SUY NIỆM CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO
Lời
Chúa: Is. 2, 1-5; 1Tm. 2,1-8; Mt. 28,16-20
MỤC
LỤC
1. Kitô hữu,
chứng nhân truyền giáo
2. Hãy đi khắp
thế gian
3. Truyền lửa
yêu thương – Lm Ignatiô Trần Ngà
4. Quyền năng
từ trên cao
5. Anh em là
chứng nhân
6. Khánh nhật
truyền giáo – Lm Trần Ngà.
7. Chứng nhân
trong sự hiệp nhất yêu thương
8. Cách thức
truyền giáo
9. Nối bước
các thừa sai – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
10. Chứng tá
11. Truyền
giáo
12. Hãy loan
báo Tin mừng
13. Đời sống
chứng nhân
14. Hãy thả
lưới bên phải thuyền
15. Thầy Ở
Cùng Anh Em
16. Truyền
giáo
1. Kitô hữu, chứng nhân
truyền giáo
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
“Anh chị em đi khắp thế giới,
loan báo Tin Mừng cho muôn dân”. Thưa anh chị em, đó là mệnh lệnh cuối cùng của
Chúa Giêsu. Giáo Hội từ thời các Tông đồ trải qua các thời đại cuối cùng của
Chúa, bất chấp mọi trở ngại.
Thế nhưng, qua 20 thế kỷ truyền
giáo, số người tin theo Chúa Kitô vẫn là một thiểu số đáng lo ngại so với dân số
thế giới ngày càng gia tăng. Hiện nay, dân số thế giới đã lên đến trên 5 tỷ người,
thế mà số tín hữu công giáo chỉ được 900 triệu, nhưng 50 phần trăm là ở Nam Mỹ,
còn triệu kia rải rác ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Châu Á, Châu Úc và Châu Phi.
Riêng tại Châu Á của chúng ta, một
lục địa với hơn 3 tỷ người, trong số đó chỉ có 3% là người Công giáo. Tại Trung
Quốc chỉ có 4 triệu người Công giáo giữa một tỷ dân. Tại Nhật Bản có lối 500
ngàn người Công giáo giữa 123 triệu dân. Ở Nam Triều Tiên, 5 triệu người Công
giáo trên 42 triệu dân. Tại đất nước Việt Nam chúng ta chỉ có hơn 4 triệu rưỡi
người Công giáo trên 72 triệu dân, tỷ lệ hơn 6%. Tại TP. Hồ Chí Minh chúng ta
có khoảng hơn 450 ngàn (485.584) người Công giáo trên hơn 5 triệu dân, tỷ lệ
13%. (Tại Hạt Tân Định, có 41.105 người Công giáo trên 266,000 dân). Đó là những
con số trên giấy tờ, trong sổ Rửa Tội, còn trên thực tế, họ có sống đạo hay
không là chuyện khác.
Như chúng ta được biết, ở những
miền có đông giáo dân Công Giáo- ở Nam Mỹ chẳng hạn- đời sống dân chúng ở đó lại
nghèo đói và thiếu linh mục.Ở Braxil, một nước lớn nhất Nam Mỹ, dân số 107 triệu,
đại đa số là Công giáo. Thế mà gần đây người Công giáo đã bỏ Giáo Hội để sang Hội
Thánh Tin Lành tính ra có trên 17 triệu người (lý do có lẽ là để được hưởng trợ
cấp). Trái lại, ở các nước giàu có, phồn thịnh về vật chất- như ở Châu Âu và Bắc
Mỹ- người Công giáo lại đánh mất niềm tin và không còn tôn trọng các giá trị đạo
đức tinh thần nữa, coi thường các luật luân lý của Giáo Hội về đời sống hôn
nhân gia đình. Sự kiện đó đang trở nên mối lo âu và là một vết thương đau nhức
nhối nhất của Giáo Hội ngày nay.
Xin đan cử ra đây một dấu chỉ của
thời đại: Đầu năm 1998, tại thành phố Amsterdam ở Hà Lan, Hội Đồng Giáo Mục đã
quyết định đóng cửa một loạt 5 ngôi thánh đường đồ sộ của thành phố, vì không
có giáo dân lui tới nữa, trong khi đó phí khoản 9dê3 bảo trì các ngôi thánh đường
này lại quá lớn. Tại Bắc Mỹ cũng thế, Đức Hồng Y Josef Bernardin, Tổng Giáo Mục
Chicago tuyên bố: ngài buộc lòng phải đóng cửa 13 giáo xứ, 2 cơ sở truyền giáo
và 6 trường tiểu học Công giáo trong giáo phận của ngài. Còn Đức Hồng y Szoka,
Tổng Giám Mục Giáo phận Detroit cũng tuyên bố quyết định đóng cửa 30 giáo xứ
thuộc giáo phận của ngài. Lý do đóng cửa là vì thiếu người và thiếu tiền (x.
Bùi Tuần, Ơn Trở Về, tr.85).
Nói lên những dấu chỉ thời đại ấy
để chúng ta thấy rằng: Con người ngày nay đã bỏ Chúa, không còn tin vào Chúa nữa,
hoặc có nhiều người tin, nhưng với một niềm tin hời hợt, hững hờ. Chính vì thảm
trạng nầy mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ban hành thông điệp “Sứ Vụ Đấng
Cứu Độ” (Redemptoris Missio, 1990) để đặt toàn thể Giáo Hội trước sứ mạng truyền
giáo và tái truyền trong Thiên Niên Kỷ Thứ III.
Anh chị em thân mến,
Hôm nay, ngày Thế Giới Truyền
Giáo, Đức Thánh Cha lại gởi đến toàn thể Dân Chúa một sứ điệp với chủ đề: “Tất
cả các kitô hữu đều được mời gọi làm người truyền giáo và chứng nhân”. Đức
Thánh Cha nói: “Trước thềm thiên niên kỷ thứ ba, Chúa Giêsu quyết liệt lập lại
những lời Ngài đã nói với các Tông đồ trước khi về trời, những lời hàm chứa bản
chất sứ vụ của người Kitô hữu: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem,
trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Quả
thực, Kitô hữu là ai? Thưa họ là người được Chúa Kitô “chiếm đoạt” (x.Pl 3,12),
và vì thế, là người khao khát làm cho Chúa Kitô được mọi người nhận biết và yêu
mến ở khắp mọi nơi “cho đến tận cùng trái đất”. Chính niềm tin vào Chúa Kitô
thúc đẩy chúng ta trở thành những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Ngài. Nếu
không thực hiện được điều đó, có nghĩa là niềm tin củ chúng ta còn bất toàn,
khiếm khuyết và chưa trưởng thành.
Do đó, “Truyền giáo là vấn đề của
niềm tin, nó là thước đo niềm tin của chúng ta nơi Chúa Giêsu và nơi tình yêu của
Ngài dành cho chúng ta” (RM số 11). Đức tin và truyền giáo đi đôi với nhau: đức
tin càng mạnh càng sâu thì nhu cầu truyền thông, chia sẻ và làm chứng niềm tin
càng bức thiết. Ngược lại, nếu đức tin suy yếu thì nhiệt tình truyền giáo cũng
suy giảm và khả năng làm chứng cũng mất đi sức mạnh. Đó là điều vẫn xảy ra
trong lịch sử Giáo Hội: sự sút giảm lòng nhiệt thành truyền giáo là triệu chứng
của sự khủng hoảng đức tin. Điều này phải chăng xảy ra khi người ta đánh mất
xác tín sâu xa là: “Đức tin càng vững mạnh khi đem chia sẻ” (RM.2). Vì chính
khi loan báo Chúa Giêsu Kitô và làm chứng về Ngài mà đức tin của chúng ta được
củng cố và tái khám phá con đường đưa đến một nếp sống đúng theo Tin Mừng của
Ngài. Như thế, chúng ta có thể nói: “Truyền giáo là một phương thuốc chắc chắn
nhất chống lại cuộc khủng hoảng đức tin. Chính nhờ dấn thân truyền giáo mà mỗi
thành phần Dân Chúa củng cố căn tính mà mình và hiểu rõ là: không ai có thể là
Kitô hữu đích thực nếu không là chứng nhân” (số 2).
Thưa anh chị em,
“Mỗi Kitô hữu được sáp nhập vào
Giáo Hội nhờ Bí tích Thanh Tẩy, đều được mời gọi làm nhà truyền giáo và chứng
nhân. Đó là sự ủy nhiệm rõ ràng của Chúa Kitô. Và Thánh Thần sai mỗi người kitô
hữu ra đi loan báo và làm chứng về Chúa Kitô cho muôn dân: đó là nhiệm vụ và đặc
ân, bởi vì đó là một lời mời gọi cộng tác với Thiên Chúa để cứu độ mỗi người và
cả nhân loại” (số 3).
Truyền giáo bằng đời sống chứng tá
Tin Mừng giữa đời, làm chứng cho Chúa Kitô bằng đời sống yêu thương, bác ái,
công bình, cụ thể trong gia đình, ngoài xã hội, là sứ vụ của mọi người giáo
dân. Làm chứng cho sự thánh thiện, như những người sống các Mối Phúc của Tin Mừng,
đó là căn tính của người Kitô-hữu-chứng-nhân. Con người ngày nay có vẻ dửng
dưng không muốn tìm về Thiên Chúa, nhưng trong thực tế, họ cảm thấy cần đến
Thiên Chúa và họ bị các Thánh thu hút và đánh động, những vị thánh đã biểu lộ
khuôn mặt của Thiên Chúa trong đời sống của mình, như những ánh sao trong đêm tối.
Giáo Hội Việt Nam chúng ta ngày
nay phải truyền giáo trong môi trường cụ thể chúng ta đang sống, với những con
người cụ thể chúng ta đang gặp. Chúa Kitô cần đến chúng ta để đem Tin Mừng vào
lòng dân tộc. Chúa Kitô cần đến tâm hồn quảng đại và sẵn sàng của chúng ta, cần
đến đời sống nhân chứng của chúng ta để bày tỏ cho anh em đồng bào tình yêu
thương vô biên của Ngài. Tích cực tham gia vào công cuộc Phúc-âm-hóa mới, đó là
công việc đặc trưng của những năm chuẩn bị tiến đến Thiên Niên Kỷ Thứ Ba của Hồng
Ân Cứu Độ.
2.
Hãy đi khắp thế gian
(Trích trong ‘Manna’)
"Hãy đi khắp thế giới, loan
báo Tin Mừng..."
Lời Đức Giêsu mời gọi làm chúng
ta nhức nhối. Thế giới chẳng phải ở đâu xa. Thế giới là quê hương tôi với gần
80 triệu dân. Thế giới là những người tôi vẫn gặp, những nơi tôi vẫn sống. Thế
giới ấy, chân tôi chưa một lần đi hết, miệng tôi chưa một lần loan báo tin vui.
Tôi có lòng tin không? Tôi có dám
tin Lời Chúa không? Chúa hứa cho những ai tin được khả năng trừ quỷ, nghĩa là
giải phóng con người khỏi mọi hình thức nô lệ, khả năng chữa bệnh để xoa dịu nỗi
đau của trần gian, khả năng nói những ngôn ngữ mới để đem lại hiệp nhất.
Các tông đồ đã tin và thấy Chúa
cùng làm việc với mình. Họ chẳng bao giờ cô đơn trên bước đường rao giảng. Có
nhiều cách loan Tin Mừng, nhiều cách truyền giáo. Cách thứ nhất là bằng chính
cuộc sống bản thân.
