “tích cực”, nghĩa là thật sự phải hoạt động, như trong mối phúc được Đức Giêsu công bố: “Phúc cho những ai xây dựng hòa bình, họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5, 9).
Hòa bình trong chiều kích xã hội của nó đòi hỏi phải ý thức đến ích lợi chung, điều mà ngày nay trở nên khó khăn trong một xã hội mà quyền ưu tiên dành cho cá nhân thường có nguy cơ khép kín trên mình trong thái độ chỉ bảo vệ lợi ích riêng tư hay phe nhóm của mình: “Phẩm giá của con người và công ích vượt trên sự an ổn của một số người không muốn từ bỏ đặc quyền của . Khi các giá trị ấy bị ảnh hưởng, thì cần phải có một tiếng nói tiên tri" (số 218). Hoạt động cho hòa bình, đó là quan tâm đến sự phát triển mọi người. Không thể có hòa bình xã hội, nếu hòa bình ra các dân tộc dựa trên nền tảng bất công và loại trừ: “Cuối cùng một nên hòa bình mà không phát sinh như kết quả của sự phát triển toàn diện đối với tất cả mọi người, thì sẽ không có tương lai và sẽ luôn là mâm mống gây nên các cuộc xung đột mới và các hình thức khác nhau của bạo lực” (số 219).
Hòa bình giữa con người cũng bao hàm việc thực hành đối thoại để làm cho các tinh thần và tâm hôn con người sát gần lại. Theo Đức Giáo hoàng, loan báo Tin Mừng cũng bao hàm việc đối thoại: “Loan báo Tin Mừng cũng liên quan đên bước đường đối thoại. Đặc biệt, đối với Giáo hội, hiện đang có ba lãnh vực đối thoại mà Giáo hội phải có mặt, để thi hành một phục vụ giúp phát triển trọn vẹn con người và mang lại công ích: đối thoại với các quôc gia, đối thoại với xã hội - bao gồm đối thoại với các nền văn hóa và khoa học- và đối thoại với các tín hữu khác không phải là phần tử của Hội thánh Công giáo” (số 238). Cuộc đối thoại với các tín hữu khác bao gồm đối thoại đại kết, đối thoại với Do thái giáo và đối thoại với các tôn giáo khác hay đối thoại liên tôn. Chúng ta cần trở lại các số 244 đến 254 của Tông huấn để thấy những gì Đức Giáo hoàng đã viết về mỗi cuộc đối thoại trên. Để kết thúc phần này, Đức Giáo hoàng đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của tự do tôn giáo, là nền tảng và dấu chỉ biểu lộ việc bảo vệ các quyền tự do khác.
KẾT LUẶN
Ta có thể nhận ra, Tông huấn này đã được ngang qua nhờ một động lực bên trong: Đức Kitô đã chạm đến tâm hồn ta, giúp ta đi ra gặp gỡ anh em mình, đặc biệt là những người nghèo. Chúng ta cần bước vào nguồn động lực này. Ta không thể chọn lựa và chỉ giữ lại phần nào đó để củng cố ý tưởng của ta. Chiêm ngưỡng, chuyển cầu, loan báo Tin Mừng và phục vụ cụ thể những người nghèo phải được sống động đồng bộ. Tông huấn đã nhấn mạnh điều đó: “Từ quan điểm Phúc Âm hóa, những đề nghị thần bí mà không có một sự dấn thân xã hội và truyền giáo mạnh mẽ, hay những bài thuyết trình và những thực hành xã hội và mục vụ, mà không có một linh đạo có sức biến đổi tâm hồn, sẽ chẳng giúp được gì” (số 262). cần phải giữ cả hai. Đức Gíao hoàng diễn tả những yếu tố cần thiết giúp cho mỗi Kitô hữu và toàn thể Giáo hội một cách đồng hành với Đức Kitô phục sinh trên con đường của nhân loại. Khám phá ra những yếu to đó dưới nhiều vẻ khác nhau của chúng và đáp ứng, là toàn thể công trình loan báo Tin Mừng. Niềm vui được hứa cho mọi người lăn xả vào cuộc mạo hiểm. Chúa Thánh Thần sẽ không vắng mặt đối với họ. Cùng với Mẹ Maria, Ngôi Sao của công cuộc Tân Phúc Âm hóa, chúng ta hãy lên đường.
BÀI III
MỘT CHUỖI CẢM NGHIỆM DƯỚI ÁNH SÁNG
TÔNG HUẤN NIỀM VUI TIN MỪNG
(Phỏng theo Lm. Phêrô Mario, Milanô, tháng 06/2014)
1. Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng về sứ vụ loan báo Tin Mừng trong thế giới hiện nay.
Từ lúc khởi đầu triều đại Giáo hoàng của ngài, tất cả chúng ta đều ngỡ ngàng trước nhân cách của Đức Giáo hoàng Phanxicô. Khi đọc Tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng”, chúng ta càng ngỡ ngàng trước văn phong giản đơn, giàu hình ảnh, mang tính thông truyền, chất vấn, dễ tiếp nhận, trực tiếp và không quanh co của ngài. Trước khi trở thành Tổng Giám mục tại Buenos Aires, cha Jorge Mario Bergoglio đã là giáo sư thần học mục vụ tại phân khoa Thần học San Miguel từ năm 1979 đến 1985. Nhấn mạnh đến sự kiện này, là để giúp chúng ta trong việc đọc Tông huấn này. Đó không phải là một tài liệu có nội dung giáo lý hay luân lý, cũng không phải là một bản văn mang tính kỷ luật. Nhưng đó chỉ là bản viết được đặt trong lãnh vực thân học luân lý. Bản viết cuối cùng thuộc loại này là của một vị Giáo hoàng ở mãi thế kỷ thử VI, với tác phẩm “Luật mục vụ” của thánh Grêgôriô Cả. Đức Giáo hoàng Phanxicô lặp lại loại văn chương này trong một Giáo hội rất cần được canh tân trong nhiệt tình truyền giáo. Mục đích của Tông huấn thật sự nhằm chất vấn chúng ta để sống hoán cải mục vụ trong công cuộc canh tân truyền giáo của Giáo hội.
2. Một giai đoạn mới để mời gọi Giáo hội canh tân.
Công đồng Vaticanô II giúp chúng ta khám phá lại chiều kích Giáo hội học của sứ vụ. Giáo huấn Công đồng tập trung vào quan điểm trọng tâm về “chứng tá”. Đó là điều Đức Karol Wojtyla, Tổng Giám mục Cracovie, minh chứng rõ ràng trong tác phẩm của ngài: Trở về nguồn canh tân.
Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã đúc kết lại giáo huấn nà trong Tông huấn “Loan báo Tin Mừng: Bản văn tuyệt vời này, đã đưa ra cho chúng ta một định nghĩa sáng sủa, rõ ràng và đầy đủ về loan báo Tin Mừng: “Giáo hội hiện hữu để loan báo Tin Mừng. Đó là căn tính thâm sâu nhất của Giáo hội” (EN, số 14)
Luôn cùng một năng lực tiên tri được tác động bởi Chúa thánh Thần, Đấng luôn định hướng rất đúng đắn cho Giáo hội của Ngài, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II mời gọi chúng ta bước vào công cuộc “Tân Phúc Âm hóa”. Đến lượt mình, Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã cơ chế hóa lời mời gọi trên, bằng cách thiết lập một bộ mới và triệu tập một Thượng Hội đồng giám mục tại Rôma bàn về đề tài này, được diễn ra trong tháng 10 năm 2012.
Nếu ta sử dụng hình ảnh một ván nhảy, ta sẽ nhận ra rằng sự tiếp nối những biến cố do Chúa quan phòng trên đây, đã giúp bước lên bậc nhảy. Ở đầu tấm ván nhảy, đó là Đức Giáo hoàng Phanxicô, với Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, đang vỗ nhẹ trên vai và cổ vũ mỗi người: “Nào hãy đến đó và nhảy đi!”.
3. Như một thầy giáo cũ nói với tôi, một bài giảng hay phải chuyển mang “một ý tưởng, một tình cảm, một hình ảnh” (EG, số 157, “3. Chuẩn bị bài giảng”)
Không dễ dàng để giới thiệu Tông huấn này. Dàn bài chung và logic bên trong của tài liệu không dễ gì nắm bắt. Văn bản này gồm 288 số, trình bày nhiều đề tài phong phú và khác biệt. Những đòi hỏi cũng nhiều. Để giúp giới thiệu tổng quát Tông huấn, ta nên dùng một câu nhỏ mà ta gặp trong chương về việc chuẩn bị bài giảng” làm chỉ nam hướng dẫn. Đức Giáo hoàng Phanxicô viết: “Như một thầy dạy cũ đã nói với tôi, một bài giảng hay phải mang chứa “một ý tưởng, một tình cảm, một hình ảnh”.
4. MỘT Ý TƯỞNG
Quan điểm mục vụ của Đức Giáo hoàng Phanxicô là: Xây dưng các cộng đoàn môn đệ - truyền giáo.
Nếu ta đọc kỹ Tông huấn này, ta sẽ gặp ở đó một sợi chỉ dẫn truyền quan trọng. Quan điểm của Đức Giáo hoàng chắc chắn là như sau: “Xây dựng những cộng đoàn môn đệ - truyền giáo”. Từ lời phát biểu chính yếu này, ta sẽ kiểm soát, xem các công đoàn giáo xử của chúng ta có tích cực hưởng ứng lời kêu gọi canh tân truyên giáo của Đức Giáo hoàng không?
Trong Tông huấn, Đức Giáo hoàng đã mạnh mẽ quả quyết: “Mọi Kitô hữu đều truyền giáo theo mức độ họ đã gặp gỡ tình yêu Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, chúng ta không còn nói ràng mình là “môn đệ’ và “nhà truyền giáo”, nhưng ta luôn là những “môn đệ - truyền giáo (EG, số 120).
Tất cả vấn đề canh tân Giáo hội nằm ở đó: ở chỗ gạch nối. Chúng ta có sẵn sàng hết lòng dấn thân để huấn luyện và biến đổi các cộng đoàn có thể sản sinh các môn đệ cỏ khả năng đạt dược sự trưởng thành truyền giáo không? Việc loan báo Tin Mừng trở nên chuẩn mực cuối cùng và quyết định, để xác định sự trưởng thành Kitô giáo của các môn đệ và các cộng đoàn. Đó là điều chúng ta cần xem xét trong cách tổ chức và sinh hoạt nơi các Giáo xứ.
5. MỘT HÌNH ẢNH
Đức Mẹ Aparecida
Nhìn thoáng qua trong hình ta thấy Đền thánh Braxin, được hiến dâng cho Đức Mẹ Aparecida và một bức tượng nhỏ là nguồn gốc của nơi hành hương này. Tháng 7 năm 2013, nhân dịp Đại hội Giới trẻ thế giới được tổ chức tại Rio de Janiero, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã giải thích ý nghĩa truyền giáo của phép lạ này. Những người thuyền chài nghèo khó, trong một chiếc thuyền mảnh mai, với những chiếc lưới tồi tàn, đã chài được một bất ngờ. Đây là những điều Đức Giáo hoàng diễn tả:
“Lòng kiên nhẫn của những người chờ đợi luôn bi thử hách. Và Thiên Chúa đã đến cách mới mẻ, vì Thiên Chúa luôn gây bất ngờ: một hình tượng bằng đất sét mảnh mai, bị mờ tối do những dòng nước sông lưu chảy, trở nên cũ kỹ do thời gian Thiên Chúa luôn bước vào trong những trang phục của nghèo khó. Và đây là hình tượng của Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội. Trước hết là thân mình, rồi chiếc đầu, rồi tập hợp thân mình với đầu: hợp nhất. Những gì vỡ gãy lại tìm được sự kết hợp. Braxin thuộc địa bị chia rẽ do bức tường ô nhục của chế độ nô lệ. Đức Trinh Nữ Aparecida hiện diện với gương mặt xạm đen, trước hết bị phân cách, rồi được kết hợp trong bàn tay của những người đánh cá” (Cuộc gặp gỡ với các Giám mục Braxin, tại Tòa riám mục Rio de Janeiro, thứ bảy ngày 27/07/2013).
Cũng cần phải nhấn mạnh điều này. Trước khi làm Giáo hoàng, cha Bergiglio đã làm Tổng Giám mục Buenos Aires. Với tư cách là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Argentina từ năm 2005 đến 2011, đồng thời cũng là thành viên của Hội đồng các Giám mục châu Mỹ Latinh (CEL AM), ngài đã có thể giữ vai trò quan trọng trong việc soạn thảo tài liệu của Đại hội Aparecida (2007). Chắc chắn đây là bản văn Giáo hội quan trọng nhất của ngàn năm mới, bởi nó đánh dấu một giai đoạn ý nghĩa của lịch sử Giáo hội. Tất cả những quan niệm chủ chốt của Tông huấn đều đã hiện diện trong tài liệu Aparecida. Tông huấn chỉ là một nối dài của tài liệu này.
6. MỘT TÌNH CẢM: NIÈM VUI
· Loan báo Tin Mừng
· Sống hoán cải mục vụ
· Loan truyền lời rao giảng đầu tiên (Kerigma)
· Làm chứng giữa cộng đoàn
· Đồng hành với những tiến trình phát triển
· Sống chiều kích lời rao giảng ban đầu của đức ái
· Chúa Thánh Thần
Một tình cảm: niềm vui được biến cách qua những đặc tính khác nhau, được dùng như chìa khóa giúp đọc toàn bộ Tông huấn. Theo đó, ta nên dùng một đoạn Tông huấn đáp ứng cho mỗi đặc tính.
7. MỘT TÌNH CẢM: NIỀM VUI
1)Loan báo Tin Mừng
Đó cũng là tựa đề Tông huấn. Và ngay từ đầu, Đức Giáo hoàng đã xác định cho chúng ta rất rõ tầm quan trọng của thái độ Kitô giáo cơ bản này:
“Niềm vui Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và toàn thể đời sống của những người gặp gỡ Chúa Giêsu. Những người để cho mình được Ngài cứu độ, sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn rầu, trống rỗng nội tâm và cô lập. Với Chúa Giêsu Kitô, niềm vui được sinh ra và luôn tái sinh. Trong Tông huấn này, tôi muốn ngỏ lời với các tín hữu Kitô giáo, để mời gọi họ bước vào một giai đoạn mới của truyền giáo, được đánh dấu bàng niềm vui này và chỉ ra những con đường mới cho cuộc hành trình của Giáo hội trong những năm tới” (EG, số 1).
Vấn đề cần đặt ra cho các cộng đoàn Kitô hữu như sau: Làm thế nào để cảm nhận được cuộc gặp gỡ cộng đoàn thật sự là một nơi diễn tả và biểu lộ niềm vui Kitô giáo? Làm thế nào để chúng ta có thể phát triển giữa lòng cộng đoàn thực tại niềm vui mang tính lan truyền và cuốn hút?
8. MỘT TÌNH CẢM: NIÈM VUI
2) Sống hoán cải mục vụ
Ở đây, Đức Giáo hoàng Phanxicô không sợ mở rộng tác động của thực tại hoán cải mục vụ đối với nhiều chiều kích của cộng đoàn giáo xứ:
“Mục vụ liên quan đển truyền giáo đòi hỏi phải từ bỏ tiêu chuẩn mục vụ tiện lợi: “ta vẫn luôn làm như thế”. Tôi mời gọi mọi người phải táo bạo và sáng tạo trong bổn phận này, là suy ghĩ lại các mục tiêu, cơ cấu, phong cách và phương pháp truyền giáo tại các cộng đoàn của mình” (EG, số 33).
- Liệu các cộng đoàn Kitô hữu của chúng ta nói chung ó thực sự mạnh bạo và sáng tạo tuần tự suy xét lại những điểm đề nghị của Đức Giáo hoàng là: mục tiêu, cơ cấu, phong cách và phương pháp để canh tân truyền giáo không?
9. MỘT TÌNH CẢM: NIỀM VUI
3) Loan truyền lời rao giảng đấu tiên
Cũng cần phải hiểu Kêrigma là gì? - Đó là lời loan báo loan đầu tiên và cơ bản của Giáo hội sơ khai, như ta thường gặp lại đó trong Tân Ước. Đức Giáo hoàng Phanxicô trình bày nội dung của Kêrigma cần phải loan báo như sau:
“Kêrigma có đặc tính Ba Ngôi. Đó là ngọn lửa của Chúa Thánh Thần được ban dưới hình thức các ngôn ngữ và làm cho chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng qua cái chết và sự sống của Ngài, đã mạc khải và thông truyền cho chúng ta lòng thương xót vô biên của Chúa Cha” (EG, số 164).
Trong nếp sống cộng đoàn, liệu ta có khả năng đi xa và
hơn trong việc hiểu biết Thánh Kinh, huấn giáo và mục vụ ì Kêrigma không? Nếu không, việc loan báo Tin Mừng của ing ta có nguy cơ bị giới hạn và khô càn.
10. MỘT TÌNH CẢM: NIỀM VUI
4)Làm chứng giữa cộng đoàn
Trong Tông huấn số 127, Đức Giáo hoàng đã viết: “Có một hình thức rao giảng thuộc về tất cả chúng ta như một bổn phận hằng ngày: Đó là mang Tin Mừng đến cho những người chúng ta gặp gỡ, những người gần nhất cũng như những người xa lạ... Là môn đệ có nghĩa là lúc nào cũng sẵn sàng để mang tình yêu của Chúa Giêsu đến cho người khác và điều đó được thể hiện cách tự nhiên ở bất cứ nơi đâu: trên đường phố, nơi quảng trường, chỗ làm việc, trên đường đi” (EG, số 127).
Đức Giáo hoàng Phanxicô mời gọi chúng ta làm thế nào để hàng ngày chúng ta loan báo Tin Mừng cho mọi người, nhất là những người chúng ta gặp gỡ. Ta có sẵn sàng mang tình yêu của Chúa đến cho những người sống gần cận với mình không? Ta có thể hiện sự cảm thông, tha thứ, nâng đỡ, phục vụ, yêu thương họ? Cụ thể, ta có theo tiến trình gồm bốn giai đoạn mà nhiều cộng đoàn đang áp dụng: trước hết là việc đối thoại cá nhân, tiếp đến là loan báo cơ bản, rồi làm chứng và cuối cùng là cầu nguyện với người được loan báo Tin Mừng không?
11. MỘT TÌNH CẢM: NIÈM VUI
5)Đồng hành với những tiến trình phát triển
Chúng ta có thể ngạc nhiên trước kiểu nói trên, vì xem ra nó xa lạ. Nhưng trên thực tế, mọi cảm nghiệm phong phú của các cộng đoàn Kitô hữu truyền giáo đều dựa vào trên thực tại đồng hành cá nhân này với các tiến trình phát triển. Kiểu nói này được sử dụng trong suốt Tông huấn và đặc biệt trong các câu 169 đến 173. Ta giữ lại triệt sau đây:
“Sự liên hệ giữa thánh Phaolô với Timôthê và Titô là một thí dụ của việc đồng hành này và việc đào tạo trong tiến trình hoạt động tông đồ. Trong khi ủy thác cho hai ône sứ vụ dừng lại ở mồi thành phố để “hoàn thành ở đó việc tổ chức” (Tt 1, 5; X. L Tm 1, 3-5), ngài cung cấp cho các ông những tiêu chuẩn vê đời sống cá nhân và hoạt động mục vụ... Các môn đệ truyền giáo” (EG, số 173).
Câu cuối cùng rất sáng sủa: “Các môn đệ truyền giáo đồng hành với các môn đệ truyền giáo”. Chiều kích tương quan này không phải là đặc tính truyền giáo trong các phong trào tông đồ giáo dân tại các giáo xứ sao?
12. MỘT TÌNH CẢM: NIỀM VUI
6) Sống chiều kích Kêrigma của đức ái
Toàn bộ chương IV đề nghị một suy tư về sự liên kết giữa Kêrigma và đức ái. Đức Giáo hoàng Phanxicô chia sẻ với chúng ta mối quan tâm đặc biệt của ngài là đừng quên “ý nghĩa đích ực và toàn diện của sứ vụ loan báo Tin Mừng” (EG, số 176). ) Đoạn 177 đã mạnh mẽ kêu gọi chúng ta:
“Kêrigma có một nội dung xã hội không thể tránh được: ở n điểm của Tin Mừng, có đời sống cộng đoàn và sự tham gia với những người khác. Nội dung của lời rao giảng ban đầu này một hệ quả đạo đức trực tiếp được quy vào đức ái”.
Trong sứ vụ loan báo Tin Mừne của các cộng đoàn Kitô hữu, Chúng ta được mời gọi quan tâm đến những nhu cầu của từng người trong cộng đoàn chúng ta, biến chúng ta trở nên ững người phục vụ những người đã xa rời Giáo hội. Đức Giáo hoàng mời gọi chúng ta quan tâm lo lắng đến sự “phát triển toàn diện những người bị xã hội bỏ rơi” (EG, số 186). Cách cụ thể, chắc chắn điều đó cũng có nghĩa để đáp lại vấn đề: làm thế nào để các cộng đoàn Kitô hữu có thể lắng nghe tiếng kêu của một nhóm người tại một khu phố, tại một thôn làng nghèo khổ để tự chất vấn mình trong một tinh thần bác ái và cảm thông, trong một viễn cảnh chứng tá và loan báo Tin Mừng thiết thực?
13. MỘT TÌNH CẢM: NIỀM VUI
7) Chúa Thánh Thần
Chúng ta được mời gọi sống tất cả những điều đó trong niềmm vui Chúa Thánh Thần.
“Tôi rất ước ao tìm được những lời để cổ vũ một mùa rao giảng Tin Mừng nhiệt thành, vui tươi, quảng đại, táo bạo, đầy tình yêu sâu sắc và một đời sống truyền cảm! Nhưng tôi biết rằng không có một động lực nào có thể đủ, nêu không có ngọn lửa Chúa Thánh Thần đốt cháy trong lòng chúng ta” (EG, số 261).
Những lời trên đây của Đức Giáo hoàng không cần phải bàn giải. Toàn bộ chương V của Tông huấn là một lời mời gọi nài xin Chúa Thánh Thần để chúng ta có thể để cho Ngài hướng dẫn và biến đổi, vì Ngài là Đấng làm cho hành động loan báo Tin Mừng của chúng ta trở nên phong phú.
- Từ trước đến nay, có thể cộng đoàn Kitô hữu chúng ta đã quên lãng vai trò chủ động của Chúa Thánh Thần trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Ta thường chỉ tin tưởng vào sức mạnh riêng mình. Đó là sai lầm quá lớn, cần phải được hoán cải. Vì vậy, dưới ánh sáng của Tông huấn, mỗi khi khởi sự một hoạt động truyền giáo, ta cần vận dụng niềm tín thác vào sức mạnh của Ngôi Ba Thiên Chúa, và tha thiết cầu nguyện với Ngài, để Ngài là tác nhân chủ yếu định hướng cho mọi hoạt động tông đồ của ta.
14. GIÁO XỨ THEO TÔNG HUẤN NIÈM VUI TIN MỪNG (số 28)
Đoạn 28 của Tông huấn nói với chúng ta về Giáo xứ. Ta lấy lại mỗi câu của đoạn này và đặt ra câu hỏi: làm thế nào để cộng đoàn chúng ta có thế trở nên một dịp thuận tiện để góp phần canh tân truyền giáo Giáo xứ?
15. GIÁO XỨ (số 28)
“Giáo xứ không phải là một cơ cấu lỗi thời; chính vì nó có sự uyển chuyển lớn lao, nên nó có thể mặc những hình thức rất đa dạng, vì thế đòi hỏi phải có sự cởi mở và sáng tạo của người mục tử và cả cộng đoàn”.
· Theo lời mời gọi canh tân truyền giáo tại mồi giáo xứ của Đức Giáo hoàng, chúng ta có thật sự hợp nhất với nhau đê tìm cách canh tân công cuộc truyền giáo cách hữu hiệu không?
Tiái độ của chúng ta có cởi mở đón nhận mọi người, mọi sắc hái, mọi phương pháp truyền giáo? Chúng ta có quảng đai ung nạp mọi sáng kiến cho việc canh tân công cuộc truyền iáo giữa một thế giới đầy biển động như hiện nay không?
16. GIÁO XỨ (số 28)
“Cho dù, chắc chắn Giáo xứ không phải là cơ chế duv nhất loan báo Tin Mừng, nhưng nếu nó tỏ ra có khả năng tự canh tân và thích nghi không ngừng, nó vẫn tiếp tục là “Hội Thánh sống động giữa các mái nhà của con trai và con gái mình” (Christifideles Laici, số 26).
- Trong chiều hướng hoán cải mục vụ - truyền giáo Giáo xứ, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng nhắc nhở các cộng đoàn giáo xứ phải không ngừng canh tân đời sống và thích nghi sinh hoạt của mình, chúng ta có đề ra những sáng kiến và chương trình cụ thể để thực thi lời mời gọi này? Đặc biệt, Giáo xứ được hình thành từ các gia đình Kitô hữu, trong chiều hướng canh tân chung, chúng ta có đề xuất những hướng dẫn cụ thể và thích hợp cho các gia đình Kitô hữu, để họ cộng tác tích cực và hữu hiệu vào công cuộc truyền giáo không?
17. GIÁO XỨ (số 28)
“Điều này có nghĩa là giáo xứ thực sự tiếp xúc với các gia đình và với đời sống của dân chúng, và không trở thành một cơ chế rườm rà cách biệt với dân chúng, hay một nhóm nhỏ ưu tuyển chỉ biết đến mình”.
-Rõ ràng, Đức Giáo hoàng không muốn Giáo xứ sống co n trên mình, nhưng phải trở nên giáo hội năng động đi ra, hướng đến những vùng ngoại vi để làm cho Đức Giêsu, Đấng cứu thế, được mọi người nhận biêt và yêu mến. Giáo xứ của chúng ta có lên chương trình cụ thể thúc đẩy mọi tín hữu ra đi gặp gỡ những người cần được giúp đỡ để hường nhờ ơn cứu độ không?
18. GIÁO XỨ (số 28)
“Giáo xứ là sự hiện diện của Hội Thánh trong một lãnh thổ, một môi trường để lắng nghe Lời Chúa, để lớn lên trong đời sống Kitô hữu, để đối thoại, để rao giảng, để làm việc bác ái thờ phượng và cử hành’'.
-Trong câu diễn tả trên, chúng ta có thể nhận ra 5 động lực phát triển của Giáo xứ:
1)Hướng lên cao: thờ phượng và cử hành
2)Hướng ra bên ngoài: đối thoại
3)Hướng xuống: bác ái quảng đại
4)Hướng về phía trước: loan báo Tin Mừng
5)Hướng về bên trong: lẳng nghe Lời Chúa
Đây là chương trình sống đức tin và hoạt động truyền giáo cho mỗi cộng đoàn Giáo xứ.
19. GIÁO XỨ (số 28)
“Qua mọi hoạt động của mình, Giáo xứ cổ vũ và huấn luyện các thành viên của mình trơ thành những tác nhân loan báo Tin Mừng”.
-Chúng ta có thể lặp lại lời phát biểu của Đức Giáo hoàng Phaolô VI trong Tông huấn “Loan báo Tin Mừng” của ngài: “Cuối cùng, người được loan báo Tin Mừng, đến lượt mình, cũng phải loan báo Tin Mừng. Đó là việc trắc nghiệm chân lý, là đá thử sứ vụ loan báo Tin Mừng. Không thể tưởng tượng nổi, một người đã đón nhận Lời và hiến mình cho Triều đại Thiên Chúa, lại không thể trở thành người làm chứng và loan báo khi đến lượt mình” (EN, số 24).
Từ câu trên trong số 28 của Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng , ta có thể rút ra hai điều:
- Một là: trong hoạt động tông đồ của Giáo xứ, cần huấn luyện các thành viên Hội đồng Giáo xứ, các hội viên của các phong trào, đoàn thể hay thành phần các giới trở thành những môn đệ - truyền giáo, và là tác nhân tích cực trong công cuộc loan báo Tin Mừng.
- Hai là: trong huấn giáo dự tòng, cần gây ý thức nơi người tham dự: họ nhận được đức tin, được loan báo Tin Mừng, đến lượt mình họ cũng có bổn phận thông truyền đức tin và loan báo Tin Mừng cho người khác.
20. GIÁO XỨ (số 28)
“Giáo xứ là cộng đoàn của các cộng đoàn, là thánh điện để những người khát nước đến uống, hầu tiếp tục cuộc hành trình và là trung tâm thường trực sai đi truyền giáo”.
- Câu trên nhắc nhở chúng ta đến tài liệu Aparecida, trong đó vân đề “Giáo xứ, cộng đoàn của các cộng đoàn”, được bàn đến nhiều.
Đối với những người hiểu biết môi trường Nam Mỹ châu, thì kiểu nói “cộng đoàn của các cộng đoàn” không gây ngạc nhiên. Dùng kiểu nói này để diễn tả Giáo xứ không phải là kêt quả ngẫu nhiên, khi ta biết rằng, Đức Hồng y Bergoglio, Đức riáo hoàng hiện nay của chúng ta, thời gian ngài làm Tổng giám mục Buenos Aires, đã tham dự tích cực vào cuộc họp mặt Aparecida, trong tư cách là một nhà soạn thảo quan trọng.
Tại số 28 của Tông huấn, kiểu nói trên được trình bày một cách đậm hình ảnh. Đức Giáo hoàng Phanxicô minh chứng, làm sao mà Giáo xứ lại được mời gọi trở nên một nơi năng động với hai danh nghĩa: nơi giải khát (“thánh điện, ở đó những người khát đến uống nước”) và nơi “sai đi truyền giáo”. Trong tác động tiếp đón và ra đi này, cộng đoàn giáo xứ có thể lớn lên va hát triển. Ở số kế tiếp. Đức Giáo hoàng xác định mục đích cua những cộng đoàn nhỏ này giữa cộng đoàn lớn và điêu kiện cơ bản để chúng phục vụ lợi ích của cộng đoàn lớn. Nhìn theo quan điểm mục đích, chúng là “sự phong phú của Hội Thánh mà Chúa Thánh Thần khơi dậy để loan báo Tin Mừng cho mọi môi trường và khu vực” (EG, số 29). Nhìn theo quan điểm điều kiện sông của chúng giữa cộng đoàn, thì chúng không được mất “liên lạc với thực tại phong phú của giáo xứ địa phương và sẵn sàng tham gia vào cơ cấu mục vụ của Hội Thánh địa phương” (EG, số 29). Như thế, việc loan báo Tin Mừng và thái độ tham gia vào hoạt động mục vụ trở thành những chuẩn mực cuối cùng để biện minh cho tính thích đáng của các cộng đoàn nhỏ giữa cộng đoàn lớn là Giáo xứ.
-Cần phải vận dụng, liên kết và thống nhất mọi hoạt động của các giới, các hội đoàn, các phong trào đạo đức trong đường hướne truyền giáo chung của Giáo xứ. Đó là vấn đề cần phải khởi động cấp thời trong mục tiêu Tân Phúc Âm hóa Giáo xứ hiện nay.
21. GIÁO XỨ (số 28)
“Giáo xứ là các cộng đoàn của các cộng đoàn, là thánh điện để những người khát nước đến uống, hầu tiếp tục cuộc hành trình và là trung tâm thường trực sai đi truyền giáo”.
- Đọc kỹ câu này một lần nữa, ta có thể gợi lên một định hướng cụ thể cho kế hoạch loan báo Tin Mừng tại Giáo xứ.
+ Giáo xứ cần phải “đi ra” để tiếp cận với mọi người trong tinh thần truyền giáo.
+ Trong các phong trào tông đồ, cần huấn luyện những môn đệ - truyền giáo hiểu biết và năng động.
+ Bí tích Thánh Thể phải là nguồn trợ lực thiêng liêng hữu hiệu cho mọi hành trình truyền giáo của chúng ta.
22. GIÁO XỨ (số 28)
“Nhưng chúng ta phải thú nhận rằng, lời kêu gọi xét lại và canh tân Giáo xứ chưa đủ hiệu quả để các cộng đoàn nhỏ đến gần hơn với dân chúng, để cho chúng thành nơi hiệp thông sống động và tham gia, và để cho chúng quy hướng trọn vẹn vào sứ vụ truyền giáo”.
- Với những lời kết thúc số 28 của Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng trên đây, ta bắt được nỗi thao thức của Đức Giáo hoàng Phanxicô: Ngài mong muốn công trình Tân Phúc Âm hóa các Giáo xứ sớm trở nên hiện thực. Theo đó, cần hướng dẫn những người đang hoạt động tông đồ của Giáo xứ:
- Chủ động đến gần và tiếp cận với mọi dạng dân cư, đặc biệt là những người nghèo khổ, bị bỏ rơi, sống cô đơn và mất niềm hy vọng...
- Cần tổ chức những hội đoàn, những phong trào đạo đức... gặp gỡ nhau, trao đổi, bàn bạc với nhau, cùng nhau thống nhất chương trình hành động truyền giáo.