Nếu các Kitô hữu đều siêu thoát
danh lợi, sống trung thực, thanh khiết, sống chung thủy, yêu thương... Một Kitô
hữu nghèo mà vui tươi, hạnh phúc, thì đó là một lời chứng đáng tin cậy. Làm cho
xã hội được tốt đẹp hơn, đó cũng là một cách loan báo Tin Mừng rất hiệu quả.
Kitô giáo phải góp phần xây dựng
một thế giới hòa bình và huynh đệ, công bằng và ấm no, nơi nhân phẩm của từng
người được tôn trọng, nơi bóng tối của sự ích kỷ tàn nhẫn bị đẩy lui. Mẹ Têrêxa
Calcutta đã âm thầm loan báo Tin Mừng bằng những cử chỉ nhân ái với bao người
cùng khổ. Mẹ đã đi nhiều nơi trên thế giới để lập các cộng đoàn.
Còn thánh Têrêxa nhỏ đã truyền
giáo tại chỗ bằng lời cầu nguyện và những hy sinh nhỏ bé. Chị là nữ tu dòng
Kín, sống trong bốn bức tường, nhưng lại được phong làm bổn mạng các xứ truyền
giáo. Chị đã đi khắp thế giới, không phải bằng đôi chân, nhưng bằng lòng ước ao
của một trái tim cháy bỏng.
Phải sống sao để người ta thắc mắc,
đặt câu hỏi. Nhưng cũng phải sẵn sàng trình bày câu trả lời. Dù bạn chẳng uyên
thâm về giáo lý nhưng hãy bập bẹ nói về Chúa bằng kinh nghiệm của bạn.
Truyền giáo là giới thiệu cho người
khác Đấng tôi đã quen. Có thể người ấy đã biết Đấng này từ lâu rồi. Anrê đã gọi
Simon, Philipphê đã gọi Nathanaen đến gặp Chúa.
Cần tập đến với người khác như Đức
Giêsu đã đến với người phụ nữ Samari. Hãy xin nước uống, trước khi nói về Nước
Hằng Sống. Hãy tìm hiểu người đối diện trước khi loan báo Tin Mừng. Chúng ta cần
thấm nhuần văn hóa dân tộc thì mới biết cách nói về Chúa Cha cho đồng bào mình.
Nếu cả đời, mỗi Kitô hữu mời được một người theo đạo, thì nguyện ước của Đấng
Phục Sinh được thành tựu.
Gợi
Ý Chia Sẻ
Thánh Têrêxa nhỏ đã được tôn
phong làm tiến sĩ Hội Thánh. Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo bằng cầu nguyện và
hy sinh của chị? Bây giờ có hợp thời không?
Mẹ Têrêxa hiến đời mình cho người
cùng khổ, bệnh tật, không phân biệt tôn giáo, màu da... Bạn nghĩ gì về kiểu
truyền giáo này? Nó có đánh động trái tim con người hôm nay không?
Cầu
Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con,
nếu Hội Thánh được ví như một
thân thể
gồm nhiều chi thể khác nhau,
thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu
một chi thể cần thiết nhất và cao
quý nhất.
Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng
cháy tình yêu.
Chính tình yêu làm cho Hội Thánh
hoạt động.
Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng
tình yêu,
thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng,
các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ
máu mình...
Lạy Chúa Giêsu,
cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi
của con,
ơn gọi của con chính là tình yêu.
Con đã tìm thấy chỗ đứng của con
trong Hội Thánh:
nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là
tình yêu,
và như thế con sẽ là tất cả,
vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi
trong Hội Thánh.
Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban
cho con,
mọi ước mơ của con được thực hiện.
(dựa theo lời của thánh Têrêxa)
3. Truyền lửa yêu thương – Lm Ignatiô Trần
Ngà
Thông thường khi cầu xin bất cứ
ân huệ gì, chúng ta tha thiết cầu xin cho bản thân, cho gia đình mình trước. Thế
nhưng, khi đất nước lâm nguy, cần có người ra biên thuỳ bảo vệ, thì người ta lại
sốt sắng cầu xin cho người khác, ngoại trừ bản thân, được can đảm xông ra chiến
trường bảo vệ giang sơn. Nếu ai cũng cầu như thế và những lời cầu kiểu nầy được
chấp nhận, thì làm gì còn Tổ Quốc!
Trong việc cầu cho công cuộc truyền
giáo cũng vậy, chúng ta thường cầu với Chúa rằng: “Lạy Chúa, xin cho có đông
người, ngoại trừ con, biết quảng đại lên đường đi khắp muôn phương loan báo Tin
Mừng cứu độ.” Nhưng thử hỏi: nếu ai cũng cầu xin thế nầy, thì cánh đồng truyền
giáo sẽ vắng bóng thợ gặt, tìm đâu ra người đi loan báo Tin Mừng.
Vậy thì lời cầu nguyện thiết thực
nhất mà mỗi người chúng ta phải dâng lên Chúa là: “Lạy Chúa, tuy con bất xứng,
nhưng xin hãy sai con đi làm thợ gặt cho Chúa ngay hôm nay.”
Dù muốn dù không, chúng ta cũng
là ngôn sứ của Chúa ngay từ ngày lãnh bí tích thánh tẩy. Bí Tích Thánh Tẩy làm
cho chúng ta trở thành chi thể Chúa Giêsu, cho thông dự vào vai trò ngôn sứ của
Người, nên chúng ta phải đảm nhận trách nhiệm loan Tin Mừng cứu độ của Người.
Chính vì thế, trước khi về trời,
Chúa Giêsu long trọng chuyển trao cho chúng ta, là môn đệ Người, tiếp tục thi
hành sứ vụ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, … dạy bảo họ
tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 19-20)
Vậy thì sứ mạng loan Tin Mừng là
một bổn phận phải làm chứ không phải là việc tuỳ thích. Thánh Phao-lô thú nhận:
“Đối với tôi rao giảng Tin mừng không phải là lý do để tự hào, nhưng là một sự
cần thiết buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng.”
(1 Cr 9,16).
Vì đây là bổn phận của mọi chi thể
Chúa Giêsu nên chỉ khi nào chúng ta tự tách lìa mình ra khỏi Hội Thánh là Thân
Thể Chúa, thì chúng ta mới có thể cho phép mình ngừng loan báo Tin Mừng.
Truyền
giáo là truyền lửa yêu thương
Trong đêm Vọng Phục Sinh, lòng
nhà thờ hoàn toàn chìm trong bóng tối. Thế rồi, từ cuối nhà thờ, Nến Phục Sinh
được thắp sáng lên và được long trọng rước lên cung thánh. Linh mục chủ sự lấy
lửa từ Nến Phục Sinh thắp lên cho một vài cây nến nhỏ bé khác trên tay vài người.
Những người nầy lại đem lửa phục sinh thắp lên cho người bên cạnh và cứ tiếp tục
như thế, chẳng mấy chốc, cả ngàn cây nến nhỏ của các tín hữu tham dự đều được
thắp lên.
Loan Tin Mừng cũng là thắp lên lửa
yêu thương cho người quanh ta. Lửa đức tin, lửa yêu thương đã được Chúa Giêsu
thắp lên trong ta, thì đến lượt mỗi chúng ta cũng hãy thắp lửa đức tin, lửa yêu
thương ấy cho người bên cạnh và công việc truyền lửa nầy cần phải được tiếp nối
không ngừng.
Chân phước Têrêxa Calcutta cũng
cho rằng truyền giáo là chia sẻ tình thương. Mẹ không rao giảng Phúc Âm bằng lời
nhưng bằng những tâm tình và cử chỉ yêu thương cụ thể. Mẹ cũng chẳng chủ trương
yêu thương đại chúng cách chung chung, nhưng là yêu thương từng người đang đối
diện.
Mẹ nói: “Đối với chúng tôi, điều
quan trọng là từng người một. Để thương yêu một người thì phải đến gần người ấy…
Tôi chủ trương một người đến với một người. Mỗi một người đều là hiện thân của
Đức Kitô… Người đó phải là người duy nhất trên thế gian (mà ta cần yêu thương
trọn vẹn) trong giây phút đó.”
Với tâm tình nầy, Mẹ Têrêxa đã
thu phục nhân tâm nhiều người trên thế giới. Cũng bằng phương thức nầy, Giáo Hội
công giáo Hàn Quốc đã làm gia tăng gấp đôi số tín hữu chỉ trong vòng mươi năm!
Theo gương Mẹ Têrêxa, mỗi một người
công giáo nên kết thân với một người lương, coi người đó như anh em ruột thịt
và đem hết lòng yêu thương người đó.
Mỗi gia đình công giáo nên kết
thân với một gia đình lương dân, coi họ như thân quyến của mình, sẵn sàng chia
ngọt sẻ bùi; khi có kỵ giỗ, cưới xin hay lễ lạc gì trong gia đình, hãy mời họ
cùng thông hiệp. Nhờ đó hai bên thắt chặt mối giây thân ái và qua tình thân nầy,
Tin Mừng của Chúa Kitô sẽ được lan toả như ánh nến đêm Vọng Phục Sinh.
4. Quyền năng từ trên cao
Nếu Đức Giêsu phục sinh không sai
gửi Thánh Thần thì chúng ta sẽ chẳng có một Hội Thánh truyền giáo. Các tông đồ
được lệnh phải chờ ở Giêrusalem. Chờ mặc lấy quyền năng từ trời cao ban xuống.
Chờ Đức Giêsu sai gửi Đấng Cha đã hứa ban. Chờ lãnh nhận phép Rửa trong Thánh
Thần (Cv 1,5). Không có sức mạnh của Ngôi Ba Thiên Chúa, các tông đồ chẳng dám
đi rao giảng cho muôn dân, và trở nên chứng nhân của Đức Giêsu cho cả thế giới.
Không có Thánh Thần thì không có
hoạt động truyền giáo. Điều này vẫn đúng cho thời đại chúng ta. Thánh Thần vẫn
thôi thúc bao tâm hồn đi gieo Tin Mừng, vẫn hiện diện và hướng dẫn Hội Thánh
trong việc rao giảng, vẫn khơi dậy bao sáng kiến mới mẻ trong việc truyền giáo.
Kitô hữu tự bản chất là chứng
nhân. Các tông đồ đã làm chứng vì họ đã thấy tận mắt. Chúng ta chỉ có thể làm
chứng nếu thấy bằng đức tin. Thấy bằng đức tin mạnh chẳng kém gì thấy bằng mắt.
Kitô hữu là người thấy được Đấng Vô Hình, có tương quan thân thiết với Đấng họ
mến tin.
Truyền giáo không phải là tuyên
truyền một lý thuyết, mà là đưa người khác đến gặp một Ngôi Vị, là chia sẻ cho
họ niềm xác tín và yêu mến của mình.
Chúng ta cần tự hỏi tại sao sau gần
4 thế kỷ Kitô giáo ở Việt Nam vẫn chưa phát triển mạnh. Phải chăng vì đức tin
chúng ta đã nhạt nhòa, vì đời sống chúng ta chẳng có gì đáng nói? Hay phải
chăng chúng ta đã lơ là với việc rao giảng, hoặc không biết cách loan báo Tin Mừng
cho phù hợp?