- Nói tóm, theo Đức Giáo hoàng, cần phải cấp thiết giúp các cộng đoàn Giáo xứ mạnh dạn bước vào công cuộc hoán cải mục vụ để việc Tân Phúc Âm hóa Giáo xứ được thể hiện cách hữu hiệu.
23. MỘT LỜI KINH
Để Tân Phúc Âm hóa Giáo xứ, cần phải cầu nguyện. Chúng ta lấy lại một phần trong lời cầu nguyện kết thúc Tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng”.
Lạy Mẹ Maria, Nữ Trinh và Hiền Mầu, Mẹ là Đấng đã được Chúa Thánh Thần tác động, đã đón nhận Lời ban sự sống vào tận đáy lòng đức tin khiêm cung của Mẹ, luôn tín thác hoàn toàn vào Đấng Hằng Hữu, xin giúp chúng con biết thưa tiếng "Xin Vâng" trong sự cấp bách và khẩn thiết hơn bao giờ hết, đê loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Lạy Mẹ, là Ngôi Sao của Tân Phúc Âm hóa, xin giúp chúng con trở thành những chứng nhân luôn tỏa sáng của tình hiệp thông và tinh thần phục vụ, của đức tin nhiệt thành và quảng đại, của công lý và tình yêu dành cho người nghèo, để cho Niềm Vui Tin Mừng tỏa lan đến tận cùng trái đất và soi sáng khắp mọi vùng ngoại vi.
Lạy Mẹ của Tin Mừng hàng sống, nguồn mạch niềm vui cho những người bé mọn, xin cầu cho chúng con. Amen. Alleluia!
BÀI IV
HIẾN CHƯƠNG LOAN BÁO TIN MỪNG:
MỘT TẤM VÁN NHẢY CHO SỨ VỤ
DẪN
Ngày 09/06/2014, Đức Hồng y Gioan-Phêrô Ricard, Tổng Giám mục Bordeaux, Pháp đã phổ biến trong Giáo phận ngài văn kiện “Hiến chương loan báo Tin Mừng”. Ngài mong ước văn kiện này có thể nâng đỡ năng lực truyền giáo của mọi cộng đoàn, Vì thế, trong năm mục vụ 2014-2015 của Giáo phận nhắm đến vụ của Giáo hội, chúng ta có thể đón nhận tài liệu này để phong phú hóa nội dung chương trình hành động của mình.
Bản Hiến Chương gồm 5 mục:
1. Loan báo Tin Mừng, đó là sống sâu sắc hơn trong tình thân mật với Đức Kitô.
2. Loan báo Tin Mừng, đó là tiếp nhận và để cho mình được tiếp nhận.
3. Loan báo Tin Mừng, đó là đi gặp gỡ và đề xuất những con đường mới.
4. Loan báo Tin Mừng, đó là sống một tình huynh đệ mới.
5. Loan báo Tin Mừng, đó là được sai đi.
MỤC I
LOAN BÁO TIN MỪNG, ĐÓ LÀ SỐNG SÂU SẮC HƠN TRONG TÌNH THÂN MẬT VỚI ĐỨC KITÔ
“Tôi mời gọi mọi Kitô hữu, ở bất cứ nơi nào và hoàn cảnh nào mình đang hiện diện, ngay lúc này hãy đổi mới cuộc gặp gỡ cá nhân của mình với Đức Giêsu-Kitô, hay ít ra, hãy quyết định để cho Ngài gặp gỡ mình, và mỗi ngày không ngừng tìm kiếm Ngài” (ĐGH Phanxicô: Niềm Vui Tin Mừng (EG, số 3)).
Để trở nên người mang một lời gây thiện ích, giải thoát, hâm nóng lại, một lời sáng tạo thì cần phải có thái độ sẵn sàng lắng nghe Đấng mở ra cho con người một tương lai: “Hỡi Ítraen, hãy lắng nghe!” (Đnl 6, 4).
“Giáo hội không thể sống nếu không có lá phổi cầu nguyện” (EG số 262).
Để sống trước sự hiện diện của Thiên Chúa, ta cần phải tập khám phá ra tình bạn đường với Đức Kitô, Đấng luôn đi trước chúng ta trên mọi nẻo đường... Nuôi dưỡng tình thân hữu của chúng ta với Ngài, nhờ chia sẻ Lời Chúa và đọc lại đời sống... Nhận biết hoạt động của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta... Dành thời gian bồi dưỡng cá nhân, và như Đức Giáo hoàng Phanxicô mời gọi, thiết lập “những nơi để bồi dưỡng đức tin vào Đức Giêsu chịu đóng đinh và sống lại, để chia sẻ những vấn đề thâm sâu nhất và những bận tâm hằng ngày, để với những tiêu chuẩn của Tin Mừng phân định sâu xa về đời sống và kinh nghiệm riêng của mình, hầu hướng những chọn lựa cá nhân và xã hội của mình đến điều tốt đẹp” (EG số 77).
Thiên Chúa yêu thương, phục hồi, và cứu độ mọi người. Chăc chắc, nhiều người sống mà không tin vào một Thiên Chúa cứu độ. Nhưng ta cần phải minh chứng rằng, đức tin là một hạnh phúc thâm sâu, hạnh phúc vì cảm thấy mình được Thiên Chúa yêu thương, một Thiên Chúa cứu độ bằng cách hạ mình uống, khích lệ tự do của mồi người.
Chúng ta hãy tạ ơn...
- Vì sự hiện diện của các cộng đoàn tu sĩ chiêm niệm cũng như tông đồ,
- Vì những nhóm đọc và chia sẻ Thánh Kinh,
- Vì thời gian chia sẻ giữa các phong trào và các ban ngành,
- Vì thời gian bồi dưỡng của các cộng đoàn chúng ta,
- Vì sự tháp tùng thiêng liêng do yêu cầu và được công hiến,
- Vì việc triển khai những đề nghị huấn luyện.
MỤC II
LOAN BÁO TIN MỪNG, ĐÓ LÀ TIẾP NHẬN VÀ ĐỂ CHO MÌNH ĐƯỢC TIẾP NHẬN
Loan báo Tin Mừng, đó là giúp mỗi người tìm được vị trí ủa mình trong Giáo hội và trong xã hội; đó là trao tặng một địa vị cho người không có nó; đó là có thể nói với mọi người và lỗi người: “Bạn có một tương lai!”.
Trong mọi cuộc gặp gỡ, chúng ta cần có thái độ tôn trọng nau nhiệm của con người cách sâu xa. Như Đức Giáo hoàng Phanxicô nhắc nhở, “tình yêu đích thực mang tính chiêm niệm”.
Nghịch với việc loan báo Tin Mừng, đó là thái độ loại trừ, đó là nói với người khác “Bạn không có chỗ! Nếu bạn muốn nột tương lai giữa chúng tôi, bạn phải thay đổi!”. Đức Giêsu đã giữ một tư thế ngược lại: Ngài là phận Thiên Chúa, thế mà lại giữ vị trí của kẻ bị loại trừ.
1. Tiếp nhận sự khác biệt như một sự giàu có...
Các cộng đoàn chúng ta chú ý đến việc đón nhận người xa lạ; đó không phải là trợ giúp người được tiếp đón, nhưng là khích lệ họ, qua việc kết dệt những mối liên hệ vững chắc; tìm được sức mạnh và ý muốn để theo đuổi cuộc hành trình khó khăn của mình. Những cuộc gặp gỡ này mang một chiều kích thánh thiêng, một chiều kích đơn sơ, khiêm tốn, nhưng không, trong thái độ trao ban cho nhau.
Loan báo Tin Mừng, đó là tiếp xúc với mọi hình thức nghèo khó: chấp nhận, cùng với những người gõ cửa nhà chúng ta, tìm kiếm con đường tự do của riêng họ, để đến lượt mình họ cũng có thể chia sẻ và trao ban. “Đôi khi, chúng ta bị cám dỗ trở nên những Kitô hữu giữ cho mình một khoảng cách an toàn với những vết thương của Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại muốn ta sờ chạm đến nỗi khốn khó của con người, đến thể xác đau khổ của kẻ khác” (EG, số 270).
Chúng ta phải lắng nghe trước sự hiện diện của “vị Thiên Chúa này”, người đang đến xin sự trợ giúp. Lúc đó, sẽ mở ra những con đường Bình An.
Chúng ta phải lắng nghe trong sự kính trọng, những gánh nặng được trao cho chúng ta, và như thế cùng với người đến thăm viếng ta, thử chiếu sáng một con đường.
“Xin ban cho tôi tớ Chúa một tâm hồn biết lắng nghe” (IV 3,9).
2. Tiếp nhận ngay
Đón nhận điều bất ngờ: không được làm những người thường đã chờ đợi lâu trước khi dám gõ cửa phải chờ đợi thêm. Có một khoảnh khắc ân sủng cần nắm bắt, hay đúng hơn cần phục vụ. Những đề nghị huấn giáo dự tòng có thể thực hiện hôm nay, sẽ giúp chúng ta trở nên những người phản ứng nhanh hơn.
3. Tiếp nhận không thành kiến
“Tôi là ai mà dám kết án?”
“Này đây Ta đứna trước cửa và gõ” (Kh 3, 20).
Người khác luôn được Đức Kitô hiện diện, Ngài âm thầm soi sáng đời sống họ. Tiếp nhận là hy vọng nơi người khác vượt qua những gì họ nói về mình. Giáo hội là dấu chỉ sự tin tưởng của Thiên Chúa đối với dân của Ngài.
4. Tiếp nhận kéo thêm một hoán cải
Loan báo Tin Mừng là từ bỏ bản thân mình.
Chúng ta được mời gọi thay đổi tư thế, đón nhận cũng như trao ban.
Những người kiệt quệ nhất, những người bị loại trừ triệt đệ nhất, lại nói với chúng ta về Thiên Chúa: họ mặc khải Tin Mừng cho chúng ta và chất vấn chúng ta.
Sống loan báo Tin Mừng, đó là tiếp nhận ân sủng của cuộc gặp gỡ, đó là Chúa đang chờ đợi chúng ta qua việc gặp gỡ anh em mình.
Tiếp nhận, đó là “làm với và làm cùng”, và không phải làm những sự việc cho kẻ khác, mà làm những sự việc ấy thay kẻ khác, bởi lẽ cách giản đơn, đó là giữ chỗ của họ! Tiếp nhận, đó là sẵn lòng tiếp đón lẫn nhau.
5. Tiếp nhận, đó là kêu gọi
Loan báo Tin Mừng, đó là kêu gọi! Loan báo Tin Mừng, là nói “Tôi tín thác vào bạn, Thiên Chúa tín thác vào bạn”! Nói và lặp lại cho mọi người ràng, ta cần mỗi người, và mỗi người có thể được công nhận giữa cộng đoàn, rằng không có “những tài năng nhỏ”.
Chúng ta hãy tạ ơn...
- Vì khả năng sáng tạo đã được triển khai để cống hiến những buổi hiện diện tiếp đón luôn thích hợp với đời sống mỗi người.
- Vì sự lo lắng của những người trong tình trạng tiếp đón, tự huấn luyện mình nhiều hơn, dự kiến thời gian đọc lại cá nhân và trong nhóm.
- Vì thái độ chăm chú, lắng nghe và tôn trọng thường có trong mồi cuộc gặp gỡ.
MỤC III
LOAN BÁO TIN MỪNG, ĐÓ LÀ ĐI GẶP GỠ VÀ KHÁM PHÁ NHỮNG CON ĐƯỜNG MỚI!
1. Lữ hành là một trong những đặc tính của Dân Giao ưóc
Việc lắng nghe Tin Mừng mời gọi chúng ta một di chuyển nội tâm.
Chúng ta được mời gọi sống trung thành với hướng dẫn sâu xa của đời sống của chúng ta, đó là đức tin. Nhưng sự trung thành thúc đẩy chúng ta bước vào chuyển động: nếu tôi sẵn sàng đáp lại lời kêụ gọi của Chúa, thì từ sự kiện này, tôi bắt đầu vận hành. Ápraham là nhân chứng đầu tiên của sự kiện này: “Hãy đi, hãy rời bỏ quê hương của ngươi...” (St 12,1).
Chúng ta phải chuyển dịch trong cách hiện hữu, cách làm của mình...
“Sự mật thiết của Hội thánh với Chúa Giêsu là một sự mật thiêt di động... Trung thành với kiểu mẫu của Thầy, vấn đề sống còn là Hội thánh ngày nay đi ra để loan báo Tin Mừng cho mọi người, ở khắp nơi, trong mọi trường hợp, không do dự, không chần chờ và không sợ hãi” (EG số 23).
Chúng ta hãy tạ ơn...
- Vì những giây phút mỗi người trong chúng ta bỏ con đường đã dự kiến, theo gương của Môsê và từ bụi gai cháy sáng, bước ngoặc trong những thói quen của chúng ta, thay đổi cái nhìn của mình, để làm chứng cho một Hội thánh phát sinh từ cuộc gặp gỡ.
- Vì các tuần lễ truyền giáo, trong đó cuộc gặp gỡ phát sinh từ điểm giao nhau của hai con đường, ở đó cùng một Thần Khí đang hoạt động nơi mỗi người, ở đó việc đối mặt nhau ban đầu của cuộc tiếp xúc đầu tiên có thể được biến đổi, từ khía cạnh này đến khía cạnh khác, thành những người bạn cùng đi một con đường...
- Vì các lớp giáo lý trẻ em cũng như người lớn đã giúp mỗi người khám phá hay tái khám phá những nền tảng đức tin Kitô giáo, chia sẻ những vấn đề về ý nghĩa đời sống, hay học tập để trở thành người tông đồ đích thực.
2. Dám thực hiện một loan báo đầu tiên
Nhiều người đồng thời với chúng ta chưa bao giờ nghe nói về Đức Kitô và không biết Tin Mừng của Ngài. Một sổ người tỏ ra lãnh đạm hay dè dặt, vì họ không biết Ngài, số người khác được giáo dục trong một nền văn hóa khác, hay tìm kiếm Ngài mà không biết làm thế nào để gặp Ngài. “Mọi người đều có quyền nhận biết Tin Mừng” (EG, số 14). Chúng ta cần nắm bắt mọi dịp thuận tiện trong những cuộc gặp gỡ để nói, như Đức Giáo hoàng Phanxicô mời gọi chúng ta: “Đức Giêsu - Kitô yêu thương bạn, Ngài đã ban mạng sống mình để cứu độ bạn và giờ đây Ngài đang sống bên cạnh bạn mỗi ngày, để soi sáng, củng cố và giải thoát bạn” (EG, số 164).
3. Có nhiều con đường mới để loan báo Tin Mừng
Việc loan báo Tin Mừng mang tính sáng tạo! Cuộc gặp gỡ cá nhân, như sử dụng những kỹ thuật mới, những phương pháp sư phạm được canh tân, việc đề nghị thời gian cử hành, câu nguyện và gặp gỡ “khác nhau”, minh chứng lòng mong ước gặp gỡ mọi người.
Chúng ta hãy đi đến với nhừng người đã từ bỏ lòng ham thích tin tưởng... Chúng ta hãy nhớ rằng có nhiều cửa ngõ khác nhau để dẫn vào đức tin: phụng vụ, Thánh Kinh, nghệ thuật, văn chương, âm nhạc, phim ảnh... Chúng ta cũng đừng quên Internet là một phương tiện truyền thông quý giá, một cách nhân thừa những lời mời gọi.
Chúng ta hãy tạ ơn...
- Vì tât cả những khả năng này được vận dụng để loan báo Tin Mừng.
- Vì quan tâm đến niêm yết, đến thông báo nhanh gọn, xây dựng những trang mạng để dễ giúp tư vấn, hướng ra bên ngoài để cống hiến những lượng thông tin cho đời sống địa phương, tạo dịp để mọi người có thể đến với Giáo hội một cách dễ dàng.
- Vì suy nghĩ tạo sự hòa hợp giữa những trang mạng và báo chí Giáo xứ, giữa nhữne trang mạng khác nhau của cùng một toàn thể mục vụ.
MỤC IV
LOAN BÁO TIN MỪNG, ĐÓ LÀ SỐNG MỘT TÌNH HUYNH ĐỆ MỚI
1. Sống tình huynh đệ mói giữa cộng đoàn chúng ta
Vượt qua những gì chúng ta cùng nhau đã làm, chúng ta cần chú ý đến thực trạng hiện hữu của mình, đến những gì chúng ta cùng nhau trở thành, người này nhờ người kia, qua việc bổ sung ơn gọi của chúng ta.
Các cộng đoàn diễn tả ước muốn xây dựng một Giáo hội ở đó mối tình hiệp thông được lớn lên. Chắc chắn, việc tổ chức là cần thiết và quan trọng, nhưng điều quan trọng không phải là có một tổ chức hoàn hảo, mà là cách chúng ta sống tổ chức ấy, kể cả trong những bất toàn của nó, đó là đường lối Tin Mừng và thực tập nếp sống huynh đệ. Đức Giáo hoàng Phanxicô đã cảnh giác chúng ta chống lại “sự mất cá tính công việc mục vụ, khiến quan tâm nhiều đến tổ chức hơn là nhân sự” (EG, số 82).
Chúng ta thử đặt câu hỏi: Trong tất cả những gì hiện có trong lãnh vực mục vụ của chúng ta, chỗ nào có sự hiện diện của Niêm Vui Tin Mừng? Chỗ nào không có sự hiện diện của Niềm Vui Tin Mừng?
Chúng ta hãy tạ ơn...
- Vì những nhịp cầu được bắc ngang qua những cộng đoàn, những phong trào đạo đức, những phong trào tông đô của Giáo hội địa phương chúng ta,
- Vì lòng ước muốn một sự hiệp thông sống động giữa những cuộc cử hành, đặc biệt nhờ một quan tâm nhiều hơn trong thái độ tiếp đón lẫn nhau, nhờ sự biểu hiện cụ thê môi quan tâm của những người có trách nhiệm tiếp đón những người mới đến,
- Vì sự kết nghĩa giữa các khu vực, những thời gian trao đổi giữa các cộng đoàn,
- Vì sự ao ước kết dệt nhiều hơn những mối liên kết giữa các thể hệ, đặc biệt trong các hoạt động bác ái tại địa phương,
- Vì những ngày được dành cho “những người phục vụ - được mời”, nhằm tập hợp những người đang dấn thân phục vụ các cộng đoàn, giúp họ có thời gian trao đổi, bồi dưỡng, nâng đỡ nhau; nhằm quy tụ trong Giáo hội mọi người đang phục vụ cộng đoàn hay được mời gọi trở nên người phục vụ.
2. Sống tình huynh đệ mới giữa cộng đoàn
Giáo hội không sống cho mình, Giáo hội được mời gọi hiện diện trong thế giới và cho thế giới, làm dấu chỉ của niềm vui mà Thiên Chúa tặng ban trong Người Con của Ngài. Loan báo Tin Mừng, đó là một nhân bản hóa các mối tương quan của chúng ta, một sự hiện diện lắng nghe, bằng cách trình bày đức tin ngang qua chứng tá của đời sống chúng ta, bằng cách dám nói chúng ta hoạt động cho điều gì và cho ai.
“Giáo hội không lớn lên bằng chiêu dụ, nhưng bằng thu hút” (EG, số 14).
Loan báo Tin Mừng sẽ biến đổi cách chúng ta sống tương quan.
Chúng ta cũng nhận thấy mối liên hệ của các tín hữu trong đời sống thành phố, qua những dấn thân chính trị, nghiệp đoàn, hiệp hội. Sự thâm nhập của các Kitô hữu vào các hoạt động tại địa phương, nhằm phục vụ người khác, là nguồn của việc loan báo Tin Mừng.
Việc loan báo Tin Mừng đi song song với tất cả những gì có thể trở nên sự hiện diện hữu hình của Giáo hội giữa đời sống địa phương.
“Chính Chúa Giêsu là kiểu mẫu của sự lựa chọn cách rao giảng Tin Mừng này, là cách đưa chúng ta vào lòng dân chúng. Thật tốt biết bao cho chúng ta khi thấy Ngài gần gũi tất cả mọi người!... Được thu hút bởi kiểu mẫu này, chúng ta muốn thâm nhập sâu xa vào đời sống xã hội, chia sẻ cuộc sống của mọi người và lắng nghe những thao thức của họ, cộng tác với họ cả về vật chất lẫn tinh thần trong những nhu cầu của họ, vui với người vui, khóc với người khóc và dấn thân trong việc xây dựng một thế giới mới, kề vai sát cánh với người khác” (EG, số 269).
Chúng ta hãy tạ ơn...
- Vì nhiều tập thể và hiệp hội đã quy tụ được cả người Kitô hữu lẫn người không Kitô hữu,
- Vì sự hiện diện tích cực trong các khu phố, và đặc biệt trong những căn nhà tập thế,
- Vì sự tham gia của các Kitô hữu với những sáng kiến văn hóa và lễ hội địa phương,
- Vì những ngôi thánh đường với cửa mở rộng, trong những ngày hội chợ hay biến cố xã hội của địa phương,
- Vì nhiều dấu hiệu của một “mục vụ tiếp cận”, đặc biệt nhờ sự hiện diện của nhiều tiếp sức mục vụ, như ban chăm sóc bệnh nhân,
- Vì những phong trào tông đồ chú ý có mặt tại những nơi mà sứ điệp Tin Mừng trở nên xa lạ,
- Vì những dấu chỉ hữu hình của Giáo hội, qua những hoạt động bác ái - xã hội giữa thành phố và khu đông dân cư,
- Vì nhiều sáng kiến giúp mọi người cảm thấy mình được mời gọi làm “một chút nhỏ bé thuộc về chúng ta” (Thánh Têrêsa Avila).
MỤC V
LOAN BÁO TIN MỪNG, ĐÓ LÀ ĐƯỢC SAI ĐI
Theo Đức Kitô, nghĩa là đồng thời bước vào mối thân tình của Ngài và tham dự vào sứ vụ của Ngài: “Như Cha đã sai Thầy, đến lượt mình, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21).
Tình yêu của Thiên Chúa, Đấng kêu gọi chúng ta cũng là Đấng sai chúng ta đi.
“Sứ vụ là một đam mê đối với Chúa Giêsu, nhưng đồng thời cũng là một đam mê đối với dân của Ngài” (EG, số 268).
Chúng ta phải ra khỏi mình, dám giản dị trong cách diễn tả đức tin của mình, trở thành sứ giả của “một mới mẻ luôn mãi” (EG, số 11).
Trong sự vô tư hồn hậu của một đón tiếp, một cuộc viếng thăm. Chúa Thánh Thần đang hoạt động; cuộc viếng thăm là bí tích huynh đệ. Chúng ta được sai đi như những người phục vụ của Niềm Hy Vọng.
Giờ đây mỗi người chúng ta hãy viết những trang mới trong cuốn sách loan báo Tin Mừng vĩ đại này.
“Trong toàn thể đời sống Giáo hội, ta phải luôn biểu lộ răng, sáng kiến đến từ Thiên Chúa, chính “Ngài yêu thương chúng ta trước” (1 Ga 4,19) và “chỉ mình Thiên Chúa mới làm cho lơn lên” (l Cr 3,7)” (EG, số 12).
Chúa trao phó cho chúng ta Tin Mừng của Ngài. Chúng ta hãỵ đón nhận Tin Mừng ấy và hãy trở nên chứng nhân của Niềm Vui Tin Mừng.
BÀI V
MỘT CỘNG ĐOÀN GIÁO XỨ ĐƯỢC • • •
MỜI GỌI “ĐI RA”
DẨN:
Trong sổ 17 Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã đề nghị 7 điểm cho một Giáo hội đi ra:
1) Việc cải tổ Giáo hội trong việc “đi ra” truyền giáo.
2) Các cám dỗ của những người làm mục vụ.
3) Giáo hội như là toàn thê Dân Chúa truyền giáo.
4) Bài giảng và việc chuẩn bị bài giảng.
5) Việc hòa nhập vào xã hội của người nghèo.
6) Hòa bình và đối thoại trong xã hội.
7) Các động lực tinh thần cho việc truyền giáo.
Ta có thể tóm tắt những điểm trên trong bốn động từ diễn tả hành trình “đi ra” của Giáo hội. Đó là: đi ra, loan báo, phục vụ, đi đến.
- Đi ra,
- Đi ra để Loan báo,
- Đi ra để phục vụ,
- Đi ra để đến với Thiên Chúa bàng cách để cho Chúa Thánh Thần cư ngụ trong mình.
I. ĐI RA (số 49)
Đi ra không phải là một lệnh truyền mang tính chiến lược đôi với một tố chức muốn cho người ta biết đến mình, nhưng là thái độ nguyên thủy của Kitô hữu và của Giáo hội, bởi lẽ đi ra được ghi khắc trong những “gien” của Thiên Chúa chúng ta. Ngài không tự đóng khung mình trong một thứ cô lập xa xôi. Nếu mỗi Ngôi Vị trong Ba Ngôi “trút đổ tình yêu” hướng về nhau, thì Thiên Chúa đã ra khỏi trong mình. Đã có một năng động truyền giáo trong việc sai đi của Chúa Cha đối với Chúa Con, Đấng không giữ phận mình là Thiên Chúa để đến với chúng ta (P1 3).
Toàn bộ Thánh Kinh đều minh chứng sự cần thiết phải đi ra này:
Ápraham, cha của những kẻ tin đã ra đi: “Hãy ra đi, ngươi hãy rời bỏ quê hương người”. Bàn đến Ápraham về vấn đề này, đừng quên Thông điệp “Lumen fidei” do Đức Phanxicô ban hành, nhưng chính Đức Bênêđictô XVI đã soạn thảo văn kiện: đó là một suy niệm hoành tráng về đức tin.
Dân chúng bat đầu đi ra khỏi Ai Cập cùng với Môsê để thực hiện một cuộc xuất hành không bao giờ kết thúc. Thật vậy, ta có thể tự hỏi đi ra để bước vào đâu? Để định cư ở đâu? Rất đúng, Thánh Kinh đã nói với chúng ta về miền đất đã được hứa cho Apraham và cho Giacóp, nhưng lời hứa ấy đâu đã được thể hiện ngay. Miền đất ấy không bao giờ được chiếm hữu trọn vẹn và Nước Thiên Chúa chỉ được mở rộng hoàn toàn vào ngày cánh chung. Dân riêng sẽ không ngừng phải ra khỏi mọi áp chế họ thường gặp, nhất là phải vượt thoát sự lôi cuốn của các thần ngoại giáo, là những thần bảo đảm quyền lực và sự giàu sang cho các dân tộc chung quanh. Ra khỏi những thách đố của thế giới hiện nay, đòi hỏi phải nói không với một số ngẫu tượng (EG 52-60).
Chính Đức Giêsu cũng “đi ra”. Ngài ra khỏi Chúa Cha (nhiều trích dẫn từ Tin Mừng theo thánh Gioan đã nhấn mạnh cuộc xuất hành đầu tiên này của Đức Giêsu, Ngài đã ra khỏi Chúa Cha và do đó ra khỏi Thiên Chúa Ba Ngôi: Ga 8,42; 13,3; 16,27;16,28; 16, 30; 17,8). Ngài đi ra để gặp gỡ người khác: Mc 1, 15. Và nhất là, chính qua việc bước ra khỏi dòng sông Giócđanô mà trước mắt nhứng người đang mong đợi Ngài, Ngài đã đạt được căn tính NGƯỜI CON của mình. Dòng sông Giócđanô này, con sông biên giới giữa bờ bên này là Do thái, bờ bên kia là dân ngoại, giữa miền đất hứa của Thiên Chúa và vùng đất của các thần tượng; dòng sông Giócđanô này, Ngài đã bước vào như để gắn kết với những ngóng đợi lớn lao của dân Ngài và bước ra như để giữ khoảng cách hầu đáp ứng thỏa đáng những ngóng đợi ấy. Phép rửa Đức Giêsu lãnh nhận báo trước cuộc xuất hành cuối cùng của Ngài, xuất hành khỏi cải chết của ngài, nhưng đó là cuộc xuất hành không có kết điểm, vì Ngài đã sống lại trong chính tác động trao phó và hiến tặng thân mình cho kẻ khác. Vì vậy, đó là một cuộc đi ra khỏi mình mãi mãi mà Chúa dùng các bí tích để giúp ta tham dự.
Đi ra đối với Giáo hội, đó cũng là mở rộng những cánh cửa, nhưng không phải là chạy theo bất cứ hướng nào (s. 46).
“Đi ra” thích hợp “với mọi người làm mục vụ” (s.83).
Ra khỏi “tính ươn lười tê liệt” (s. 81), là một thứ virút tác hại mọi cơ chế, trước kia thì nhiều nay trở nên ít ỏi. Suy tư đầu tiên của những người làm mục vụ hệ tại ở việc củng cố hàng ngũ, thiết lập những quy ước và bảo toàn những gì còn lại. Thái độ co cụm cố hữu trên cộng đoàn, sẽ đặt những vấn đề nội bộ vào kế hoạch đầu tiên, tạo ra những xúc cảm khác nhau trong một bối cảnh cạnh tranh và cuối cùng sẽ kết thúc trong một thứ tự hủy về những gì mà ta muốn bảo vệ. “Nói không với chiến tranh giữa chúng ta” : khuynh hướng tự tập trung này của Giáo hội làm tăng phát những căng thẳng, có thể đi đến chia rẽ (s. 100). Trước mọi vấn đề đang tấn công triều đại Giáo hoàng của mình, Đức Bênêđictô XVI đã yêu cầu Giáo hội tập trung vào sứ vụ của mình bằng cách khởi động ý tưởng Tân Phúc Âm hóa đã được Đức Gioan - Phaolô II đề cao.
Đức Giáo hoàng Phanxicô nhấn mạnh đến việc thoát khỏi thái độ tự quy chiếu về mình, thường giam hãm chúng ta trong những gì ta quen làm trong cơ chế của mình, trong những ý tưởng cố hữu của mình. Phạm vi của thái độ tự quy chiếu về mình rất rộng: giáo xứ tôi sống động hơn giáo xứ bên cạnh, phong trào của tôi đạt thành tích hơn các phong trào khác, thần học của tôi chính thống hơn các thần học khác, thái độ dấn thân phục vụ của tôi chính đáng hơn các thái độ khác. Làm thế nào để không tự tập trung vào mình khi mà tất cả những gì tôi làm, đều nhận nhãn hiệu tự thỏa mãn mình của tôi đã được công bố! Và điều này thường có những hậu quả tai hại về vấn đề cộng tác và mục vụ hài hòa. “Một tâm hồn truyền giáo không bao giờ chọn cách tự vệ cứng rắn” (s. 45).
Hậu quả của tính ươn lười này là một chủ nghĩa cá nhân lớn dần, một thứ “bi quan vô bổ”, một ghen tương cay độc và nhất là không có khả năng đề cao kẻ khác (s. 78) (s. 84).
Sau hết, đó là ra khỏi tinh thần thế tục (s. 95), là tinh thần hệ tại ở việc tìm kiếm “vinh danh con người và sự thoải mái cá nhân" thay vì vinh quang Thiên Chúa: ở đây, chỉ cần để cho Lời Chúa hạch hỏi chúng ta.
II. ĐI RA ĐỂ LOAN BÁO
- Loan báo những gì: Điểu cốt yếu.
Đừng lẫn lộn mọi sự. Có những chân lý mặc khải quan trọng hơn các chân lý khác; có một loại phẩm trật các chân lý (s. 36). Vì vậy, đối với một loan báo đầu tiên, cần phải đi đến điều cốt yếu và làm giảm nhẹ nội dung đức tin, bằng cách trình bày một tổng hợp trong đó mọi điều còn lại giữ vị trí đúng đắn của mình. Thánh Augustinô (được thánh Tôma trích dẫn) đã yêu cầu không được làm cho đời sống người Kitô hữu trở nên nặng nề (s. 43). Đối với người không biết Đức Kitô, tôi sẽ không giảng về sự khác biệt giữa tội trọng và tội nhẹ.
-Ai loan bảo? (s. 111-119)
Toàn thể Dân Chúa. “‘Không ai được cứu độ một mình, nghĩa là không như một cá nhân cô lập, hay nhờ sức riêng của mình” (s. 113). Nếu ơn cứu độ phát xuất từ tình yêu Chúa Ba Ngôi, thì nó chỉ có thể được diễn tả trong một đời sống tương quan, liên kết với người khác.
Đức Giáo hoàng quen lặp lại quan niệm Dân Thiên Chúa, được hiểu như toàn thể những người đã lãnh nhận Phép Rửa mà Công đồng Vaticanô II đã nhận ra và gán cho nó tầm quan trọng. Cần trở lại Cựu Ước để khám phá ra gốc rễ tầm quan trọng của dân này. Bởi lẽ Thiên Chúa là Cha của dân Ngài: “Từ Ai cập, Ta đã dẫn đưa con Ta”. Chính người Cha này đã kề vai áp má yêu thương con mình. (Hs 11,1-9). Nơi tiên tri Hôsê, thì đó cũng là dân mà Thiên Chúa đóng vai trò làm chồng. Sau hết, đó như dân Thiên Chúa mà các dân tộc được hòa giải sẽ tập họp lại chung quanh Sion. Chính trong cùng một dân tộc, trong cùng một gia đình nhân loại mà tình yêu vô biên của Thiên Chúa muốn tập họp mọi dân nước. Và để làm cho thân thể Đức Kitô sống động giữa các dân tộc, thì cần phải có một dân được tổ chức để mọi phần tử tham dự vào sự sống và sự phát triển của nó. Cũng vậy, tôi không được cứu độ cách “đơn độc”, tôi không loan báo “một mình” bởi tôi không có độc quyền của Chúa Thánh Thần. Chỉ một dân trong toàn thể của nó mới là bí tích của Thánh Thần.