Có thể tất cả những lý do trên đều
đúng. Truyền giáo hôm nay đòi ta cộng tác với mọi người thiện chí, để xây dựng
một thế giới công bằng, nhân ái hơn, đòi ta yêu thương và phục vụ những người
nghèo nhất.
Truyền giáo là đưa Tin Mừng vào nền
văn hoá Việt Nam, và đưa những giá trị tốt đẹp của văn hoá Việt Nam vào việc sống
và làm chứng cho Tin Mừng. Chúng ta tin một Thánh Thần duy nhất đã hoạt động
nơi các dân tộc trước khi Ngôi Lời nhập thể, vẫn luôn hoạt động trong đời Đức
Giêsu và trong Hội Thánh, và còn đang hoạt động nơi các tôn giáo, các nền văn
hoá của mọi dân tộc trong thế giới hôm nay.
Phải làm sao để trình bày Tin Mừng
cách dễ hiểu, gần gũi với tâm thức của đồng bào. Phải làm sao để bày tỏ một
khuôn mặt Đức Giêsu nhân từ, dễ mến, đem lại hạnh phúc cho con người. Hội Thánh
Việt Nam cần biết bao những người công giáo biết làm văn, làm nhạc, làm thơ, biết
viết kịch, viết báo... Tinh thần Chúa Kitô phải từ từ thấm vào mọi lãnh vực. Có
thể Kitô hữu mãi mãi vẫn là một thiểu số, nhưng phải là một thiểu số đóng góp
nhiều cho dân tộc.
Gợi
Ý Chia Sẻ
Có người bảo đạo Công Giáo là đạo
ngoại lai. Bạn nghĩ sao? Có tôn giáo nào ở Việt Nam không đến từ nước ngoài?
Làm sao để đạo Công Giáo gần gũi với lối sống, lối nghĩ của người Việt Nam hơn?
Đức Thánh Cha nói: không truyền
giáo là dấu hiệu của khủng hoảng đức tin. Bạn nghĩ sao?
Cầu
Nguyện
Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức
Giêsu, Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã được cứu
chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin
và hạnh phúc,
niềm vui và bình an của mình cho
tha nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức
Giêsu cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất
lực
trước sứ mạng đi đến tận cùng
trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu và
tin vào Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ thể của
chúng con.
Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân
lo việc truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của
chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.
5. Anh em là chứng nhân
(Trích trong ‘Manna’)
Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã
làm một điều quan trọng, đó là đào tạo những chứng nhân. Hội Thánh tương lai phải
được xây nền vững chắc trên những con người có kinh nghiệm cá nhân về cái chết
và sự phục sinh của Ngài.
Chính vì thế Ngài đã hiện ra cho
Simon, cho hai môn đệ về Emmau, cho các tông đồ. Ngài cho họ xem chân tay và
Ngài đã ăn bánh để họ đừng nghi Ngài là ma. Hơn nữa Ngài còn soi sáng cho họ để
họ hiểu những lời Kinh Thánh nói về Ngài. Các môn đệ đã là chứng nhân, đã tử đạo
để làm chứng cho điều mình xác tín.
Mỗi năm Hội Thánh dành một ngày
Chúa Nhật để nhắc chúng ta nhớ đến bổn phận của mình, bổn phận truyền giáo cho
thế giới. "Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân"
Chúng ta phải tiếp tục sứ mạng của
các tông đồ, vinh dự đứng vào hàng ngũ các chứng nhân. Để truyền giáo, chúng ta
phải quen thân với Chúa Giêsu, có kinh nghiệm gặp gỡ Ngài thật sâu lắng, sống
cái chết của Ngài mỗi ngày và nếm được niềm vui phục sinh Ngài ban tặng.
Để truyền giáo cần có nhiều tình
yêu: tình yêu đối với Chúa Giêsu và đối với con người. Chính vì mến yêu Ngài mà
ta muốn Ngài được mọi người nhận biết. Chính vì mến yêu mọi người mà ta muốn
chia sẻ hạnh phúc mình đang hưởng.
Thế giới hôm nay đầy lạc thú và
hưởng thụ, nhưng vẫn là một thế giới buồn. Buồn vì nạn phá thai, ly dị, tự tử;
buồn vì hận thù, thất vọng và lo âu. Nhiều bạn trẻ tìm quên trong vui chơi,
nghiện ngập, vì không thấy cuộc sống có ý nghĩa. Như thế truyền giáo là loan
báo tin vui cho một thế giới buồn.
Đức Thánh Cha đã nhắn nhủ giới trẻ:
"Hội Thánh ủy thác cho giới trẻ nhiệm vụ hô to lên cho thế giới biết niềm
vui vì gặp được Đức Kitô... Hãy đi rao giảng Tin Mừng giải thoát. Hãy là những
điều ấy với tâm hồn hân hoan."
Chúng ta không thể là những chứng
nhân buồn. Chính cuộc sống của ta phải đầy ắp niềm vui, sự lạc quan và sự sống
của Chúa Phục Sinh. Chỉ như thế chúng ta mời hy vọng đáp ứng những đòi hỏi gay
gắt của thế giới đang bước vào đệ tam thiên niên kỷ.
Gợi
Ý Chia Sẻ
Có khi nào bạn nói về Chúa cho một
người bạn không? Bạn có thấy mình cần học giáo lý và cầu nguyện để có thể truyền
giáo tốt hơn không?
Hơn 90% người Việt Nam chưa tin
Chúa. Theo ý bạn, chúng ta có truyền giáo đủ chưa? Phải sửa đổi gì để việc truyền
giáo có hiệu quả hơn?
Cầu
Nguyện
Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức
Giêsu, Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã được cứu
chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin
và hạnh phúc,
niềm vui và bình an của mình cho
tha nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức
Giêsu cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất
lực
trước sứ mạng đi đến tận cùng
trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu và
tin vào Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ thể của
chúng con.
Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân
lo việc truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của
chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.
6. Khánh nhật truyền giáo – Lm Trần Ngà.
Mến Chúa và yêu người là hai giới
răn trọng nhất. Điều đó thì trẻ con cũng thuộc. Nhưng điều quan trọng là làm
sao thực thi lòng mến Chúa qua việc yêu thương con người là hiện thân của Thiên
Chúa.
Yêu Chúa mà lại ghét người thân cận
thì thật là điều trớ trêu như câu chuyện sau đây:
Có một vị hoàng thái tử vào rừng
săn bắn gặp một cô gái hái củi trong rừng. Không hiểu Trời xui đất khiến làm
sao mà họ yêu nhau tha thiết ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên.
Hoàng tử quay về triều như kẻ mất
hồn, ngày đêm tương tư cô gái nghèo mà anh đã đem lòng thương mến và rồi anh khẩn
khoản xin vua cha cưới nàng cho bằng được.
Để tìm hiểu xem cô gái có thực sự
yêu thương con trai mình bằng tình yêu chân thực hay không, vua cha dạy cho
hoàng tử cải trang làm nông dân để thử lòng cô gái...
Thế là hoàng tử hoá thành người
nông dân, đến cắm lều gần nhà cô gái, ngày ngày vác cuốc ra đồng làm lụng. Anh
lân la đến làm quen với cô gái trong hình hài một nông dân.
Mặc dù cô gái vẫn thầm yêu và
mong được kết hôn với hoàng tử, nhưng cô tạ không nhận ra hoàng tử nơi người
nông dân nghèo khổ nầy. Cô đã đối xử với anh rất lạnh nhạt và cuối cùng đã xua
đuổi anh.
Tiếc thay, cô đã đánh mất cơ hội
vô cùng quý báu: mất vinh dự trở thành công nương, thành hoàng hậu tương lai.
Như vị hoàng tử kia hoá thân
thành nông dân để thử lòng cô gái, Thiên Chúa cũng hoá thân thành người phàm để
thử thách tình yêu của chúng ta. Ngài đã từ trời xuống thế, hoá thân làm người,
cắm lều ở giữa loài người, trở nên người thân cận của mỗi người.
Thế nên, khi yêu thương người
thân cận là chúng ta yêu thương Chúa, và khi chúng ta từ khước hay bạc đãi người
thân cận là bạc đãi Chúa. Tình yêu thương người thân cận là thước đo tình yêu của
chúng ta đối với Thiên Chúa.
Mẹ Têrêxa là người giữ điều răn
yêu thương nầy cách tuyệt hảo. Mẹ nhìn thấy Chúa trong những người phong cùi,
trong những người bần cùng khốn khổ và mẹ tận tình yêu thương săn sóc những người
ấy hết sức tận tình. Mẹ dạy nữ tu của mẹ: "Con thấy linh mục nâng niu trân
trọng Mình Thánh Chúa trong thánh lễ ra sao thì con hãy làm như thế đối với người
cùng khổ." Mẹ là người vừa yêu mến Thiên Chúa trên trời lại vừa yêu mến
Chúa hịên diện trong những người khốn khổ. Mẹ không tách rời hai giới răn mến
Chúa và yêu người, nhưng mẹ đã yêu Thiên Chúa trong con người.
Khi hỏi tại sao người công giáo
chúng ta truyền đạo mà không thu hút được nhiều người về với Hội Thánh? Chắc chắn
là vì chúng ta chưa sống theo đạo yêu thương. Nếu chúng ta theo phương cách sống
đạo của mẹ Têrêxa Calcutta, tha thiết yêu mến Thiên Chúa nơi con người, thì đạo
chúng ta trở thành hấp dẫn, và bản thân chúng ta cũng có sức thu hút được nhiều
người như mẹ Têrêxa đã minh chứng bằng đời sống của mẹ: Mẹ được người đời xem
là bà thánh sống, được mọi người yêu mến, cả những người Hồi Giáo, Ấn giáo, Bà La
Môn và các đạo khác đều vô cùng quý mến mẹ.
Nhân ngày Truyền Giáo, xin cho
chúng ta biết áp dụng phương thế truyền giáo tuyệt hảo của mẹ Têrêxa là yêu mến
Thiên Chúa trong con người, hy vọng nhờ đó, đạo Chúa trở thành một tôn giáo rất
đẹp, rất hấp dẫn và nhiều người sẽ quay về với đạo yêu thương nầy.
7. Chứng nhân trong sự hiệp nhất yêu thương
Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’
của Lm Tạ Duy Tuyền)
Thế giới ngày hôm qua cũng như
hôm nay luôn ngưỡng mộ những chứng nhân cho tình yêu. Một Tê-rê-sa thành Calcutta
nhỏ bé nhưng có một trái tim lớn lao đã làm cho cả thế giới kính phục. Ở Việt
Nam, người công giáo hay không công giáo họ vẫn nói với nhau về một vị giám mục
dám bỏ ngai tòa để đến ở cùng những người cùi tại trại cùi Di linh. Đó chính là
Đức Giám mục Cassien. Ngài đã dùng tình yêu để xoa dịu những những đau đớn cho
người cùng khổ. Ngài đã chết cho tình yêu, nên tình yêu của Ngài mãi ở lại nơi
dương thế qua mọi thời đại.
Hôm nay ngày khánh nhật truyền
giáo, thiết tưởng là dịp thuận lợi để chúng ta nhìn lại tinh thần chứng nhân
tin mừng của giáo hội sơ khai. Một giáo hội non trẻ nhưng có sức mạnh biến đổi
trần gian. Một giáo hội bị cấm đoán nhưng vẫn lan tỏa đến tận cùng thế giới. Một
giáo hội nhỏ bé nhưng ai cũng có tinh thần truyền giáo, khiến thánh Phao-lô đã
từng nói rằng: "Tôi trồng, Apolo tưới, Thiên Chúa mới cho mọc lên". Vậy
đâu là điểm son để giáo hội có thể vượt qua mọi trở ngại để phát triển và canh
tân bộ mặt trái đất? Thưa đó chính là tinh thần hiệp nhất yêu thương.
Theo sách tông đồ công vụ, thời
giáo hội sơ khai, các tín hữu "sống hiệp nhất với nhau, và để mọi sự là của
chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu"
(Tđcv 2, 44). Họ hợp nhất với nhau không chỉ về niềm tin mà còn hiệp nhất trong
tình liên đới chia sẻ của cải vật chất cho nhau. Sự liên đới này tạo nên một cộng
đoàn bác ái yêu thương, trong đó mỗi người đều được cộng đồng quan tâm, nâng đỡ
và chia sẻ cho nhau tùy theo nhu cầu của từng người.
Chính đời sống yêu mến nhau nơi
các tín hữu mà Giáo hội sơ khai đã được toàn dân thương mến. Sự thương mến đó
đã đem nhiều người về với Chúa. Sự thương mến đó cũng là nơi bảo vệ các tín hữu
khỏi những cuộc tàn sát của bạo chúa hung tàn. Vâng, nếu ngày xưa cộng đoàn
Giáo hội sơ khai đã được "toàn dân thương mến" (Tđcv 2,47a), thì đời
sống của xứ đạo chúng ta hôm nay, cũng phải là một cộng đoàn được những người
chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến thân thương. Đó cũng là cách chúng ta ca
tụng Chúa và giúp cho "càng ngày càng có nhiều người gia nhập Giáo hội"
(Tđcv 2, 47b).
Thế nên, tinh thần truyền giáo mời
gọi chúng ta hỗ trợ nhau không chỉ về tinh thần mà còn cả về vật chất, không chỉ
là những người có đạo mà còn cả những người lương dân. Đồng thời sự chia sẻ này
cũng nói lên sự xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét trong cộng đoàn để đón nhận
nhau trong tinh thần bác ái huynh đệ. Lấy "dĩ hòa vi quý" để sống hài
hòa, nâng đỡ đùm bọc lẫn nhau tạo nên một cộng đoàn chan hòa yêu thương, bác
ái, chia sẻ, cảm thông. Đó cũng là dấu chỉ cho thấy chúng ta là môn đệ Chúa
Giêsu, là chứng nhân của Tin mừng giữa lòng dân tộc Việt Nam.
Vì chưng, giới luật quan trọng nhất
của kytô giáo chính là Mến Chúa - yêu người, thì người người ky-tô hữu chúng ta
phải thể hiện điều đó qua từng lời nói, từng việc làm, luôn được cân nhắc cho vừa
ý trời và phù hợp với luân thường đạo lý làm người. Vì vậy, một đời sống chứng
nhân Tin mừng cũng phải thể hiện bằng một đời sống hòa hợp với cộng đồng, với
tha nhân. Nhất là biết thể hiện sự tương thân tương ái nơi cộng đồng giáo xứ, sự
hiệp nhất yêu thương trong tình huynh đệ với tha nhân, nhờ đó mà Tin mừng mới nở
hoa trên từng môi trường sống của người tín hữu. Chúng ta không thể là một người
kytô hữu tốt mà lại đối xử thật tồi tệ với anh chị em chung quanh. Lối sống này
không chỉ là lỗi luật Chúa mà còn là cớ vấp phạm cho những người chưa biết
Chúa. Nhà lãnh tụ Ganhi của An Độ đã từng nói: "Nếu những người kytô giáo
sống đúng tinh thần giáo lý của họ. Tôi sẽ mời gọi cả dân tộc Ấn trở lại".
Chúng ta không thể truyền giáo mà còn mang nặng tính bè phái, tỵ hiềm, chia rẽ.
Lối sống này đã không thu góp về cho giáo hội những tín đồ mới mà còn đẩy biết
bao người ra khỏi giáo hội bởi lối sống ích kỷ, độc đoán của chúng ta. Thực tế
đã có rất nhiều những cộng đoàn, những xứ đạo đổ vỡ vì sự bè phái đã phá đổ
tình hiệp nhất yêu thương. Đã có rất nhiều người bỏ đạo, chối đạo vì sự bất
khoan dung của chúng ta đã đẩy họ ra khỏi Giáo hội, khỏi cộng đoàn. Và cũng có
rất nhiều cái nhìn thiếu thiện cảm của anh em lương dân nhìn đến chúng ta, chỉ
vì chúng ta sống thiếu công bình, thiếu lòng bác ái, thiếu lòng bao dung.
Thế nên mỗi người tín hữu phải biết
sống tinh thần truyền giáo khởi đi từ lòng mến Chúa, yêu người nơi mỗi người
chúng ta. Chúng ta mến Chúa nên chúng ta hăng say truyền giáo. Chúng ta yêu mến
tha nhân nên chúng ta muốn chia sẻ niềm vui với tha nhân. Tình yêu mến mời gọi
chúng ta đi đến với tha nhân bằng một tình yêu chân thành, không khoe khoang,
không giả dối. Tình yêu mến mời gọi chúng ta dấn thân một cách quảng đại để đem
tình yêu Chúa nối kết tình người, đưa con người đến cùng Thiên Chúa và giúp con
người xích lại gần nhau.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đã
từ trời xuống để gieo tin mừng yêu thương vào cho nhân thế, nâng đỡ và giúp
chúng ta sống ơn gọi truyền giáo bằng một tình yêu mến nồng nàn. Ước gì đời sống
chúng ta cũng trở thành một lời chứng sống động cho tin mừng khi chúng ta dám sống
triệt để theo những đòi hỏi của tin mừng là mến Chúa trên hết mọi sự và yêu mến
tha nhân như chính mình. Amen.
8. Cách thức truyền giáo
Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’
của Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Hôm nay ngày khánh nhật truyền
giáo, chúng ta nghe âm vang lời mời gọi của Chúa vẫn còn vang vọng tới hôm nay:
"Anh em hãy đi khắp tứ
phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo". Chúa không nói
riêng một ai. Chúa mời gọi tất cả. Chúa không đòi hỏi khả năng, bằng cấp, học vị
mà chỉ cần có nhiệt huyết làm tông đồ cho Chúa. Chúa cũng không đòi hỏi người
truyền giáo phải hiểu biết tín lý thần học sâu xa, hay luân lý uyên thâm, Chúa
chỉ cần có lòng quảng đại dấn thân mở mang nước Chúa. Chúa đã sai 72 môn đệ ra
đi với đôi bàn tay trắng, thế mà khi trở về ai cũng vui mừng vì thành quả họ đã
đạt được. Chúa đã thưởng công cho mỗi người như nhau, không phân biệt người đến
sớm, kẻ đến muộn, người đạo gốc hay mới theo đạo. Từ người thợ giờ thứ 9 cho tới
giờ thứ 11 đều được ân thưởng theo lòng nhân từ của Chúa.
Vậy đâu là cách thức truyền giáo
hữu hiệu nhất cho người tông đồ của Chúa?
Thánh Gioan Tông đồ đã viết:
"Ngôi lời đã hoá thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta". Chúa Giêsu
là Lời hằng sống gieo vào thế gian, nhưng Lời đã mang lấy xác phàm giống như
chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngôi Lời đã trở thành nguồn ơn cứu độ để những ai
tiếp xúc với Ngài đều có thể nhận lãnh được sự sống dồi dào cả tinh thần lẫn thể
xác. Ngôi Lời đã mặc lấy thân phận con người, để có thể gần gũi, cảm thông và
chia sẻ với những khổ đau của con người. Cuộc sống của Ngài đã trở thành trở
thành lẽ sống cho con người, "Sống để yêu thương", và Ngài đã đi trọn
con đường tình yêu là "dám chết cho người mình yêu". Vì vậy, cách thức
duy nhất mà Chúa trối lại cho chúng ta là "anh em hãy yêu thương nhau như
Thầy đã yêu thương anh em". Lời Chúa và giáo huấn của Chúa phải trở thành
cung cách sống của người tín hữu. Một đời sống bác ái yêu thương mới thực sự là
phương thế hữu hiệu nhất để giới thiệu về Chúa cho tha nhân. Lời nói và việc
làm phải đi đôi với nhau. Mang danh kytô hữu và sống đời kytô hữu phải nên một
trong con người có đạo mới thực sự trở thành chứng nhân cho Chúa.
Vì vậy, Truyền giáo không thể chỉ
đi lễ, đọc kinh cầu nguyện là xong bổn phận chứng nhân cho Chúa. Nếu như thế mới
chỉ là hành vi trả lại công bằng cho Chúa, vì việc tạ ơn là hành vi đền đáp lại
ân ban của Thiên Chúa dành cho con người. Truyền giáo không phải là việc tuân
giữ các giới răn của Chúa. Nếu như thế mới là giữ đạo chứ chưa truyền đao. Truyền
giáo không phải là nói thật hay, thuyết trình thật hùng hồn là có thể đem nhiều
người về với Chúa. Nếu như thế mới chỉ là tiếp thị chứ chưa mang đạo vào đời
như muối như men ướp mặn trần gian.
Trong thông điệp "khánh nhật
truyền giáo 2006", Đức Thánh Cha Bênedictô 16 đã viết: "Sứ mạng truyền
giáo, nếu không được định hướng bởi Lòng mến, nếu không phát sinh từ một hành động
sâu xa của tình yêu thần thiêng, thì sứ mạng đó liền bị rút gọn về chỉ còn như
là một hành vi nhân ái và xã hội không hơn không kém. Tình yêu mà Thiên Chúa có
đối với mỗi người, kết thành trung tâm của kinh nghiệm sống và loan báo Phúc
Âm".
Như vậy, Đức Thánh Cha đã tái khẳng
định cách thức mà Chúa Giêsu muốn chúng ta đi đó là thực hành bác ái. Không có
lòng mến thì không thể trở thành nhân chứng cho niềm tin của mình. Yêu Chúa
luôn đi liền với yêu mến tha nhân. Và thánh Phaolô còn quả quyết "Lòng mến
chính là sợi giây ràng buộc chúng ta nên một với Đức Kytô".
Hôm nay nhân ngày khánh nhật truyền
giáo, chúng ta hãy rà xét lại lòng mến của chúng ta đã trở nên dấu chỉ của người
kytô hữu hay chưa? Ngày xưa cộng đoàn tín hữu tiên khởi họ đã sống thật hiệp nhất
với nhau, ngày ngày họ đến hội đường để nghe các tông đồ rao giảng. Họ chia sẻ
đời sống hằng ngày với nhau, để không ai phải thiếu thốn. Họ được toàn dân
thương mến và ngày càng có thêm nhiều người gia nhập Giáo Hội. Ước gì cộng đoàn
xứ đạo chúng ta cũng được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến, đầy
thiện cảm và tôn trọng, và ngày càng có những người muốn sống đời kytô hữu như
chúng ta. Amen.
9. Nối bước các thừa sai – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Trong tông huấn Ecclesia in Asia,
Đức Cố Gioan Hoàng Gioan Phao-lô II đã kêu gọi: "Thiên niên kỷ thứ nhất
truyền giáo cho Châu Âu. Thiên niên kỷ thứ hai truyền giáo cho Châu Mỹ. Thiên
niên kỷ thứ ba phải truyền giáo cho Á Châu".