Loan báo thế nào? - bằng cách dựa vào Lời Chúa.
ở đây, Đức Giáo hoàng triển khai khá dài về giảng truyền và về giáo lý Kêrygma. Lời rao giảng được nghe như hành vi tiêu biêu của hành vi loan báo Tin Mừng, và vì vậy suy tư của Ngài liên hệ đến mọi ‘‘người làm mục vụ”, cần lưu giữ câu nói của ngài: “một nhà giảng thuyết là một người chiêm ngắm Lời Chúa, đồng thời cũng chiêm ngắm dân chúng” (s. 154) và phải có sự tổng hợp được hai thái độ chiêm ngắm ấy. “Ở đâu có sự tổng hợp của bạn, ở đấy có trái tim bạn” (s. 143). Nếu tôi không thấm nhiễm lời của Thiên Chúa và lời của dân chúng (trong một ý nghĩa nào đó, lời này cũng là lời của Thiên Chúa), thì tôi mới chỉ có thể hiện một chú giải thích Thánh Kinh tốt, chứ chưa phải là loan báo Tin Mừng.
Tại sao lại loan báo? (s. 69).
Để hội nhập văn hóa đức tin (s. 61) (s. 132).
Ở đây, ta gặp lại những điểm nhấn của Đức Phaolô VI trong Tông huấn “Evangelii nuntiandi”, vào năm 1975 ngài đã yêu cầu hãy đi tiếp cận với những “đồi Arêôpagô hiện đại”. Ngài muốn nói đến văn hóa hiện nay.
Đức tin không đơn thuần là một thứ sơn đạo đức mà ta gán cho đời sống theo tiêu chuẩn trần thế. Là Kitô hữu, nghĩa là trở thành người tin theo Đức Kitô trong mọi khía cạnh của đời sống mình, từ tư tưởng, lời nói, thái độ... cho đến cung cách đáp lại những vấn đề hàng ngày.
Đức Giáo hoàng vạch ra những thách đố của các nền văn hóa hiện nay: “thái độ dửng dưng tương đối đang lan tỏa” (s. 61); nhưng “thịnh hành xu hướng thích những gì là trực tiếp, hữu hình, hời hợt, bề ngoài” (s. 62) “hiện tượng tăng sinh nhiều phong trào đạo đức mới... xuất hiện để lấp đầy cái trống rỗng do chủ nghĩa duy lý tục hóa để lại” (s. 63).
Một thách đố khác: các nền văn hóa đô thị đang cần những không gian gặp gỡ và cầu nguyện hơn là các nền văn hóa khác.
Trái lại, không một nền văn hóa nào có thể tự phong cho mình có độc quyền kết bạn với Tin Mừng của Đức Kitô. Mọi nền văn hóa đều là chủ thể cần phải hoán cải. Không một nền văn hóa nào nắm độc quyền thông truyền tin. Mỗi nền văn hóa đều có những hạt mầm của Ngôi Lời và những phiến đá đợi chờ; và mỗi nền văn hóa có thể phong phú hóa các nền văn hóa khác, nhớ một khía cạnh Tin Mừng mà nó mang trong mình cách tỏa sáng. Và điều đó đúng thật đối với các Giáo hội, các tôn giáo khác như Do thái giáo và Hồi giáo (s. 247) (s. 252).
Một vị trí quan trọng được dành cho các nền văn hóa bình dân (s. 124), là những nền văn hóa đã cống hiến nhiều màu sắc khác nhau, đôi khi rất bản địa cho nội dung đức tin (s. 122). Nền “văn hóa của những người đơn sơ” này được diễn tả bằng “con đường biểu tượng hơn là sử dụng lý trí” (s. 124). Vì thế, có người đã phát biểu: “Nếu muốn biết Đức Maria là ai, bạn hãy hỏi nhà thần học; nhưng nếu muốn biết phải yêu mến Ngài thế nào, bạn chỉ cần hỏi bà nội của bạn”.
Tất cả những điều đó không có thể hiểu được, nếu không có một cuộc đối thoại giữa xã hội dân sự và tôn giáo: “một thứ đa dạng đơn lành... (s. 255)”, không cần một nghiên cứu luôn mới mẻ của các nền văn hóa hiện đại.
III. ĐI RA ĐỂ PHỤC VỤ
(đặc biệt hơn đối với những người nghèo và hòa bình)
1. Phục vụ xã hội và những ngưòi nghèo.
Cần nhắc lại một nguyên tắc: “Kêrygma chắc chẳn có một nội dung xã hội” (s. 177). Chúng ta đã nhận thấy, lời loan báo đầu tiên có nguồn gốc của mình trong Thiên Chúa Ba Ngôi. Và Thiên Chúa Ba Ngôi thiết lập mối liên hệ thiết yếu giữa tuyên xưng đức tin và sống tương quan với người khác. Và tình yêu này chỉ có thể được chuyển dịch nhờ sự lo lắng đầu tiên đến việc thăng tiến và phát triển con người, đến việc phục vụ xã hội. “Ta không còn có thể nói rằng, tôn giáo phải được giới hạn trong lãnh vực tư riêng và chỉ tồn tại để chuẩn bị cho các linh hồn trên trời” (s. 182).
Nắm vững nguyên lý này và đương đầu với nền văn hóa hoàn cảnh của xã hội chúng ta, Đức Giáo hoàng công bố ba từ “Không”.
- “Nói không với nền kinh tế loại trừ” (s. 53) và chỉ đua tranh nhân danh giới răn ngươi không được giết người”, bởi có “một nền kinh tế giết hại” và do đó phát sinh một nền kinh tể “coi người là rác rưởi”, đến nỗi con người chỉ còn là một sản phẩm tiêu thụ như bất cứ một sản phẩm nào khác.
- “Nói không với một thứ thần tượng mới là tiền bạc” (s. 55). Tiền bạc thần thánh hóa thị trường và gây ra sự loại trừ này là: “Ta không thể còn tin tưởng vào những lực lượng mù quáng và bàn tay vô hình của thị trường nữa” (s. 204).
- “Nói không với tiền bạc thống trị thay vì phục vụ” vì điều đó đã loại trừ nền tài chánh đạo đức (s. 57).
Ta nên lặp lại những lời trong Thánh vịnh 13: “Khi họ ăn bánh của họ, là họ ăn dân Ta”.
Những phủ nhận này ngài công bố lên không như một kết án thế giới, nhưng nhân danh cái nhìn tích cực về thế giới mà con người cư ngụ trên đó: “chúng ta yêu mến hành tinh tráng lệ này” (s. 183).
Tông huấn “Evangelii gaudium” sẽ nhấn mạnh đặc biệt hơn đến mối quan tâm lo lắng cho người nghèo, khi nhắc nhở đến sự quan tâm chú ý đặc biệt hơn của Chúa Giêsu đối với họ và thái độ lột bỏ mình của Đấng, tuy giàu sang về thiên tính, đã trở nên nghèo khó vì chúng ta. Có một liên kết nội tại giữa sự nghèo khó và việc loan báo Tin Mừng. “Ngài đã trở nên giống con người” P1 2, 2; 2 Cr 8, 9 “Ngài đã trở nên nghèo khó, để chúng ta được giàu sang nhờ sự nghèo khó của Ngài”.
“Đối với Giáo hội, việc tuyển chọn người nghèo là một phạm trù thần học, trước khi thuộc loại văn hóa, xã hội, chính trị hay triết học” (s. 198). Và việc tuyển chọn này đối với người nghèo sẽ đi đến tình trạng, ta để cho họ Phúc Âm hóa ta, bởi họ chia sẻ đời sống của Đức Kitô chịu đau khổ (id).
Giữa những người nghèo, Đức Giáo hoàng nêu lên những người có đời sống bấp bênh nhất: những di dân (s. 201), những người đang là đối tượng của thái độ đối xử ác độc (s. 211), những phụ nữ đang chịu khổ gấp đôi, bởi không được bảo vệ, những trẻ em cần được sinh ra, những loại động vật mà ta đang tiêu diệt (s. 209-216).
2. Phục vụ hòa bình xã hội
Khi đề cập đến chương về hòa bình xã hội là kết quả chiều kích xã hội của Đức tin, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nêu lên bốn nguyên tắc có thể soi sáng cho mọi chính sách và mọi công cuộc đổi thoại xã hội (s. 238). Ở đây, suy tư của vị tu sĩ dòng Tên hướng đến tầm mức triết lý và đặt cuộc bàn thảo ở mức độ cao của một cái nhìn toàn diện về con người và xã hội. Tuy nhiên, những nguyên tẳc này vẫn có giá trị ở cấp độ của mọi cộng đoàn con người, tôn giáo hay dân sự.
(số 222): Thời gian quan trọng hơn không gian.
Đối với các tu sĩ dòng Tên, việc đang xây dựng con người đòi hỏi kỳ hạn lâu dài và cần có thời gian để phân định. Những người xây dựng các đại thánh đường phải làm việc lâu dài, những người xây dựng các siêu thị thời hiện đại mất ít thời gian hơn. Xây dựng một dân tộc, một con người, một Kitô hữu, một cộng đoàn đều phải dựa vào một khoảng thời gian. Một thay đổi nhanh và đột ngột những thói quen của một cộng đoàn mà hủy bỏ một tiến trình có suy nghĩ và chín mùi, được coi là sự độc đoán của lãnh đạo và sẽ không mang lại sự gan kết sâu xa. Có một mục vụ chiếm đoạt không gian kể cả không gian trung hòa, cũng có một mục vụ cần thời gian lâu dài: tôi xây dựng những gì cho thời gian “sau tôi”?
(số 226) Hợp nhất thắng xung đột.
Tham chiếu Cv 15 “Hợp nhất không nhắm vào chủ nghĩa phối hợp, hoặc sự thu hút của một phe vào một phe khác, nhưng nó nhằm vào một giải pháp cao hơn mà vẫn giữ được những khả năng quý giá của những đa cực trái ngược nhau” (s. 228). Sự hợp nhất không phải là sự thỏa hiệp đến những gì tối thiểu, nhưng là tổng hợp mới nhờ trên cao. Nó không phủ nhận xung đột, nhưng chấp nhận xung đột để không phải thiếu vắng những của cải được chứa đựng trong lập trường đối nghịch. Tôi có thể sử dụng nhiều phương tiện để làm câm miệng đối phương, nhưng làm điều đó, tôi loại bỏ phần chân lý thuộc về họ.
- (số 231) Thực tại quan trọng hơn ý tưởng.
Ý tưởng tách rời khỏi thực tại tối đen trong thái độ phô trương và điều này xảy ra trong lãnh vực đức tin cũng như trong lĩnh vực chính trị. Và Đức Giáo hoàng tổ giác những ảo tưởng trong đó chúng ta cảm thấy vui thú, đôi khi trước cả lúc thực tại chặn bắt chúng ta và có thể bằng cách đau thương. Nếu tôi đề cập đến một sứ vụ với một lược đồ được ấn định trước đã thành công trong những hoàn cảnh khác, mà không cần phải vất vả nghiên cứu nghiêm túc, thì thực tại mới mà tôi phải đương đầu, tôi có nguy cơ xây dựng một xã hội hay một giáo hội lý tưởng nhưng không hiện hữu. Con người (bởi vì nó là bùn đất, nên luôn lắm lem đôi chút) luôn chống lại ý tưởng thuần túy của các phần thí nghiệm xã hội hay chính trị, thường ngạc nhiên trước tình trạng con người có thể nói không với hạnh phúc đã được tiền định mà ta đã soạn thảo thay con người.
(số 234) Sau hết toàn thể lớn hơn từng phần.
Toàn thể lớn hơn từng phần và hơn tổng số những từng phần. Tông huấn Evangelii Gaudium biện hộ để sự toàn cầu hóa và địa phương hóa được kết hợp hài hòa với nhau. Tông huấn đưa ra một hình cầu nhiều mặt, ở đó mỗi yếu tố đều tháp nhập trong toàn thể mà không từ bỏ mình, trái ngược với hình cầu buộc phải bước vào trong khuôn mẫu. Toàn thể lớn hơn từng phần, khi toàn thể sáp nhập mọi khía cạnh của từng phần. Nghĩ toàn thể thế nào được khi để ý đến mọi bộ phận. Tổng số những khác biệt thì phong phú hơn, giá trị hơn một toàn bộ những nguyên khối. Thân thể là một cấu kết những chi thể khác nhau và không chỉ là tổng số những chi thể. Đức Bênêđictô XVI nói rằng, Giáo hội là một cơ chế, chớ không phải là một tổ chức.
IV. ĐI RA ĐỂ ĐẾN VỚI THIÊN CHÚA, BẢNG CÁCH ĐỂ CHO CHÚA THÁNH THẦN CƯ NGỤ TRONG MÌNH
Tông huấn “Niềm vui Tin Mừng” lấy lại những điểm nhấn của Tông huấn “Loan báo Tin Mừng”, khi Tông huấn này đặt vai trò của Chúa Thánh Thần vào trung tâm công cuộc loan báo Tin Mừng và làm cho người truyền giáo trước hết phải là một người chiêm niệm. Chiêm niệm Chúa Thánh Thần trong Tin Mừng (s. 264), được trao ban cho chúng ta nhờ việc năng lắng nghe Lời Chúa (s. 174) và cầu nguyện. “Giáo hội không thể sống mà không có lá phổi của cầu nguyện” (s. 262). Cũng chiêm niệm Chúa Thánh Thần trong “hoạt động nhiệm mầu của Chúa Phục sinh”, Đấng hoạt động như hạt giống trong bóng tối, mà họa hoằn ta mới có thể nhìn thấy hoa trái đang ngóng đợi, nhưng Ngài làm cho mỗi ngày “trong thế giới tái sinh vẻ đẹp có sức phục sinh, biến đổi nhờ những thảm kịch của lịch sử” (s. 276). Từ “người môn đệ-truyền giáo” theo kiểu nói của Đức Giáo hoàng, ta có thể nói ràng đó là người theo sát và đi ra, nhưng với điều kiện họ đừng bao giờ quên, có Chúa Thánh Thần đi trước họ. Không có sự xác tín này làm nguồn mạch cho việc cầu nguyện của mình, họ chỉ là một người dàn dựng hay hơn thế là một người thông truyền. Họ cần phải phân định hoạt động của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống đang không ngừng tái sinh từ mọi cuộc chiến, thảm họa, thương tích, phản bội, và bỏ rơi, sự sống này trổi dậy mọi buổi sáng, trong khi đó có thể nại mọi lý do đế ở lại bên vệ đường, Chương này bàn về “những lý do thiêng liêng cho trách vụ truyền giáo” có thể là điều kiện tiên quyết của toàn thể Tông huấn.
KẾT:
Làm thế nào mà khi rời khỏi bản văn này ta lại không cảm thấy một chút hối lỗi vì thái độ thiếu nhiệt tình của ta, vì tình trạng khô khan, trì trệ, uể oải của ta? Làm thế nào mà ta lại không cảm thấy một chút ngọt ngào của năng lực tràn trề, sự nhiệt thành hầu như tươi trẻ của Đức Giáo hoàng chúng ta? “Tôi rất ước ao tìm được những lời lẽ để khích lệ một mùa rao giảng Tin Mừng cách nhiệt thành, vui tươi, quảng đại, can trường, tràn đầy tình yêu và dạt dào sự sống truyền cảm” (s. 261).
Để khỏi bị tê liệt vì tình trạng tội lỗi hay bị chai lỳ trước bao tiếng mời gọi, ta nên nhắc nhở mình tựa đề của Tông huấn: Niềm vui. “Hỡi Maria, bà hãy vui lên”, hỡi Kitô hữu, bạn hãy vui lên trong sự kém hiểu biết, trong sự tầm thường buồn tẻ của đời sống hằng ngày, bạn cộng tác vào việc sinh ra một thế giới mới. Và nếu đến lúc bạn phải tự hỏi mình như Đức Giêsu, nếu Đức tin không biến mất khỏi thế gian này, thì vẫn luôn có những người Samaria, sẽ đi múc nước và một ai đó sẽ chờ đợi họ để mặc khải cho họ cơn khát, mà chỉ có nguồn suối Thánh Thần mới có thế giải khát họ. Vậy, bạn hãy ở lại trong niềm vui!