Cách riêng với Giáo Hội việt Nam
năm 2003 mừng 470 năm Tin Mừng được rao giảng trên quê hương đất nước chúng ta,
các Đức Giám mục Việt Nam đã hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Thánh Cha, công bố
thư mục vụ mang tựa đề "Sứ Mạng Loan báo TinMừng Của Hội Thánh Việt Nam
Hôm Nay" đã khẳng định: "Đầu thiên niên kỷ mới, sứ mạng loan báo Tin
mừng được đặc biệt trao vào tay chúng ta. Chúng ta hãy tiếp bước các vị thừa
sai đầy nhiệt tình tông đồ, hãy phát huy truyền thống kiên cường của các bậc tiền
nhân anh hùng tử đạo. Ta hãy đáp lại kỳ vọng của Hội thánh đem Tin mừng cho anh
em trên lục địa mênh mông này. Và đặc biệt đem Tin mừng cho anh chị em sống
ngay trên quê hương Việt nam". (Thư chung 2003)
Hơn nữa, Giáo hội Việt Nam ngày
nay là con cháu của 117 vị thánh Tử Đạo và của hàng chục ngàn người Việt Nam đã
chết vì đạo. Nhưng gần 5 thế kỷ trôi qua, Giáo hội Việt Nam xem ra vẫn còn bé
nhỏ giữa lòng dân tộc Việt nam. Theo thống kê năm 2006 thì Giáo hội việt nam có
26 Giáo Phận, gồm khoảng 7 triệu giáo dân, trên tổng số hơn 80 triệu người Việt
Nam, chiếm tỉ lệ 6,62%.
Là người con của dân tộc Việt
Nam, là dòng máu các anh hùng Tử đạo Việt Nam chúng ta cần phải có bổn phận
loan báo Tin mừng cho chính quê hương, dân tộc của mình. Đạo làm người dạy
chúng ta phải "thương người như thể thương thân", thì đạo làm con
Chúa đòi hỏi chúng ta chia sẻ tất cả những gì mình có cho tha nhân, cho đồng loại.
Các thánh Tông Đồ, các vị Thừa Sai đã đem niềm vui lớn nhất là Tin mừng Chúa
Giêsu được công bố cho toàn thế giới. Các Ngài đã không quản ngại hy sinh tính
mạng để đổi lấy niềm vui ơn cứu độ được trao ban tới muôn triệu tâm hồn.
"Từng đoàn người vượt suối băng rừng. Từng đoàn người ra khơi giữa biển rộng
sóng lớn. Biết bao người bỏ mạng nơi rừng sâu núi thẳm. Biết bao người bỏ xác
ngoài biển khơi. Nhưng lớp này nằm xuống, lớp khác đứng lên nối tiếp nhau đem
Tin mừng đến tận cùng thế giới". (Thư chung 2003)
Nhờ các vị thừa sai tràn đầy nhiệt
huyết, quê hương Việt Nam đã được đón nhận Tin mừng. Nhờ đời sống đức tin anh
dũng của các bậc tiền nhân mà thế hệ chúng ta được thừa hưởng một gia tài đức
tin vô cùng quý giá. Gia sản này chúng ta không có quyền lưu giữ cho riêng
mình, nhưng phải có bỗn phận chia sẻ cho con người thời đại hôm nay. Chúa Giêsu
sau khi phục sinh, Ngài đã uỷ thác cho Hội Thánh nhiệm vụ loan báo tin mừng khi
Ngài nói: "Anh em hãy đi tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin mừng" (Mc
16,15). Lệnh truyền này đã trở thành sứ mạng chính yếu của Hội Thánh Chúa
Ky-tô. Hội thánh hiện hữu là để loan báo Tin mừng và làm cho những ai thành tâm
đón nhận Tin mừng trở nên môn đệ Chúa Ky-tô, đồng thời quy tụ cho Thiên Chúa mọi
con cái tản mác khắp nơi về một mối (Ga 10,52). Thế nên, là người công dân của
Nước Trời, chúng ta phản có bỗn phận chu toàn sứ vụ đó cho anh chị em chung
quanh chúng ta, cụ thề là cho chình đồng bào và dân tộc Việt Nam.
Vậy,
truyền giáo là gì?
Theo công đồng Vat II: "Việc
truyền giáo là tất cả những công tác đặc biệt qua đó các nhà rao giảng Phúc âm
được Giáo hội sai đi khắp thế gian, thi hành nhiệm vụ rao giảng Phúc âm và vun
trồng Giáo hội nơi các dân tộc cũng như giữa những nhóm người chưa tin vào
Chúa". (TG 6c)
Trước đó, cha Pierre Charles cũng
cho rằng: "mục tiêu truyền giáo không phải là cứu rỗi các linh hồn",
hoặc "làm cho dân ngoại trở về với Chúa"...; song là "mở rộng
biên cương Giáo hội hữu hình, nhằm hoàn tất tiến trình lớn lên, hầu bao phủ
toàn thế giới với lời cầu nguyện và việc phụng tự, tức là để mang cho Đấng Cứu
Thế toàn bộ gia sản của Ngài".
Như vậy, việc truyền giáo là
"đưa Thiên Chúa đến với con người và đưa con người trở về với Thiên
Chúa". Đó chính là mục tiêu chính của việc truyền giáo và cũng là sứ mạng
cấp bách của Giáo hội Chúa Ky-tô. Vì Giáo hội được hình thành để tiếp nối sứ mạng
của Chúa Giêsu, Đấng sang lập Giáo hội. Khi hoàn tất sứ mạng của mình ở trần
gian, Chúa Giêsu đã sai phái các tông đồ tiếp tục sứ mạng đó cho đến tận cùng
trái đất. "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sia anh em" (Ga 20,
21". "Anh em hãy làm chứng cho Thầy khởi đầu từ Giê-ru-sa-lem đến tận
cùng trái đất" (Lc 24, 47)
Vì vậy, là người công giáo chúng
ta phải có bổn phận mang Tin mừng của Chúa đến cho anh em minh. Hãy tiếp nối sứ
mạng của Chúa Ky-tô đưa muôn người đang còn tản mác khắp nơi về với Chúa. Hãy
tiếp nối truyền thống của các Thừa sai Việt Nam mang Tin mừng đến cho những anh
em nghèo đói, đến những phận người bị bỏ rơi . . Hãy tiếp nối tinh thần
quả cảm hy sinh, kiên cường của các tiền nhân mà mạnh dạn làm chứng cho Chúa,
cho dù có bị thua thiệt trước mặt người đời, cho dù có bị hiểu lầm, ngược
đãi... nhưng cùng chịu chết với Đức Ky-tô là một mối lợi mà không có một gia sản
nào trên trần gian có thể sánh bằng.
Nguyện xin Chúa Giêsu là người thợ
lành nghề được sai đến trần gian để gặt lúa của Người, xin giúp chúng con biết
dấn thân quảng đại vào cánh đồng truyền giáo Việt Nam hôm nay. Amen.
10. Chứng tá
Truyền giáo là nhiệm vụ của mọi
Kitô hữu. Đây là điều công đồng Vaticanô II nhắc đi nhắc lại nhiều lần: việc
rao giảng Tin Mừng là bổn phận chính yếu. Bổn phận căn bản của Giáo hội và mỗi
Kitô hữu. Công đồng đã làm nổi bật vấn đề truyền giáo và đã định nghĩa Giáo hội
là Giáo hội truyền giáo và coi việc truyền giáo là nghĩa vụ tông đồ của mỗi
Kitô hữu. Theo công đồng, không một tín hữu nào đáng gọi là tín hữu mà có thể
khước từ nhiệm vụ truyền giáo. Việc truyền giáo không thể là một việc tùy sở
thích, nhưng mỗi tín hữu phải coi đây là vấn đề sống đạo, vấn đề sinh tồn của
Giáo hội và là trách nhiệm của chính mình.
Đối với người giáo dân, qua sắc lệnh
về tông đồ giáo dân. Công đồng còn cho thấy vai trò quan trọng của người giáo
dân trong việc truyền giáo, vai trò là men, là muối, là ánh sáng, là chứng nhân
giữa đời. Bởi vì giáo sĩ không thể sống chân bùn tay lấm nơi đồng ruộng với những
nông dân; giáo sĩ không thể gồng gánh theo chân những người buôn bán đi vào đầu
đường xó chợ; giáo sĩ không thể đầu tắt mặt tối làm việc trong những cơ xưởng,
nhà máy, công trường… nhưng chính những giáo dân nhà nông, những giáo dân buôn
bán, những giáo dân công nhân, có nhiệm vụ đem Chúa đến cho anh em mình nơi đồng
ruộng, chợ búa, xí nghiệp, nhà máy, nghĩa là những nơi mà giáo sĩ không thể có
mặt và không thể đi đến, thì giáo dân sẽ đóng vai trò chủ chốt và chủ động. Bởi
đó, không những giáo dân đóng vai trò yểm trợ cho giáo sĩ mà còn đóng vai trò
chính yếu, thay thế cho giáo sĩ trong những nơi hay những hoàn cảnh đó.
Như vậy cách truyền giáo tốt nhất
và có hiệu quả nhất là đời sống gương mẫu, đời sống Công giáo đích thực, nhất
là đời sống thể hiện tình yêu thương của chúng ta. Nếu chúng ta sống thực sự
yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo, khi chúng ta chứng minh tình yêu
bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những bạn tốt, những công nhân
gương mẫu trong nhà máy, những công nhân gương mẫu ngoài công trường. Tóm lại,
chúng ta hãy nắm lấy những cơ hội đi lại đây đó, khi thi hành công tác, khi làm
ăn sản xuất, khi xê dịch thăm viếng… để nói hay làm chứng về Chúa qua lời nói,
thái độ và cách đối xử đầy tình yêu thương của chúng ta.
Mẹ Têrêxa Cancutta đã định nghĩa
về một nhà truyền giáo như sau: đó là “một tín hữu Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ
không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến
Ngài”. Mẹ Têrêxa không chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng những
lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt của Chúa Giêsu bằng
chính cuộc sống yêu thương phục vụ của Mẹ. Do đó, truyền giáo thiết yếu đối với
Mẹ Têrêxa là dùng cả cuộc sống của mình để làm cho người ta biết và yêu mến
Chúa Giêsu, truyền giáo không chỉ là rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia
sẻ một cuộc sống yêu thương.
Có người đã kể lại lý do và động
lực thúc đẩy ông theo đạo như sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đưa tôi vào bệnh
viện, không ai chăm sóc tôi cả ngoài một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và tận
tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng
trong phòng, tôi hỏi: “Chị quỳ làm gì thế?”. Chị trả lời: “Tôi cầu nguyện cho
ông”. Chỉ mấy tiếng đó thôi đủ làm cho tôi bấy lâu không biết Chúa, bây giờ được
biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi người chị y tá ấy. Giữa những đau khổ thể xác và
tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương
của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy
gương sáng và tình yêu thương là bằng chứng cho người ta nhận ra Thiên Chúa. Có
nhiều người không bao giờ thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà thờ, vì họ có
đạo đâu mà đến nhà thờ, nhưng họ thấy cách chúng ta biểu lộ tình thương với họ
hay với những người chung quanh mà họ nhận ra Thiên Chúa của tình yêu. Nếu
chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo Chúa, khi
chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những
người bạn tốt của nhau.
Trong thư mục vụ năm 2003 của các
giám mục Việt Nam, số 10 cũng nói đến cách truyền giáo này: cầu nguyện cho việc
truyền giáo là việc quan trọng hàng đầu, việc truyền giáo phải đặt nền tảng
trên lời cầu nguyện: cá nhân, gia đình, cộng đoàn, giáo xứ. Trước khi rao giảng
bằng lời nói, hãy rao giảng bằng đời sống, chúng ta hãy nêu gương về đời sống
hiệp nhất yêu thương, không có lời rao giảng nào có sức thuyết phục bằng sự hiệp
nhất yêu thương trong gia đình, xóm làng, trong giáo xứ, trong giáo phận, như lời
Chúa phán: “Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết anh em là môn đệ của Thầy, ấy
là nếu anh em thương yêu nhau”.
Tóm lại, ngày thế giới truyền
giáo hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy luôn ý thức về sự quan trọng của việc truyền
giáo và nhắc nhở chúng ta hãy góp phần mình vào công cuộc truyền giáo của Giáo
hội bằng việc cầu nguyện và bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta.
11. Truyền giáo
“Mỗi người ở ngoài Chúa là một
cánh đồng truyền giáo, và mỗi người ở trong Chúa là một nhà truyền giáo”. Câu
nói trên rất đúng và cũng rất hay.
“Mỗi người ở ngoài Chúa là một
cánh đồng truyền giáo”. Điều đó rất đúng. Như vậy, cánh đồng truyền giáo vẫn
còn bao la, mênh mông. Mặc dầu Tin Mừng đã được loan truyền và đạo Chúa đã được
thiết lập cả hai ngàn năm rồi mà số đông vẫn chưa được nghe biết Tin Mừng, hay
nói ngược lại, chưa được một phần ba nhân loại nhận biết Chúa Kitô. Với đà gia
tăng dân số kinh khủng hiện nay, thì một ngày kia số ngày tin theo Chúa sẽ trở
thành thiểu số đáng ngại.
Các nước được mệnh danh là “Công
giáo” như Tây Ban Nha, Pháp, Ý… có tới 70-80 phần trăm dân số được rửa tội,
nhưng được mấy chục phần trăm sống theo đức tin? Từ hơn nửa thế kỷ rồi, ngay giữa
Âu Châu đã vang lên những lời cảnh tỉnh: “Nước Pháp, xứ truyền giáo”. Nước Pháp
mà còn gọi là xứ truyền giáo thì nói gì đến những xứ truyền giáo chính hiệu như
ở Á Châu, Phi Châu. Hai nước có dân số lớn nhất nhì thế giới là Trung Quốc và
An độ, chỉ có không tới một phần trăm là Công giáo. Nếu đất nước chúng ta đã thấm
nhiều máu tử đạo và đang có một cộng đồng Công giáo tương đối đông đảo, thì sát
cạnh nước chúng ta, hai nước Lào và Campuchia kể như vẫn chưa được rao giảng
Tin Mừng.
Ngay tại Việt Nam chúng ta, tính
đến ngày 31-12-2004, số người Công giáo trên toàn quốc là 5.776.972 người trên
tổng số dân cả nước là 82.032.300 người, chiếm tỷ lệ khoảng 7,04% dân số. Việt
Nam vẫn còn là xứ truyền giáo, và việc truyền giáo vẫn luôn là vấn đề cấp bách.
Chính vì sự cấp bách đó nên Giáo Hội luôn luôn cổ võ tinh thần truyền giáo, nhất
là trong những văn kiện gần đây của Công đồng Vaticanô II cũng như của các Đức
Giáo Hoàng. Cũng nhằm mục tiêu đó, mỗi năm Giáo Hội dành riêng một Chúa Nhật để
cầu cho công cuộc truyền giảng Tin Mừng, kêu gọi các tín hữu cầu nguyện, hy
sinh, đóng góp, đồng thời thúc giục mọi người tham gia vào công cuộc cao quý vĩ
đại ấy.
Truyền giáo là bổn phận của mọi
người và mỗi người, việc truyền giáo không của riêng ai, và không phải là một
việc làm tùy sở thích, muốn làm hay không cũng được, đây là một bổn phận, một
nhiệm vụ bắt buộc, không ai có quyền trốn tránh và không ai có lý do nào tự miễn
chuẩn cho mình hay tự bào chữa cho mình được. Từ một em bé đến một cụ già, từ một
bệnh nhân đến một lực sĩ, từ một người buôn bán đi khắp đó đây đến một người nội
trợ, từ một người bình dân đến một người trí thức… trong mỗi hoàn cảnh sinh sống,
ai cũng phải truyền giáo, người nào cũng có thể tìm thấy cách thức truyền giáo
thích hợp với khả năng của mình. Do đó, “Mỗi người ở trong Chúa là một nhà truyền
giáo”, câu nói đó rất đúng, mỗi người chúng ta phải là một nhà truyền giáo.
Đành rằng không phải ai cũng có
thời giờ hoặc khả năng làm công việc truyền giáo trực tiếp, nhưng tất cả mọi người
đều có thể và phải thực hiện cách gián tiếp. Chẳng hạn, cầu nguyện cho việc
truyền giáo; đóng góp vào việc truyền giáo bằng những hy sinh; bớt tiêu xài một
chút trong gia đình hay cho cá nhân mình để đóng góp vào công cuộc truyền giáo,
nhưng trên hết là truyền giáo bằng đời sống chứng nhân. Đây là cách truyền giáo
tốt nhất và hữu hiệu nhất: Truyền giáo bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta, một
đời sống đạo đức chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm gương sáng trước mặt
mọi người.
Cách đây khá lâu, có một cuốn
Phim Việt Nam gây được nhiều chú ý ở ngoại quốc là phim “Chuyện Tử tế” của đạo
diễn Trần văn Thuỷ, phim được hãng truyền hình Pháp mua và trình chiếu trong
chương trình có tên là Đại Dương. Sau khi xem cuốn phim này, một ký giả ngoại
quốc đã hỏi đạo diễn Trần văn Thuỷ: “Những người Kitô Việt Nam có thể làm gì để
truyền giáo cho dân tộc họ?” Nhà đạo diễn đã trả lời: “Với tôi, điều người ta
mong đợi ở các Kitô-hữu là niềm tin của họ và họ phải sống điều họ tin”. Lời
phát biểu trên đáng để chúng ta suy nghĩ. Sống trong một đất nước còn nhiều khó
khăn, sống trong một dân tộc còn nhiều người chưa biết Chúa, sống trong một xã
hội còn nhiều tiêu cực, thì đối với người Kitô, tin và sống niềm tin của mình
là phải sống, phải tin thật tử tế, tức là tin và sống tình nhân loại, sống quảng
đại, tóm lại là sống tình người. Tin và sống như thế không phải chỉ là cách sống
dành cho các nữ tu, các linh mục mà cũng chính là sứ mạng và ơn gọi của mỗi
Kitô hữu.
Trong Tin Mừng, chúng ta thấy
Chúa Giêsu không chỉ sai 12 tông đồ đi rao giảng nhưng Ngài sai tất cả 72 môn đệ.
Điều này có nghĩa là việc rao giảng Tin Mừng không phải chỉ dành cho một số
thành phần trong Giáo Hội: Giám mục, linh mục, tu sĩ, nhưng là bổn phận của mọi
người và mỗi người. Điều đáng chú ý nữa là khi sai các môn đệ đi rao giảng,
Chúa Giêsu không mấy chú trọng đến phương tiện. Phương tiện mà Chúa trao cho họ
là đừng mang theo túi tiền, bao bị gì cả, phương tiện duy nhất và tiên quyết là
đem lại bình an cho mọi người, là sống chia sẻ, sống trọn tình người với họ.
Tóm lại là sống tử tế với mọi người.
Sống tử tế là sống vui tươi, sống
lạc quan, sống biết điều, sống lịch sự, sống cảm thông, sống yêu thương với mọi
người, sống như thế là chúng ta đang góp phần làm cho danh Chúa được cả sáng và
nước Chúa được trị đến, tức là chúng ta đang truyền giáo vậy.
12. Hãy loan báo Tin mừng
Một đạo sĩ hỏi các đệ tử: Các con
có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện, khi nào ánh sáng tới và bóng tối lui
đi không? Các đệ tử thi nhau trả lời: Thưa thầy, có phải đêm tàn và ngày xuất
hiện là khi từ xa nhìn một đoàn vật người ta có thể phân biệt được con nào là
con bò con nào là con trâu không? Thày lắc đầu: không phải. Đệ tử khác trả lời:
Thưa thầy có phải ánh sáng tới và bóng tối lui là khi từ xa nhìn vào vườn cây,
người ta có thể phân biệt được cây nào là cây xoài cây nào là cây mít không? Thầy
vẫn lắc đầu: không phải. Thấy không ai trả lời được, thầy mới giải nghĩa: Đêm
tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nào ta nhìn vào mặt
người xa lạ và nhận ra đó là anh em mình.
Thật là khó hiểu. Tuy trên đời ta
thấy có nhiều thứ ánh sáng. Có ánh sáng mặt trăng mặt trời. Có ánh sáng đèn dầu,
đèn điện. Có những ánh sáng như tia X, tia hồng ngoại. Nhưng tất cả những ánh
sáng đó chỉ giúp ta nhìn rõ sự vật. Không thấy có thứ ánh sáng nào soi vào mặt
người xa lạ mà biến người ấy thành người thân của mình.
Mẹ Têrêxa dường như đã tìm ra thứ
ánh sáng ấy. Mẹ là một nữ tu người Anbani, được sai đến phục vụ người nghèo tại
Ấn Độ, thấy người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người hấp hối ngoài lề đường.
Chết rồi xác bị quẳng vào đống rác như xác thú vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi.
Biết bao gia đình chui rúc trong các căn nhà ổ chuột. Biết bao người đói khát
không đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo.
Một hôm Mẹ đi thăm một ông già cô
đơn trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ phải động lòng thương cảm. Vì tất cả
đồ đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức tưởng tượng.
Và nhất là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông
cũng không thèm muốn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm thinh.
Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau
khi lau chùi, Mẹ kêu lên: Ô, cây đèn đẹp quá. Ông già nói: Đó là cây đèn tôi tặng
vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa. Thấy ông đã
cởi mở, Mẹ Têrêxa đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày đến
thăm và đốt đèn cho ông không? Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các chị tới
thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn ấm áp trong căn lều ấm
cúng. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đi thăm mọi người. Mọi người đến thăm ông. Cuộc
đời ông vui tươi trở lại.
Trước kia cuộc đời ông tăm tối
không phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã tắt.
Trái tim khép kín nên ông mất niềm tin vào con người, vào cuộc sống. Ông nhìn mọi
người như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời ông vui lên, sáng lên. Đời
ông sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hỏa soi sáng. Nhưng vì trái tim ông
bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi
người là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc âm, khi người Samaritanô
nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương cho người bị nạn bên đường. Hai
người nhìn nhau. Một làn ánh sáng lóe lên. Và họ nhận ra nhau là anh em.