Ta không rao giảng Tin Mừng trong thái độ cay chua, oán thù, chê bai. Chắc chắn, người Kitô hữu có một lời để nói, một chứng tá cần mang đến. Họ không im hơi lặng tiếng. Họ không phải là con chó câm. Nhưng họ không cần phải sủa, phải tỏ vẻ dữ tợn hay rút gươm ra ngay lập tức. Phêrô đã phải đút gươm vào vỏ. Ta không rao giảng Tin Mừng với vẻ cà khịa! Ta không rao giảng một Thiên Chúa là Cha mọi người mà lại coi người khác là đồ ngu xuẩn, như những kẻ đào mồ chôn nền văn minh hay như những tên dối trá! Ta rao giảng Tin Mừng cách tươi vui, vì biết rằng Cha chúng ta yêu thương hết mọi người để cống hiến cho họ ơn cứu độ của Ngài.
Sau hết, ta cũng nên nhớ rằng, chính Đức Giáo hoàng, đã V giới thiệu ngài là kẻ có tội, cần nhờ lời cầu nguyện của chúng ta nhưng tình trạng tội nhân không ngăn cản chúng ta bước đi. Vậy chúng ta hãy đi ra!
Cha Gioan Casanave.
BÀI VI
THOÁNG NHÌN TÔNG HUẤN
NIỀM VUI TIN MỪNG
“ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ MỜI GỌI GIÁO HỘI HÃY LOAN BÁO TIN MỪNG CÁCH TƯƠI VUI!”
Chúa Nhật, ngày 24/11/2013, Lễ trọng Chúa Kitô Vua vũ trụ, Đức Giáo hoàng Phanxicô khi kết thúc Năm Đức Tin, đã trao tặng những bản mẫu của Tông huấn “về việc loan báo Tin Mừng trong thế giới hiện nay” cho 36 vị đại diện của dân Thiên Chúa, đang hiện diện tại quảng trường Thánh Phêrô, tại Rôma:
- Một giám mục Lettonie,
- Một linh mục Tanzanie,
- Một phó tế thuộc châu Úc mới được truyền chức,
- Một gia đình,
- Các tu sĩ,
- Các giáo lý viên,
- Một chủng sinh,
- Những người phụ trách các phong trào,
- Một nữ họa sĩ Ba Lan,
- Một điêu khắc gia Nhật Bản (đang làm việc tại Sagrada Familia de Barcelone),
- Hai nhà báo.
Một cách nói lên tính phổ quát của Giáo hội được mời gọi luôn canh tân NIỀM VUI LOAN BÁO TIN MỪNG của mình, bước đi trên những nẻo đường nhân loại của chúng ta cùng với Đức Giêsu...
Và Thứ Ba tiếp theo, ngày 26/11/2013, sứ điệp tốt đẹp và quan trọng này được phổ biến.
“Hãy gieo NIỀM VUI CỦA CHÚA PHỤC SINH trong đức tin của chúng ta”.
Đức Giáo hoàng Phanxicô đã cầu nguyện như thế trong Thông điệp “Ánh sáng đức tin” (ngày 05/7/2013).
Câu cuối trong Thông điệp dội vang sang Tông huấn “Niềm vui Tin Mừng”:
“Niềm vui Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và toàn thể đời sống của những người gặp gỡ Chúa Giêsu. Những người để cho mình được Ngài cứu độ, được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn sầu, trống rỗng nội tâm và cô lập. Với Chúa Giêsu, niềm vui sinh ra và luôn được sinh lại. Trong Tông huấn này, tôi mong muốn ngỏ lời với các tín hữu Kitô giáo để mời gọi họ bước vào một giai đoạn loan báo Tin Mừng mới, được đánh dấu bằng niềm vui này và vạch ra những con đường cho cuộc hành trình của Giáo hội trong những năm sắp tới” (s.l).
Từ những dòng đầu tiên của Tông huấn - xem ra như một chương trình hành động - Đức Giáo hoàng mời gọi tất cả chúng ta hãy tìm gặp lại “niềm vui thú được trở nên một dân có khả năng sống và làm chứng cho tình yêu của Đức Giêsu, Đấng cứu độ chúng ta”.
1. Loan báo Tin Mừng là sứ vụ của toàn thể Dân Thiên Chúa
Mọi người đã chịu Phép Rửa đều trực tiếp liên hệ trong việc loan báo và làm chứng cho tình yêu thương xót của Thiên Chúa, Đấng đã đi gặp gỡ mỗi người. Là thành phần của Giáo hội Dân - Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều được mời gọi đặt bước chân của mình trong bước chân của Đức Kitô. Do đó, Giáo hội phải “đi gặp gỡ những người con xa cách, đi đến những ngã ba đường để mời gọi những người bị loại bỏ. Ước muốn của Giáo hội là trình bay LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA thật vô tận .
“Tin Mừng mời gọi chúng ta luôn nhanh nhẹn dấn thân gặp gỡ khuôn mặt của người khác, sự hiện diện thể lý của họ đang chất vấn ta, những đau khổ và những yêu cầu của họ, niềm vui lây lan của họ trong một tương quan thường xuyên sát kề” (s. 24).
Sứ vụ loan báo Tin Mừng không chỉ dành riêng cho một số người “ưu tuyển”. Mọi người đều được mời gọi làm chứng cho lòng thương xót theo ơn gọi, tài năng và phương tiện của mình.
Chứng tá này đòi hỏi, về phía Kitô hữu “một mở rộng thật sự”.
Phải hiểu sự mở rộng thể nào? Khi lặp lại tư tưởng của Đức Phaolô VI (trong thông điệp “Ecclesiam Suam” của ngài, năm 1964 và Đức Gioan - Phaolô II, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã viết: “Cần phải đứng vững trên những xác tín sâu xa nhất của mình, với một căn tính sáng sủa và vui tươi”, điều đó giúp ta “luôn mở đến những xác tín của người khác, để hiểu rõ những xác tín ấy, khi biết chắc rằng cuộc đối thoại có thể trở nên một nguồn phong phú hóa mỗi người” (s. 32).
Cuộc đối thoại được hiểu như thế (và liên hệ đặc biệt đến khoa học, phong trào đại kết và mối tương quan với các tôn giáo không phải Kitô giáo) là một đóng góp đầu tiên cho hòa bình.
Để bước vào con đường này, Đức Giáo hoàng chỉ định một “hoán cải mục vụ”, nghĩa là phải vượt qua từ một quan điếm quan liêu bàn giấy thiếu năng động và mang tính hành chánh, đến một cái nhìn về truyền giáo, ở đó mục vụ phải nằm trong tình trạng thường xuyên cần xem xét lại” (s. 25).
Những thói quen phát sinh từ nguyên tắc “ta vẫn luôn làm như thế”, có nguy cơ biến đổi các Kitô hữu thành “những xác ướp của bảo tàng viện”, trong khi đó những năng lực của họ cần phải luôn được đổi mới dưới ánh sáng của Tin Mừng.
Nếu những cải tổ cần phải được nhắm đến, là để cổ vũ “một dấn thân thật sự nhằm vận dụng Tin Mừng vào công cuộc biến đổi xã hội” (s. 26). Các Kitô hữu không bao giờ được khép kín trên mình, trên những gì tự nhận là chắc chắc của mình, để có nguy cơ gạt bỏ và gây nản lòng những người thấp kém, và trở thành một “Giáo hội mang tính trần thế được che phủ trong vẻ thiêng liêng mục và mục vụ” (s. 96).
Cần chống lại những cơn cám dỗ này và cống hiến chứng tá của sự hiệp thông giữa mọi người đã chịu Phép Rửa là tín hữu của Đức Kitô. Do đó, Đức Giáo hoàng chỉ thị đồng bộ cần thăng tiến những ơn gọi linh mục, phó tế, tu sĩ và xúc tiến việc giáo dân hoạt động trong các cơ quan có quyền quyết định, đặc biệt cần công nhận và phát triển “những quyền hợp pháp của phụ nữ” (s. 99).
Vả lại, xem ra ngài muốn thực hiện ngay, một cải tổ Giáo triều Rôma mà người ta đang chờ đợi một hướng dẫn mang tính tập thể hơn, bằng cách dành quyền tự trị nhiều hơn cho các Hội đồng các Giám mục. Mỗi người được mời gọi tự minh chứng mình đang “can đảm và sáng tạo trong bổn phận suy xét lại những mục tiêu, cơ cấu, phong cách, không bị cấm đoán không sợ hãi, trong một phân định mục vụ khôn ngoan” (xem Chương I,“Sự biến đổi truyền giáo của Giáo hội”, số 19-49).
2. Đức Giáo hoàng công nhận bưóc hoán cải này không dễ dàng. Nó giả thiết “cần một hiến thân mình”.
Rốt cuộc, “một Giáo hội bị tai nạn, bị thương tích và bị nhơ nhớp vì đi ra đường, lại tốt hơn một Giáo hội bệnh hoạn vì khép kín và vì tiện nghi bám chặt vào những an toàn riêng tư mình”. Và ngài quả quyết, nhưng đó lại là con đường của Niêm vui và ngài kêu gọi hãy đặt Đức Kitô vào trung tâm mọi sự, hãy để cho gương sáng của Đức Trinh Nữ Maria tác động hãy đón nhận hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng là sức mạnh cách tân đầy âu yếm và yêu thương”.
“Lý do thứ nhất để loan báo Tin Mừng là tình yêu của của Giêsu mà ta đã lãnh nhận”.
“Chúa Giêsu muốn những người loan báo Tin Mừng, không chỉ loan báo Tin Vui qua lời nói, mà nhất là với đời sống của mình được sự hiện diện của Thiên Chúa biến đổi” (s. 264).
Đó là điều Đức Giáo hoàng Phaolô VI cũng đã mời gọi chúng ta trong Tông huấn “Loan báo Tin Mừng” năm 1975 của ngài cho công cuộc loan báo Tin Mừng thế giới hiện nay (s. 12).
Từ xác tín này, có thể rút ra ít là hai chỉ dẫn cho một hoạt động mục vụ nhằm cống hiến cho hoạt động loan báo Tin Mừng một chiều kích xã hội. “Nếu chiều kích này không được nhận biết cách rõ ràng, thì có nguy cơ ta đã làm biến dạng ý nghĩa đích thực và trọn vẹn của sứ vụ loan báo Tin Mừng” (s. 176).
- Chỉ dân mục vụ thứ nhất thuộc phạm vi xã hội là “hòa nhập người nghèo vào xã hội”.
Đức Giáo hoàng nói, Giáo hội, ngang qua công cuộc “Tân Phúc Ảm hóa” phải “cộng tác để giải quyết những nguyên nhân công cụ của sự nghèo khó và để cổ vũ sự phát triển toàn diện những người nghèo” và trước hết để thể hiện '"những nghĩa cử giản đơn và thường ngày của tình liên đới trước nỗi đau thương cụ thể đang hiện diện mọi ngày trước mắt chúng ta” (s. 188, 198, 200).
Nếu việc tuyển chọn đầu tiên đối với người nghèo cần phải được thực hiện, thì cũng đừng quên ràng, trước hết việc chọn lựa ấy là “một quan tâm thiêng liêng và tôn giáo” đối với những người đang có nhu cầu nhất và nhu cầu quan tâm lại là một trống rỗng thiêng liêng, về đề tài này, chúng ta nên ghi nhận lời giải thích của Đức Giáo hoàng “những cánh cửa của các bí tích không được đóng. Như thế, bí tích Thánh Thể không là một phần thưởng dành cho những người hoàn hảo, nhưng là một phương thuốc hiệu nghiệm và một của ăn bổ dưỡng cho những người yếu đuối. Những xác tín này cũng có những hiệu quả mục vụ mà ta được mời gọi xem xét với thái độ khôn ngoan và can đảm” (s. 40).
Đức Giáo hoàng mạnh mẽ yêu cầu hãy quan tâm đến hoàn cảnh các di dân và đả kích những hình thức nô dịch mới.
“Những người đang bị giết mỗi ngày trong những xưởng máy bí mật nhỏ bé, trong những ô mãi dâm, những trẻ em bị sử dụng để ăn xin và những người lén lút làm việc vì tình trạng bất hợp lệ... hiện đang ở đâu? Ta không bị mắc lừa sao, có nhiều sự đồng lõa?
Đàng khác, với thái độ nhấn mạnh, ngài cũng nhẳc nhở đến bổn phận phải bảo vệ cách không mập mờ sự sống của con người, từ khởi sự cho đến kết thúc, cũng như phẩm giá của mọi người đang sống động (s. 213).
Chi dẫn quan trọng thứ hai, đó là ba tiếng “Không” với nền kinh tế loại trừ, với ngẫu tượng tiền bạc thống trị thay vì phục vụ, với những bất bình đẳng phát sinh bạo lực, khi con người không còn là trung tâm của hoạt động kinh tế nữa.
Một số trích dẫn rút ra từ chương 2 và chương 4 của Tông huấn: “Trong sự khủng hoảng của dấn thân cộng đoàn” (s. 52- 75) và “Chiều kích xã hội của công cuộc loan báo Tin Mừng” (đặc biệt các số 217 đến 237: “Công ích và hòa bình xã hội”).
v “Chúng ta phải nói không với một nền kinh tế loại trừ và tình trạng bất bình đẳng xã hội”.
v “Ta không thể chịu đựng được nữa trước tình trạng lương thực bị vứt bỏ, trong khi nhiều người đang đau khổ vì đói ăn”.
v “Chúng ta đã khởi động nền văn hóa cặn bã”. “Một nền kinh tế giết hại”.
v “Ngày nay, tất cả đang bước vào trò chơi cạnh tranh và luật của những người mạnh hơn, ở đó người có quyên lực “thịt” được cả những người khỏe nhất (...).
Người ta coi con người như một đồ vật tiêu thụ mà họ có thể sử dụng rồi sau đó vứt bỏ (...).
Một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng này, đó là trong tương quan mà ta đã thiết lập với tiền bạc, ta chấp nhận cách thản nhiên ưu thế tiền bạc trên chúng ta và trên xã hội chúng ta.
Cuộc khủng hoảng tài chánh mà ta trải qua làm cho chúng ta quên rằng, từ nguồn cội, nó đã đã có một cuộc khủng hoảng về nhận loại học sâu xa: sự phủ nhận quyền ưu việt của con người (...). Thái độ tôn thờ con bò vàng xưa kia (Xh 32,1-35) đã gặp được một phiên bản tàn nhẫn trong việc sùng bái tiền bạc và trong thái độ độc quyền kinh tế không dung mạo... Nói không với tiền bạc điều khiển thay vì phục vụ.
Với thái độ rất khiêm tốn và hiện thực, Đức Giáo hoàng Phanxicô, khi hưởng nhớ những việc làm của Thượng Hội đồng Giám mục về “Tân Phúc Âm hóa”, được diễn ra từ ngày 7 đến 28 tháng 10 năm 2012 tại Rôma, đã cưu mang Tông huấn này: “Niềm vui Tin Mừng”, “Niềm vui loan báo Tin Mừng”.
Ngài nói, chủ đề rất bao la, cần phải tiếp tục quan tâm đào sâu chủ đề này. Và ngài nói thêm, “Tôi cũng không tin rằng, người ta phải chờ đợi huấn quyền Giáo hoàng một lời chung cuộc và trọn vẹn về mọi vấn đề liên quan đến Giáo hội và thế giới. Thật là không thích hợp cho Giáo hoàng phải thay thế cho hàng Giám mục địa phương trong sự phân định mọi vấn đề xảy ra trên lãnh thổ của họ. Theo chiều hướng này, tôi cảm thấy cần phải phát triển trong một “tản quyền bổ ích”.
Bởi vì sứ điệp này, được viết với một ngôn ngữ sáng sủa, không mang tính hùng biện cũng không ngụ ý là một sứ điệp hòa bình, nó thông truyền trong ta Niềm Vui, thanh tẩy cái nhìn trong ta để ta có thế khám phá ra trong thế giới của mình những dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Đức Giáo hoàng Phanxicô, với tiếng nói vừa đầy nghị lực vừa giản đơn, đã nhắc nhở chúng ta mầu nhiệm trọng tâm của đức tin chúng ta: “Chúng ta đừng xa lánh sự phục sinh của Chúa Giêsu, chúng ta đừng bao giờ bỏ cuộc, điều gì xảy đến sẽ đến!” (s. 83).
BÀI VII
SỐNG NIỀM VUI TIN MỪNG
MỤC I
RA KHỎI MÌNH ... ĐỂ ĐẾN VỚI NGƯỜI KHÁC
Với Tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng”, Đức Giáo hoàng Phanxicô mời gọi Giáo hội cần từ bỏ những quan tâm chỉ tập trung trên mình, để gặp gỡ những nhu cầu của thế giới chúng ta trong một năng lực truyền giáo mới.
Nhờ kiểu nói mạnh mẽ và trực tiếp của mình, ngài mời gọi toàn thế Giáo hội và mỗi người trong chúng ta hãy canh tân mối tương quan của mình với Chúa Giêsu và Lời của Ngài, hãy từ bỏ những quan tâm đến cá nhân và đời sống tiện nghi của mình và hãy mở lòng đến những nhu cầu của người nghèo và những người yếu kém. Tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng” hết sức thẳng thắn đề cập đến những gì chưa đi vào trong thế giới, trong Giáo hội và trong chúng ta. Đức Giáo hoàng Phanxicô, chịu ảnh hưởng sâu đậm của linh đạo thánh Inhaxiô, đã muốn hướng dẫn chúng ta từ tình trạng “sầu khổ”, với những bóng tối bên trong và u buồn, đến “nguồn an ủi”, với niềm vui và bình an bên trong của tâm hồn. Một số bản văn nhằm gợi hứng cho chúng ta, trong những tuân lễ của Mùa Xuân, một suy tư cá nhân để chia sẻ.
- Niềm Vui Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và toàn thể đời sống của những người gặp gỡ Chúa Giêsu. Những người để cho mình được Ngài cứu độ, được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn sầu, trống rỗng nội tâm và cô lập. Với Chúa Giêsu, niềm vui sinh ra luôn được sinh lại. Nỗi buồn sầu vô biên của chúng ta chỉ được chữa trị bằng tình yêu vô biên (NVTM 1).
- Sự sống tăng trưởng khi nó được cho đi và sẽ bị yếu dần khi ta sống cô lập và tìm thoải mái. Thật vậy, những người sử dụng cuộc đời mình ích lợi nhất là những người gạt sự an toàn của mình sang một bên và mải mê với sứ vụ thông truyền sự sống cho người khác... Sự sống đạt được và trưởng thành tùv theo mức độ nó được trao hiến để mang lại sự sống cho kẻ khác. Cuối cùng, đó là chính sứ vụ (10).
- Nguy cơ lớn nhất của thế giới hiện nay, với sự cống hiến nhiều hình thức tiêu thụ và áp đặt của nó, là một nỗi buồn cá nhân đến từ tâm hồn tự mãn và keo kiệt, từ sự tìm kiếm bệnh hoạn những thú vui phù phiếm, từ lương tâm bị cô lập. Khi đời sống nội tâm bị đóng khung trên những lợi ích riêng mình, sẽ không còn chỗ cho người khác, những người nghèo không có lối vào, ta không còn nghe được tiếng nói của Thiên Chúa nữa, ta cũng không còn được hưởng niềm vui dịu ngọt của tình yêu Ngài, lòng nhiệt thành làm việc thiện không còn sinh động. Ngay cả các tín hữu chắc chắn và thường xuyên cũng gặp nguy cơ này. Nhiều người không chống đỡ nổi đã biến thành những người bất mãn, bất bình và không còn sức sống. Đó không phải là sự chọn lựa một đời sống xứng đáng và trọn vẹn, đó không phải là ước muốn của Thiên Chúa đối với chúng ta, đó không phải là đời sống trong Chúa Thánh Thần, phát xuất từ trái tim Chúa Kitô phục sinh (2).
- Nếu chúng ta không cảm thấy ước muốn thông truyền mạnh, thì cần phải dành thời gian trong lúc cầu nguyện, xin Ngài đến lôi cuốn chúng ta. Hằng ngày, chúng ta cần khẩn cầu, nguyện xin Ngài ban ơn mở rộng tâm hồn lạnh giá chúng ta và khởi động nếp sống khô khan hời hợt của chúng ta.
VẤN TÂM
· Tư cách và thái độ nào đang nắm ưu thế trong đời sống của tôi? Niềm vui được Thiên Chúa yêu thương, một ước muốn làm điều thiện, nhận biêt các ân huệ của Chúa mỗi ngày? Hay phủ đây sầu buồn, cô đơn và trống rỗng?
· Mỗi ngày, tôi có nỗ lực sống cách chăm chú và ý thức? Hay tôi để cho những lo lắng vô ích hay những quyến rũ phù phiếm của đời sống lôi cuốn?
MỤC II
CÁC CÁM DỖ CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ ĐỨC KITÔ HÔM NAY
Những cám dỗ Đức Giêsu đương đầu: tìm kiếm sự thỏa mãn, thành công và quyền lực; những điều tìm kiếm này cũng là những cám dỗ của mỗi người chúng ta và của Giáo hội. Chúng có thể mang những hình thức khác nhau, theo những bối cảnh văn hóa và hoàn cảnh cá nhân. Đức Giáo hoàng Phanxicô lưu ý chúng ta về những cám dỗ mà hiện nay những người đã tận hiến đời mình cho Nước Thiên Chúa thường gặp, đó là: một tinh thần thế tục, một tình cảm thất bại, một não trạng quản trị những vấn đề thực hành.
Vấn đề không phải là hành động thái quá, nhưng là những hành động không được thể hiện tốt, không có những lý do phù hợp, không có một linh đạo thấm nhuần hoạt động và làm cho hoạt động trở nên đáng yêu thích. Từ đó các nhiệm vụ làm cho ta mệt mỏi quá đáng, đôi khi làm cho ngã bệnh. Đó không phải là một sự mệt mỏi thanh thản, nhưng căng thẳng nặng nề, không thỏa mãn, và cuối cùng không thể chịu nổi (EG 82).
Nền văn hóa truyền thông và một số môi trường trí thức, đôi khi lại chuyển tải một sự ngờ vực đáng kể đối với sứ điệp của Hội thánh và một sự vỡ mộng nào đó. Kết quả là, nhiều người hoạt động mục vụ, ngay cả khi họ cầu nguyện, phát triển một thứ mặc cảm tự ti, dẫn họ đến việc tương đối hóa hoặc che giấu căn tính Kitô giáo và những xác tín của họ... Họ không hài lòng với những gì họ đang có và những gì họ đang làm, họ không cảm thấy mình được đồng hóa với sứ vụ loan báo Tin Mừng, và điều này làm suy yếu thái độ dấn thân. Cuối cùng, họ bóp nghẹt niềm vui sứ vụ bằng một thứ ám ảnh để trở nên như mọi người khác và để có những gì người khác có (EG 79).
Chủ nghĩa tương đối thực tế này hệ tại ở việc hoạt động như thể không có Thiên Chúa, ở việc quyết định như thể không có người nghèo, ở việc mơ ước như thể người khác không có, ở làm việc như thể mọi người không đón nhận việc loan báo là không hiện hữu... (EG 80). Ngày nay, thái độ nóng lòng muốn đạt ngay những kết quả làm cho những người hoạt động mục vụ không chấp nhận cách dễ dàng ý nghĩa một số mâu thuẫn, một thất bại hiển nhiên, một phê bình, một thập giá (EG 82).
Tinh thần thế tục là tinh thần nấp đằng sau những vẻ đạo đức bên ngoài và ngay cả tình yêu đối với Hội thánh, để tìm vinh quang và phúc lợi cho con người thay vì vinh quang của Chúa... Nó mang nhiều hình thức, tùy theo loại người và hoàn cảnh mà nó xâm nhập (EG 93). Nơi một số người, chúng ta nhận thấy có một sự chăm sóc phô trương về phụng vụ, tín lý và uy tín của Hội thánh, nhưng không bận tâm gì đến việc thật sự lồng Tin Mừng vào dân Thiên Chúa và những nhu cầu thực tế của lịch sử... Nơi những người khác, cùng tinh thần thế tục này nấp đằng sau sự quyến rũ của việc phô trương những thành tích xã hội và chính trị hoặc trong hư danh liên quan đến khả năng quản lý các công việc thực tế của họ, hay trong sự hấp dẫn đến những động lực tự đánh giá mình và việc thể hiện tự quy chiếu về mình. Tinh thần thế tục cũng có thể được diễn dịch bằng nhiều cách khác nhau để tỏ ra mình là người đang dấn thân trong một đời sống xã hội phong phú, đầy những cuộc du hành, họp mặt, tiệc tùng, tiếp đãi... Tinh thần thế tục còn được thể hiện bằng một chủ nghĩa chức năng, chịu trách nhiệm về thống kê, kế hoạch, lượng giá, trong đó người thừa hưởng chính không phải là Dân Chúa, mà là Giáo hội, được hiểu như một tổ chức (EG 95).
VẤN TÂM
· Bản văn nào phản ánh những cám dồ cá nhân của tôi?
· Đâu là điều cốt yểu đổi với căn tính Kitô hữu của tôi? Đâu là điều tùy phụ và ít quan trọng?
MỤC III
LẮNG NGHE TIẾNG KÊU CỦA NGƯỜI NGHÈO VÀ ĐÁP LẠI
“Tôi muốn một Giáo hội nghèo và cho người nghèo”. Chọn lựa đối với người nghèo là một bận tâm trọng yếu đối với Giáo hội tại Châu Mỹ Latinh. Tuv nhiên, quá thường các Giám mục và Linh mục lại ở về phía những người giàu và những người được ưu đãi. Đối với Đức Giáo hoàng Phanxicô, thái độ lo lắng cho người nghèo là “nhãn hiệu chế tạo” của sứ vụ Giáo hội và của mọi người muốn theo Đức Kitô. Những bản văn này được trích ra từ Tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng” có thể dẫn chúng ta tới việc tự hỏi mình, xa xỉ nào không cần thiết đã khiến ta bỏ rơi người nghèo, là những người nghèo khó và yếu đuối, đang cần sự quan tâm của chúng ta.
- Mệnh lệnh lắng nghe tiếng kêu của người nghèo đã nhập thể trong ta, khi chúng ta động lòng trấc ẩn sâu xa nhất trước sự đau khổ của người khác (EG 193)... Đôi khi chúng ta phải lắng nghe tiếng kêu của toàn thể các dân tộc, những dân tộc nghèo nhất trên thế giới, bởi vì “hòa bình không chỉ dựa trên sự tôn trọng các quyền của con người, mà cả quyền của các dân tộc” (EG 190).
- Giả điếc trước tiếng kêu ấy, khi chúng ta là những công cụ của Thiên Chúa để lắng nghe người nghèo, sẽ đặt chúng ta ra ngoài Thánh ý của Chúa Cha và kế hoạch của Ngài... Thiếu tình liên đới đối với nhu cầu của người nghèo, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mối tương quan của ta với Thiên Chúa (EG 187).
- Mỗi Kitô hữu và mỗi cộng đoàn đều được mời gọi để trở thành dụng cụ của Thiên Chúa trong việc giải phóng và thăng tiến người nghèo, ngõ hầu họ có thể gia nhập cách trọn vẹn vào xã hội; điều này giả định rằng chúng ta sẵn lòng và chú ý lắng nghe tiếng kêu của người nghèo và cứu giúp họ (EG 187).
- Việc dấn thân của chúng ta không chỉ hệ tại các hoạt động hay các chương trình cổ động và hỗ trợ; điều mà Chúa Thánh Thần động viên không phải là một sự hiểu động thái quá, nhưng trước hết một chú tâm đến người khác, “coi họ như một với mình”. Sự chú tâm yêu thương này là khởi đầu của một mối quan tâm thật sự đối với con người của họ, và từ đó tôi muốn tìm kiếm sự tốt lành của họ một cách có hiệu quả. Điều này hàm ngụ đánh giá cao những người nghèo trong sự tốt lành của họ, với cách họ hiện hữu, với nền văn hóa của họ, với cách sống đức tin của họ... Người nghèo, khi được yêu thương, “thì được quý chuộng như một giá trị lớn lao”, và điều này làm cho sự chọn lựa đích thực đối với người nghèo, khác với một ý thức hệ nào đó, một ý tưởng nào đó nhằm sử dụng người nghèo để phục vụ những quyền lợi cá nhân hay chính trị (EG 99). Việc kỳ thị tồi tệ nhất mà những người nghèo đang phải chịu là thiếu sự quan tâm thiêng liêng (EG 200).
- Cần phải chú ý đến những hình thức mới của người nghèo khó và yếu đuối mà trong đó chúng ta được mời gọi để nhận ra Đức Kitô đau khổ... những người vô gia cư, nghiện ngập, tị nạn, thổ dân, những người già cả sống cô độc và bị bỏ rơi mỗi ngày càng đông... (EG 210).
- Lời yêu cầu của Đức Giêsu với các môn đệ: “Chính anh em hãy cho họ ăn” (Mc 6,37)... bao gồm cả việc cộng tác để giải quyết những nguyên nhân cấu trúc của sự nghèo khó và cổ động sự phát triển toàn diện những người nghèo, lẫn những cử chỉ đơn giản nhất và hàng ngày của tình liên đới trước những khốn khổ rất cụ thể mà ta đang gặp (EG 188).
VẤN TÂM
· Trong thế giới của tôi, ai là những người nghèo khó và yếu đuối, đang cần đến sự quan tâm yêu thương của tôi?
· Tôi sử dụng thế nào những thời dịp của mình để thay đổi “những nguyên nhân cấu trúc của sự nghèo khó”? Khi tham gia những cuộc bầu cử, nhờ sự lựa chọn của tôi là người tiêu thụ, hay khi nâng đờ những sáng kiến và những chiến dịch?
MUC IV
NÓI KHÔNG VỚI NỀN KINH TẾ GIẾT HẠI!
Trong tư cách là Tổng Giám mục Buenos Aires, Đức Hồng y Bergoglio đã là chứng nhân những hiệu quả tàn phá xã hội của cuộc khủng hoảng kinh tế tại Argentina trước khúc quanh của thế kỷ. Giờ đây ngài thấy cũng những động lực tàn phá ấy đang hoạt động “trong những cơ chế được thần thánh hóa của hệ thống kinh tế thống trị”. Với một đam mê tiên tri, ngài kêu gọi mọi người nam nừ nói “KHÔNG” với một thứ “tôn thờ thần tượng tiền bạc”, nhằm kiểm soát hơn là phục vụ; nói “KHÔNG” với một hệ thống kinh tế loại trừ con người khỏi một đời sống nhân phẩm và đối xử với họ như những người bị loại bỏ; nói “KHÔNG” với tình trạng bất bình đẳng xã hội ngày càng tăng dần, dẫn đến tình trạng gia tăng bạo lực.
- Ngày nay, chúng ta phải nói “không” với một nền kinh tế loại trừ và sự chênh lệch xã hội. Một nền kinh tế như thế là liệt hại... Chúng ta đã bắt đầu nền văn hóa “vứt bỏ”, hiện đang vẫn được cổ vũ. Đó không đơn thuần chỉ là hiện tượng khai thác và áp chế, nhưng là một điều gì mới mẻ: với việc loại bỏ triệt để, thì tình trạng chúng ta thuộc về xã hội mà mình đang sống trong lúc này, không còn nằm ở tầng lớp thấp, ở ngoài lề hay không có quyền lực nữa, mà là ở bên ngoài xã hội. Những người bị loại trừ không phải là những người bị bóc lột, nhưng là rác rưởi, là “đồ thừa” (EG 53).
- Chúng ta tạo ra những ngẫu tượng mới. Việc thờ con bò vàng xưa kia đã gặp một phiên bản mới và nhẫn tâm trong việc sùng bái ngẫu thần tiền bạc và sự độc tài của một nền kinh tế phi nhân và không có một mục đích nhân bản đích thực ... (EG 55). Tham vọng quyền lực và của cải thì vô biên. Trong hệ thống này, là hệ thống có khuynh hướng nuốt chửng tất cả, nhằm mục đích gia tăng lợi nhuận, thì tất cả những gì là mong manh, như môi trường, không có khả năng tự vệ trước những lợi ích của một thị trường đã được thần thánh hóa; sẽ biến thành quy luật tuyệt đối... Một thứ chuyên chế vô hình mới được thiết lập, đôi khi tiềm ẩn, áp đặt luật lệ và những quy tắc của nó một cách đơn phương và khe khắt (EG 56).
- Tình liên đới là một phản ứng tự nhiên của những người công nhận chức năng xã hội của tài sản và mục tiêu phổ quát của của cải như là những thực thể có trước việc sở hữu riêng. Quyền tư hữu tài sản được biện minh bằng nhu cầu bảo vệ và gia tăng chúng, để chúng có thể phục vụ công ích tốt hơn. Vì thế tình liên đới phải được sống như quyết định trả lại cho người nghèo những gì thuộc về họ. Những xác tín và việc thi hành tình liên đới, một khi được thực hiện, sẽ mở đường cho những thay đổi cấu trúc khác mà không tạo ra những xác tín và thái độ mới, thì sớm muộn những cấu trúc ấy sẽ tan rã, nặng nề và vô hiệu (EG 189).