Cứ như thế Mẹ Têrêxa miệt mài phục
vụ người nghèo. Lập những trung tâm đón tiếp những người hấp hối, săn sóc để họ
được chết, được chôn cất như một con người. Nuôi trẻ mồ côi. Xây bệnh viện. Xây
trường học. Công việc càng ngày càng mở rộng. Số người theo Mẹ ngày càng đông
và Mẹ lập dòng Nữ tử Thừa sai Bác ái chuyên phục vụ người nghèo. Hiện nay nhà
dòng đã có mặt trên 132 quốc gia. Mẹ được thế giới biết tiếng. Mẹ được nhiều giải
thưởng trong đó có giải Nobel Hòa bình. Năm 1997, khi Mẹ qua đời, 80 nguyên thủ
quốc gia, trong đó có phu nhân tổng thống Mỹ Bill Clinton và phu nhân tổng thống
Pháp Jacques Chirac đã đến dự đám tang. Và nước Ấn Độ, đa số dân theo Ấn Độ
giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, đã chôn cất Mẹ theo nghi thức quốc tang. Hai
mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về trời.
Mẹ Têrêxa là một nhà truyền giáo
thành công của thế kỷ 20. Vì Mẹ đã biết thắp lên ngọn đèn soi trong đêm tối. Giữa
đêm tối vật chất hưởng thụ. Mẹ đã thắp lên ngọn đèn siêu nhiên của thiên đàng.
Giữa đêm tối rụt rè nghi kỵ Mẹ đã thắp lên ngọn đèn ấm áp tình người. Trái tim
Mẹ là một ngọn đèn sáng. Ánh sáng ấy tỏa lan tới muôn người làm cho mọi người
nhận biết khuôn mặt hiền lành khiêm nhường của Đức Kitô và làm cho mọi người nhìn
nhau là anh em.
Vào thời Cộng sản còn mạnh và còn
chống đối Công giáo kịch liệt, Mẹ Têrêxa vẫn có thể lập nhà ở Nga, ở Cuba và cả
ở Việt Nam. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã có thể đi khắp thế giới như lời Chúa
truyền. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng khắp thế giới.
Hôm nay Giáo hội cầu nguyện cho
việc truyền giáo. Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta góp phần vào việc truyền
giáo. Không gì bằng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, thắp lên ngọn lửa tin yêu trong
lòng mình, đem ngọn lửa yêu thương phục vụ soi sáng khắp nơi. Thế giới sẽ bừng
sáng và mọi người sẽ nhìn nhận nhau là anh em.
3. Đời sống chứng nhân
Hôm nay, ngày thế giới truyền
giáo. Chúng ta cùng tìm hiểu xem: Truyền giáo là gì? Chúng ta phải truyền
giáo thế nào?
Trước hết, truyền giáo là gì?
Truyền là truyền bá, truyền
thông, chuyển giao, rao giảng, loan truyền… Giáo là giáo lý, đạo giáo, Tin Mừng,
Phúc âm… Truyền giáo là truyền bá đạo, là rao giảng Phúc âm, là loan truyền
chân lý của Chúa cho người khác. Đó là ý nghĩa thứ nhất, nghĩa hẹp, nghĩa chặt
và chính xác. Đàng khác, truyền giáo còn có nghĩa là lập những cộng đoàn Kitô hữu
trong đức tin, trong phụng tự Thánh Thể, bác ái như Giáo hội mong muốn. Nói
khác đi, truyền giáo là “trồng” Giáo hội vào các dân tộc, các địa phương, cho đến
khi những người trong địa phương ấy trở nên tín hữu, thành một đoàn chiên. Theo
ý nghĩa này, truyền giáo không phải chỉ là truyền bá một số giáo lý, nhưng là
truyền thông sự sống của Chúa cho anh em khác, vì Thiên Chúa là Đấng hằng sống,
đạo Chúa là đạo sự sống, là nguồn sống, có khả năng thay đổi, biến cải những
con người từ không có Chúa trở thành có Chúa, từ mất Chúa trở thành tìm lại được
Chúa. Truyền giáo theo nghĩa này là truyền sự sống của Chúa Kitô mà chúng ta đã
có sang cho anh em mình, như thân cây nho chuyển nhựa sống sang cho cành nho.
Sau hết, truyền giáo còn có một nghĩa nữa là củng cố, tăng cường, huấn luyện đức
tin cho một cộng đoàn, cho các tín hữu, để họ lại ra đi truyền giáo cho những
người khác.
Những ý nghĩa trên đây cho thấy
hai chiều của việc truyền giáo: chiều rộng và chiều sâu. Nếu làm cho những người
chưa biết Chúa hoặc những người biết mà đã bỏ Chúa, được nhận biết và yêu mến
Chúa. Đó là truyền giáo theo chiều rộng, là mở rộng nước Chúa và làm tăng thêm
số người thờ phượng Chúa. Còn nếu làm cho những người đã biết và yêu mến Chúa
được hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, để rồi họ lại tiếp tục làm những công việc ấy
nơi những người khác. Đó là truyền giáo theo chiều sâu, vì làm cho nước Chúa được
vững chắc hơn và làm tăng thêm số người Công giáo sốt sắng, đạo đức.
Việc phân biệt ý nghĩa như trên
đây rất quan trọng để chúng ta hiểu rõ hơn việc truyền giáo, vì truyền giáo
không phải chỉ có nghĩa là làm cho những người ngoại, những người lương, những
người chưa biết được biết và yêu mên Chúa, nhưng còn có nghĩa là truyền giáo
cho cả những người Công giáo sống trong một họ, một xứ với chúng ta nữa. Chúng
ta phải sống một đời đạo đức, sốt sắng, thánh thiện để làm gương tốt cho họ, để
giúp cho họ thêm lòng yêu mến và tôn kính Chúa.
Đó là ý nghĩa của việc truyền
giáo. Và như vậy tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ truyền giáo. Việc truyền giáo
không của riêng ai và không phải là một việc làm tùy sở thích, muốn làm hay
không cũng được. Nhưng đây là một bổn phận, một nhiệm vụ bắt buộc. Mỗi người
chúng ta phải coi đây là vấn đề sống đạo, là vấn đề sinh tồn của Giáo Hội và là
trách nhiệm của chính mình.
Vậy chúng ta phải truyền giáo thế
nào?
rất nhiều cách. Chúng ta muốn
dùng cách nào cũng được, nhưng nhất thiết phải thi hành hai cách này là cầu
nguyện và đời sống chứng nhân: Cầu nguyện cho việc truyền giáo là cách thức rất
quan trọng: cầu nguyện cho những người đi truyền giáo, cầu nguyện cho mọi người
mở rộng lòng sẵn sàng đón nhận ơn Chúa, Lời Chúa. Cụ thể như thánh Têrêxa Hài Đồng
Giêsu, cả đời không đi đâu truyền giáo, chỉ ở trong bốn bức tường dòng kín cầu
nguyện cho việc truyền giáo. Thế mà Giáo Hội đã tôn phong ngài là quan thầy các
nơi truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê. Xin anh chị em hãy suy
nghĩ: Chúng ta có thường xuyên thi hành việc này không? Chúng ta có cầu nguyện
cho việc truyền giáo không? Nếu không thì đó là tội thiếu sót, bỏ việc phải
làm. Thứ hai là truyền giáo bằng chính đời sống chứng nhân của mình: Đây là
cách truyền giáo tốt nhất và hữu hiệu nhất, đó là truyền giáo bằng đời sống tốt
đẹp của chúng ta. Một đời sống đạo đức, chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm
gương sáng trước mặt mọi người. Một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn những
lời nói hay, vì “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo". Chúng ta hãy suy
nghĩ: đời sống chúng ta hiện nay có làm chứng cho Chúa, cho đạo không?
4. Hãy thả
lưới bên phải thuyền
Các Tông đồ đã đánh cá vất vả suốt
đêm mà không được con cá nào. Nay Chúa Giêsu bảo các ngài phải ra khơi một lần
nữa. Chắc các ngài phải ngần ngại lắm. Ngần ngại vì vừa qua một đêm vất vả,
thân thể mỏi nhừ vì suốt đêm phải vật lộn với biển cả, với sóng gió, với chài
lưới. Ngần ngại vì đang buồn ngủ. Mắt chĩu nặng vì suốt đêm không ngủ, đang cần
một giấc ngủ để hồi phục sinh lực. Ngần ngại vì vừa bị thất bại ê chề, đã mất hết
ý chí phấn đấu. Thế nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa, ra khơi, thả lưới. Và kết
quả thật là bất ngờ. Lưới đầy cá chất đầy hai thuyền đến gần chìm.
Qua bài Tin Mừng này Chúa muốn dạy
tôi những bài học về việc truyền giáo.
Bài học thứ nhất: Truyền
giáo là một công việc đòi hỏi vất vả. Phải lao động đêm ngày. Như các Tông đồ
đã chài lưới suốt đêm thâu trong sương đêm giá lạnh, trong sóng gió biển khơi,
trong vất vả cực nhọc. Suốt đêm đã lênh đênh trên biển cả, sáng sớm vừa mới về
tới đất liền, tưởng được nghỉ ngơi, không ngờ lại phải ra khơi ngay tức khắc.
Ra khơi cả lúc đang mệt mỏi cần nghỉ ngơi. Người muốn truyền giáo cũng phải noi
gương các tông đồ. Làm việc không nghỉ. Phải đầu tư sức lực và trí tuệ. Phải phấn
đấu không ngừng. Làm cho hết việc chứ không làm cho hết giờ. Và phải chấp nhận
tất cả những mỏi mệt, những thử thách.
Bài học thứ hai: Truyền giáo
là một công việc đòi hỏi kiên trì. Vì việc truyền giáo có nhiều thất bại hơn
thành công, có nhiều mệt nhọc hơn vui thích, nên việc truyền giáo đòi hỏi rất
nhiều kiên trì. Kiên trì khi đã gặp thất bại. Kiên trì khi đã chán nản, mệt mỏi
rã rời. Kiên trì khi gặp những trắc trở. Như lời thánh Phaolô khuyên dạy: “Hãy
rao giảng Lời Chúa. Hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện”
(2Tim 4,2). Các Tông đồ thật kiên trì, mặc dù đã thất bại sau suốt một đêm vất
vả, các ngài vẫn tiếp tục ra khơi theo lệnh Chúa truyền. Trong quá khứ, ta đã gặp
nhiều thất bại trong việc truyền giáo. Hôm nay Chúa lại mời gọi ta hãy ra khơi,
hãy lên đường truyền giáo. Ta hãy mau mắn đáp lời Chúa mời gọi, kiên nhẫn làm
việc trên cánh đồng truyền giáo, bất chấp mọi thất bại, bất chấp mọi chán nản.
Bài học thứ ba: Truyền giáo là một
công việc đòi hỏi thanh luyện bản thân. Truyền giáo là công việc thánh thiện
nên người truyền giáo phải thánh thiện. Sự thánh thiện khởi đi từ nhận thức
thân phận yếu hèn tội lỗi. Và từ đó nảy sinh nhu cầu được thanh luyện. Như
Phêrô cảm thấy mình tội lỗi không xứng đáng ở gần Chúa. Như Phaolô ngã ngựa cảm
thấy mình lầm lạc. Như Isaia cảm thấy môi miệng mình ô uế. Sau khi được thanh
luyện các ngài đã trở thành những nhà truyền giáo gương mẫu. Thánh hóa bản thân
là một điều kiện quan trọng để truyền giáo thành công.
Bài học thứ tư: Truyền giáo là một
công việc đòi hỏi lắng nghe Lời Chúa. Vì truyền giáo là một công việc thiêng
liêng. Nên ta không thể cậy dựa vào sức lực phàm nhân, phương tiện phàm trần.