- Đạo đức - một thứ đạo đức không phải là ý thức hệ- giúp thiêt lập một sự cân bằng và trật tự nhân đạo hơn. Theo ý nghĩa này, tôi khuyên khích các chuyên gia tài chính và các chính phủ của các quốc gia khác nhau hãy suy nghĩ về những lời của một hiền triết thời xưa: “Không chia sẻ của cải với người nghèo, là cướp đoạt của cải và bóc lột sự sống của họ. Của cải mà chúng ta đang nắm giữ không hẳn là của riêng ta, mà còn là của họ” (Thánh Gioan Chrysostômô) (EG 57).
VẤN TÂM
· Phong cách sống cá nhân của tôi đã bị “nền văn hóa rác rưởi” hiện nay ảnh hưởng đến mức độ nào?
· Bằng cách nào những chọn lựa của tôi trong tư cách người tiêu thụ có thê nâng đỡ việc thiết lập một nền kinh tế nhân bản và bên vững hơn?
MỤC V
MỘT GIÁO HỘI BỊ THƯƠNG TÍCH ĐI RA ĐẾN VỚI NGƯỜI KHÁC!
Chúng ta có thói quen nghĩ Giáo hội như người mẹ của chúng ta, đầy thánh thiện, như một “xã hội hoàn hảo” và như người canh giữ chân lý vĩnh hàng. Những lạm dụng tình dục, những tai tiếng về tài chính đã làm mờ nhòa hình ảnh lý tưởng này. Chúng ta là một Giáo hội bị thương tích, “bị tai nạn và nhơ nhớp”. Tuy nhiên, nguồn mạch sự sống của Giáo hội, là Đức Giêsu Kitô, thì “luôn luôn tươi trẻ”, một nguồn sự sống mới luôn tuôn chảy, luôn bận bịu để canh tân các tín hữu của mình. Đức Giáo hoàng Phanxicô mời gọi chúng ta phải bỏ “những sơ đồ tổ chức gây phiền hà”, nhờ “sự tươi mới nguyên thủy của Tin Mừng” và bắt đầu trở thành một “Giáo hội đi ra”.
- Giáo hội “đi ra” là một Giáo hội với những cánh cửa mở rộng. Đi ra để đến với những người khác, để đến với những vùng ngoại vi của nhân loại, không có nghĩa là chạy vội về phía thế gian mà không có định hướng hay trong bất cứ định hướng nào. Thông thường thì tốt hơn nên chạy chầm chậm, gạt nỗi lo ngại sang một bên, để nhìn thẳng vào đôi mắt và lắng nghe, hoặc bỏ qua những nhu cầu cấp bách để tháp tùng những người bị bỏ lại bên vệ đường (EG 46).
- Tôi thích một Giáo hội bị tai nạn, bị thương tích và nhơ nhớp vì đi ra ngoài đường, hơn là một Giáo hội bệnh hoạn vì khép kín, vì thích tiện nghi mà bám víu vào những an toàn riêng của mình. Tôi không muốn một Giáo hội chỉ quan tâm trở thành trung tâm, để cuối cùng bị vướng vào một mạng lưới của những cố chấp và thủ tục. Nếu có điều nào đó phải làm cho chúng ta lo âu cách chính đáng và làm cho lương tâm chúng ta áy náy, thì đó là, biết bao anh chị em chúng ta đang sống mà không có sức mạnh, ánh sáng và sự an ủi từ tình bạn hữu của Đức Giêsu Kitô, không được một cộng đoàn đức tin nào tiếp đón, không một chân trời ý nghĩa và sự sống nào đón đợi (EG 49).
- Tôi mong ước một Giáo hội nghèo cho người nghèo. Họ có nhiều điều để dạy dỗ chúng ta... Chúng ta cần phải để cho mình được họ Phúc Âm hóa... Chúng ta được mời gọi khám phá ra Đức Kitô trong họ, để cho họ mượn tiếng nói của mình mà nói lên những lý do của họ; đồng thời cũng là bạn bè của họ, lắng nghe họ, hiểu họ và đón nhận sự khôn ngoan kỳ diệu mà Thiên Chúa muốn thông truyền cho ta qua họ (EG 198).
- Giáo hội không phải là một hải quan, nhưng là ngôi nhà của Chúa Cha, ở đó có chỗ cho tất cả mọi người đang gặp khó khăn trong cuộc sống... Bí tích Thánh Thể, cho dù nó là viên mãn của đời sống bí tích, cũng không phải là phần thưởng cho những người hoàn hảo, mà là thần dược và lương thực cho những người yếu đuối. Những xác tín này cũng có những hệ quả mục vụ mà chúng ta được mời gọi cân nhắc cách khôn ngoan và mạnh dạn. Chúng ta quen hành xử như những người kiểm soát ân sủng, chớ không như những người cổ vũ cho ân sủng (EG 47).
Đức Kitô... đã đem đến cùng với Ngài tất cả sự mới lạ. Với sự mới mẻ của mình, Ngài luôn luôn có thể đổi mới đời sống chúng ta và cộng đoàn chúng ta... Đức Giêsu Kitô cũng có thể phá bỏ các sơ đồ tổ chức nhàm chán mà chúng ta có ý định giam hãm Ngài trong đó và Ngài làm cho chúng ta ngạc nhiên trước sự sáng tạo thần linh không ngừng của Ngài. Mỗi khi chúng ta tìm cách trở về nguồn để lấy lại sự tươi mới ban đầu của Tin Mừng, thì nảy sinh những con đường mới, những phương pháp sáng tạo, những hình thức diễn tả khác, những dấu chỉ hùng hồn hơn, những lời nói đầy ý nghĩa mới mẻ cho thế giới hôm nay. Quả thực, mọi hoạt động loan báo Tin Mừng đích thực đều luôn “mới mẻ” (EG 11).
Một sự tập trung quyền hành quá đáng, thay vì giúp đỡ, thì lại làm cho đời sống và sự năng động truyền giáo của Giáo hội trở nên phức tạp (EG 32).
Chúng ta đừng để mình bị cướp đi sức mạnh truyền giáo! (EG 109).
VẤN TÂM
· “Những sơ đồ tổ chức nhàm chán” nào cần được Thần Khí Chúa Kitô đổi mới, để làm phát sinh một sáng tạo truyền giáo mới?
· Trong lãnh vực nào, một “sự tản quyền” trách nhiệm nào đó, có thể mang ý nghĩa và đem lại sức sống cho các cộng đoàn chúng ta?
MỤC VI
SỰ PHONG PHÚ TIÊM ẨN CỦA THẬP GIÁ
Các nhà thờ trổng rỗng, các cộng đoàn tu trì lụi tàn, các gương xấu làm lung lay lòng tin vào Giáo hội, một nền văn hóa thế tục trục xuất tôn giáo ra khỏi đấu trường công cộng, sự thịnh vượng bóp nghẹt tinh thần và sự tìm kiếm Thiên Chúa. Là Kitô hữu, chúng ta luôn sống trong một sa mạc thiêng liêng. Sự thất bại có thể làm nản lòng những người đang dấn thân phục vụ trong cộng đoàn loan báo Tin Mừng và công tác mục vụ. Đức Giáo hoàng Phanxicô nhắc nhở chúng ta rằng, thập giá là một nguồn nước hằng sống, không bao giờ có một hoạt động bác ái, một công trình hào hiệp quảng đại lại có thể hư uổng. Sa mạc là chính nơi ta có thể khám phá lại niềm vui thâm sâu phát xuất từ niềm tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa.
- Chiến thắng của Kitô hữu luôn là một thập giá, những thập giá ấy cũng là cờ hiệu chiến thắng, mà ta mang với một tình yêu chiến đấu chống lại những cuộc tấn công của sự dữ (EG 85).
- Những ai tận hiến và phó thác đời sống mình cho Thiên Chúa trong tình yêu, chắc chẳn sẽ sinh hoa kết quả (x. Ga 5,15). Khả năng sinh hoa quả này thường vô hình, khó nắm bắt và không thể định hướng được. Chúng ta biết chắc chắn rằng, cuộc sống của mình sẽ mang lại kết quả, nhưng không tự nhận rằng mình biết thế nào, ở đâu, khi nào. Chúng ta cũng tin chắc rằng, không một hành vi nào được thể hiện với tình yêu, không một quan tâm lo lắng chân thành đối với kẻ khác, không một hành động yêu thương nào dành cho Thiên Chúa, không một mệt nhọc nào vì quảng đại phục vụ, cũng như không một thái độ kiên tâm chịu đựng nào mà lại phí uổng. Tất cả những điều đó thâm nhập thế giới như một lực sống. Đôi khi, những nỗ lực của chúng ta xem ra không mang lại kết quả, tuy nhiên sứ vụ không phải là chuyện buôn bán, không phải là kế hoạch kinh doanh, cũng không phải là một tổ chức nhân đạo, hay không phải là một buổi trình diễn để kể lể có bao nhiêu người tham dự, nhờ việc tuyên truyền của chúng ta; nó là một điều gì đó sâu xa hơn nhiều, vượt xa mọi đo lường. Có lẽ Chúa dùng sự dấn thân của chúng ta để đổ phúc lành xuống một nơi nào đó trên thế giới mà chúng ta sẽ không bao giờ đi tới (EG 297).
- Rõ ràng đã xảy ra trong một số miền hiện tượng “sa mạc hóa” thiêng liêng, là hậu quả dự án của những xã hội muốn tự xây dựng mình mà không cần đến Thiên Chúa hay muốn phá hủy gốc rễ Kitô giáo của họ... Ở các nước khác, việc chống đối Kitô giáo bằng bạo lực, đã bắt buộc những Kitô hữu phải sống đức tin của mình hầu như bằng cách trốn lủi ngay trong quốc gia mà họ yêu mến. Ngay gia đình riêng hay sở làm của chúng ta cũng có thể là môi trường khô cằn này, ở đó chúng ta phải giữ vững và tìm cách truyền bá đức tin. Nhưng “chính từ kinh nghiệm sa mạc này, từ sự trống rỗng này, mà chúng ta có thể khám phá lại niềm vui đức tin.
Trong sa mạc, ta khám phá lại giá trị của những gì là thiết yếu cho đời sống; như thế trong thế giới ngày nay, có rất nhiều những dấu chỉ, thường được tỏ lộ cách gián tiếp hay tiêu cực, về sự khao khát Thiên Chúa, về ý nghĩa tối hậu của cuộc đời. Và trong sa mạc, rất cần phải có những người có đức tin, để nhờ gương sáng đời sống của mình, họ chỉ cho những người khác thấy con đường về Đất Hứa và như thế giữ cho niềm hy vọng luôn sinh động” (EG 86).
- Trong mọi trường hợp, trong những trường hợp tương tự, chúng ta được mời gọi trở thành những con người mang những vò nước để cho người khác uống. Đôi khi vò nước lại biến thành một thập giá nặng nề, nhưng chính trên thập giá mà Chúa, Đấng bị đâm thâu qua, đã hiến mình cho chúng ta như nguồn nước sống động. Chúng ta đừng để mình bị cướp đi niềm hy vọng! (EG 88).
VẤN TÂM
· Tôi đã có những trải nghiệm sa mạc nào trong đời sống... trong cái tôi nội tâm của tôi và trong những hoàn cảnh tôi đã sổng?
· Tôi đã gặp ở đâu trong những sa mạc đời mình những “nguồn nước sống động”, “một khả năng sinh hoa kết quả vô hình”, hay “niềm vui đức tin”?
MỤC VII
CỐNG HIẾN KHO TÀNG TIN MỪNG CHO KẺ KHÁC
Công đồng Vaticanô II đã giúp mọi Kitô hữu nam nữ ý thức trách nhiệm loan báo Tin Mừng của mình. Đức Giáo hoàng Phanxicô muốn rằng, toàn thể Giáo hội phải nằm trong tình trạng thường xuyên loan báo Tin Mừng, không phải chỉ thấy ở đó một bổn phận hay một gánh nặng, nhưng trong tình trạng thế hiện cảm nghiệm cá nhân với tình yêu của Đức Kitô, nhờ đó ta nhận được niềm vui. Đó là điều mọi Kitô hữu có thể thực hiện, hoặc bằng một loan báo Tin Mừng cách công khai và trực tiếp, hay quan tâm lo lắng sâu xa đối với người nghèo và yêu kém, vào một thời điểm nào đó sẽ dẫn đến một hòa hợp mới giữa đức tin và văn hóa hiện đại.
- Phúc Âm hóa là làm cho Nước Thiên Chúa hiện diện trong thế giới (EG 176). Là môn đệ, có nghĩa là lúc nào cũng sẵn sàng để mang tình yêu của Đức Giêsu đến cho người khác, và điều này có thể được thực hiện cách tự nhiên ở mọi nơi: trên đường phố, nơi quảng trường, lúc làm việc, khi đi đường (EG 127). Sự sống đạt được và trưởng thành khi được trao hiến để mang lại sự sống cho kẻ khác. Chung cuộc truyền giáo là thế (EG 10).
Lý do đầu tiên thúc đẩy ta loan báo Tin Mừng là tình yêu của Đức Giêsu mà ta đã nhận được, kinh nghiệm được Ngài cứu độ là điều thúc đẩy chúng ta yêu Ngài mỗi ngày nhiều hơn... Động lực tốt nhất để quyết định thông truyền Tin Mừng là suy niệm Tin Mừng với tình yêu, là đọc chầm chậm từng trang và đọc bằng con tim của mình. Nếu chúng ta tiếp cận với Tin Mừng bằng cách này, thì vẻ đẹp của Tin Mừng sẽ làm cho chúng ta ngạc nhiên và khiến chúng ta say đắm mỗi khi đọc tiếp. Vì vậy thật là khẩn cấp để phục hồi tinh thần chiêm niệm, nhằm giúp chúng ta khám phá lại mỗi ngày rằng, mình được thừa hưởng một gia sản, sẽ nhân bản hóa và giúp chúng ta có một đời sống mới. Không có gì tốt hơn truyền thông cho kẻ khác (EG 264).
- Chúng ta có một kho tàng sự sống và tình yêu không hề lừa dối, một sứ điệp không thể làm cho chúng ta lạc đường hay thất vọng. Đó là một câu trả lời phát sinh tận đáy lòng con người, và có thể nâng đỡ và thăng hoa con người. Đó là chân lý không bao giờ lỗi thời, bởi nó thâm nhập những nơi mà không gì khác có thể đạt thấu... Khi ta thành công trong việc diễn tả cách thích đáng và mỹ thuật nội dung cốt yếu của Tin Mừng, thì sứ điệp này chắc chắn sẽ đáp ứng thỏa đáng những nhu cầu sâu xa nhất của các tâm hồn (EG 265).
- Giáo hội không lớn lên bàng chiêu dụ, nhưng nhờ “sức thu hút”. Các Kitô hữu có bôn phận loan báo Tin Mừng, không loại trừ một ai, không như người áp đặt một bổn phận mới, nhưng như người chia sẻ một niềm vui, vạch chỉ một chân trời đẹp, cống hiến một bữa tiệc ngon (EG 14). Tôi ước muốn đặc biệt xin các Kitô hữu thuộc mọi cộng đoàn trên thế giới, cống hiến một chứng tá hiệp thông huynh đệ hấp dẫn và ngời sáng. Chớ gì mọi người đều có thể thán phục cách thức anh chị em chăm sóc nhau, khích lệ nhau, đồng hành với nhau: “ở điều này mà mọi người đều nhận biết anh em là môn đệ Thầy: đó là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 35) (EG 99).
Cuối cùng, điều mà chúng ta phải nhắm đến, đó là việc truyền giảng Tin Mừng, được diễn tả bằng những loại hình thích hợp với nền văn hóa, ở đó Tin Mừng được loan báo, sẽ tạo ra một tổng hợp mới với nền văn hóa này... (EG 129). Nguyên một nền văn hóa không thể khai thác hết được mầu nhiệm cứu chuộc của Đức Kitô (EG 118).
VẤN TÂM
· Tôi có thể mang đến điều gì để gia đình, cộng đoàn và giáo xứ của tôi lôi cuốn được những người khác, nhờ chứng tá yêu thương lẫn nhau của chúng ta?
· Những phương tiện truyền thông hiện đại đã tạo ra một nên văn hóa mới, đặc biệt trong thế hệ mới. Làm thế nào để sứ điệp của Đức Giêsu có thê tìm được những cách diễn tả mới trong nền văn hóa mới này?