Các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp. Các ngài biết rõ biển hồ Galilê như
lòng bàn tay. Thế mà các ngài đánh cá suốt đêm chẳng được con nào. Đó là bài học
dạy ta biết rằng, nếu cậy dựa vào tài sức riêng, việc truyền giáo sẽ không có kết
quả. Việc các tông đồ vâng lời Chúa ra khơi và vâng lời Chúa thả lưới bên phải
mạn thuyền cho ta thấy một thái độ khiêm nhường lắng nghe. Dù Chúa Giêsu không
phải là ngư phủ chính gốc. Dù Chúa Giêsu không hiểu biết biển hồ, nhưng các
ngài vẫn vâng lời Chúa. Chính nhờ thế, các ngài đã thành công. Người làm việc
truyền giáo phải noi gương các tông đồ biết khiêm nhường nhận biết sự bé nhỏ
nghèo hèn của bản thân để thao thức lắng nghe Lời Chúa. Chỉ làm theo Lời Chúa,
làm theo ý Chúa, làm vì Chúa việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng
ta một nghị lực mạnh mẽ để sẵn sàng chấp nhận những vất vả khổ cực trong việc
truyền giáo. Xin cho chúng ta biết chấp nhận cả những thất bại mà vẫn kiên trì
lên đường truyền giáo. Và nhất là xin cho mọi người chúng ta được Chúa dạy bảo,
để biết làm theo ý Chúa. Chỉ có như thế, việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp.
Lạy Chúa Giêsu, xin kêu gọi chúng
con lên đường truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin thanh luyện chúng con để xứng
đáng làm việc truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết cách làm việc
truyền giáo. Amen.
15. Thầy Ở Cùng Anh Em
Suy Niệm
Truyền giáo là một mệnh lệnh và
cũng là một ước mơ của Chúa Phục Sinh: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân
trở thành môn đệ."
Ngài đòi ta phải ra đi loan báo
Tin Mừng, nhưng cuối cùng là phải giúp người khác trở thành môn đệ của Chúa
Giêsu, nghĩa là có tương quan thân thiết với Ngài, dám sống như Ngài, sống cho
Cha và con người.
Đấng Phục Sinh nắm quyền trên cả
thế giới, nên Ngài sai chúng ta đến với mọi dân tộc. Tin Mừng không còn bị giới
hạn trong mảnh đất Israel, nhưng lan rộng khắp trái đất (x. Mt 10,5). Ngày nào
còn một người chưa trở thành môn đệ, ngày ấy trách nhiệm chúng ta vẫn còn.
"Bằng cách làm phép Rửa cho
họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần". Phép Rửa khiến người
ta trở thành môn đệ Đức Kitô, và đi vào tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa.
"Bằng cách dạy bảo họ tuân
giữ mọi điều Thầy truyền cho anh em", như thế các môn đệ thuộc bất cứ thời
đại nào đều có một điểm chung, đó là cùng tuân giữ toàn bộ giáo huấn của Chúa.
"Và đây Thầy ở cùng anh em mọi
ngày cho đến tận thế" Đây không phải là một lời hứa cho tương lai, nhưng
là một điều đang xảy ra trong hiện tại. Chúa Giêsu thật là Emmanuel (Mt 1,23),
Ngài ở cùng Giáo Hội, ở cùng các môn đệ, Ngài ở bên họ trong mọi bước đường rao
giảng (Mc 16,20).
Khi nhìn đến quê hương Việt Nam,
chúng ta thấy hơn 70 triệu người chưa biết Chúa. Chúng ta có trách nhiệm loan
báo Tin Mừng, có bổn phận nói về Chúa cho họ, nói bằng lời và nói bằng cuộc sống
cụ thể. Làm sao qua cuộc sống của tôi: yêu thương, tha thứ, hy sinh phục vụ,
bình an vui tươi, người ta gặp được Đấng Vô Hình mà gần gũi? Làm sao tôi có thể
trả lời được những câu hỏi, soi sáng được những vấn đề nhức nhối của họ bằng
ánh sáng Tin Mừng?
Truyền giáo không phải là tuyên
truyền hay mua chuộc, cũng không phải là áp đặt một cách tinh vi, Truyền giáo
là hát lên niềm vui chất chứa nơi lòng mình, là tỏa hương tự nhiên như đoá hoa.
Truyền giáo là hơi thở của một Giáo Hội đầy sức sống Thánh Thần.
Chúng ta phải biếu Chúa Giêsu cho
con người hôm nay. Nhưng trước hết chúng ta phải có Chúa Giêsu, và phải biết lắng
nghe con người.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, tại sao ít người Việt
Nam theo đạo Công Giáo? Có gì cần sửa đổi để người khác dễ chấp nhận đạo chúng
ta hơn không?
Cha Đắc Lộ đã đi truyền giáo ở Việt
Nam và đã đóng góp nhiều cho việc hình thành chữ Quốc Ngữ. Theo bạn, người Công
Giáo Việt Nam hôm nay có thể làm được điều gì cho quê hương Cha Đắc Lộ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa,
Chúa đã muốn trở nên con của loài người, con của trái đất, con của một dân tộc.
Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa dù họ từ khước Tin Mừng và đóng đinh Chúa vào
thập giá. Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương, một quê hương còn nghèo nàn
lạc hậu sau những năm dài chiến tranh, một quê hương đang mở ra trước thế giới
nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin cho chúng con đừng nhắm mắt
ngủ yên trong sự an toàn và tiện nghi vật chất, nhưng biết trăn trở trước nỗi
khổ đau, và làm một điều gì đó thật cụ thể cho những đồng bào quanh chúng con.
Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước bằng khối óc, quả tim và đôi tay. Và ước
gì chúng con biết khiêm tốn cộng tác với muôn người thiện chí.
16.
Truyền giáo
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – R.
Veritas)
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến
viếng thăm Ấn Độ hồi tháng 11.1999. Cao điểm của chuyến viếng thăm này là nghi
thức công bố Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu. Tông Huấn này là một đúc kết kết
quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tại Á Châu nhóm họp tại Rôma hồi tháng 4.1999.
Việc chọn Ấn Độ làm nơi công bố Tông Huấn mang một ý nghĩa đặc biệt. Những nơi
mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong mỏi đến viếng thăm nhất hẳn phải là Đài
Loan, Hồng Kông, Trung Hoa Lục Địa và đặc biệt là Việt Nam. Thế nhưng, cho đến
nay người ta vẫn cứ nại đến lý do chính trị và quan hệ ngoại giao để không cho
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm Giáo Hội ở phần đất này. Dĩ nhiên
đằng sau những lý do chính trị và quan hệ ngoại giao ấy, ai cũng thấy rõ chủ
trương bài trừ tôn giáo và nhất là chống lại Giáo Hội. Tựu trung linh hồn của bất
cứ một chế độ độc tài ý thức hệ nào cũng là tinh thần bất khoan nhượng. Người
dân không những bị cưỡng bách phải tuyên xưng ý thức hệ của chế độ mà còn bị kỳ
thị loại trừ và bách hại về niềm tin tôn giáo của mình.
Tuy là một quốc gia có nền dân chủ
lớn nhất thế giới hiện nay, Ấn Độ đang bị xâu xé vì tinh thần bất khoan nhượng.
Tại một quốc gia với một tỷ dân này, liên minh cầm quyền gồm những người theo
chủ nghĩa Ấn Giáo, trong đó có một số thành phần cực đoan lại tái cử thêm nhiệm
kỳ nữa, tinh thần bất khoan nhượng ngày càng gia tăng tại Ấn Độ. Trong những
năm gần đây, người ta ước tính là đã có gần 150 vụ tấn công nhắm vào nhân sự và
các cơ sở của Kitô Giáo, nhiều vị mục sư và linh mục bị sát hại, nhiều nữ tu bị
bạo hành, nhiều nhà thờ bị đốt phá.
Một nhóm Ấn Giáo cực đoan đã tổ
chức cuộc biểu tình phản đối nhân dịp Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Ii viếng thăm Ấn
Độ. Họ đòi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lên án các cuộc trở lại Công Giáo cũng
như xin lỗi người Ấn Độ về những phương pháp truyền giáo cho người Ấn trong quá
khứ. Chính trong bầu khí đầy bất khoan nhượng ấy mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II đã đến viếng thăm Ấn Độ, đúng hơn chính bầu khí bất khoan nhượng ấy đã khiến
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chọn Ấn Độ làm nơi để công bố Tông Huấn về Giáo Hội
Tại Á Châu.
Trong bầu khí đó chúng ta thấy rằng,
sứ điệp mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ngỏ với các tín hữu Kitô tại Ấn Độ
và toàn thể Á Châu, cũng như với tất cả mọi người Ấn Độ là sứ điệp về lòng
khoan nhượng. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trưng dẫn cuộc cách mạng bất bạo động
vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại do Mahatma Gandhi chủ xướng, Ngài cũng nói
đến tấm lòng khoan dung độ lượng của biết bao nhiêu nhà hiền triết Ấn Độ.
Quả thật, tôn giáo nào cũng tốt
trong một mức độ nào đó, câu nói này nói lên tinh thần khoan nhượng vốn là yếu
tính của tất cả mọi tôn giáo. Thật thế, tôn giáo nào cũng dạy con người ăn ngay
ở lành; tôn giáo nào cũng lên án ích kỷ, bạo động, hận thù và tinh thần bất
khoan nhượng.
Trong tuyển tập có tựa đề
"Con Đường Đơn Sơ" của Mẹ Têrêsa Calcutta, vị Sáng Lập Dòng Nữ Tu Thừa
Sai Bác Ái đã viết như sau: "Chỉ có một Thiên Chúa và Ngài là Thiên Chúa của
tất cả mọi người. Do đó, cần phải nhận ra mọi người bình đẳng trước mặt Chúa.
Tôi vẫn luôn luôn nói rằng, chúng ta phải giúp cho một người Ấn Giáo trở thành
người Ấn Giáo tốt hơn; một người Hồi Giáo được trở thành một người Hồi Giáo tốt
hơn và một người Công Giáo trở thành một người Công Giáo tốt hơn." Lễ quốc
táng mà chính phủ Ấn Độ đã dành cho Mẹ cách đây 4 năm chứng tỏ rằng, sứ điệp mà
Mẹ mang đến cho dân tộc này đã được mọi người đón nhận. Sứ điệp ấy không chỉ được
Mẹ Têrêsa nói lên bằng những lời nói suông mà còn bằng cả cuộc sống của Mẹ nữa.
Hôm nay là ngày thế giới truyền
giáo, chúng ta hiệp nhau cầu nguyện cho công việc truyền giáo của Giáo Hội,
chúng ta cầu nguyện cách đặc biệt cho các nhà thừa sai trên cánh đồng truyền
giáo của Giáo Hội. Chúng ta tuyên xưng rằng, Chúa Giêsu Kitô là Đấng duy nhất cứu
rỗi nhân loại, nhưng quan trọng hơn cả là chúng ta được Giáo Hội mời gọi mỗi
người ý thức về sứ mệnh truyền giáo của mình, nhất là hiểu được ý nghĩa đích thực
của việc truyền giáo trong thế giới hôm nay.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã định nghĩa
về một nhà truyền giáo: "Đó là một tín hữu Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ
không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến
Ngài". Mẹ Têrêsa không những chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa
Giêsu bằng những lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt
của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục vụ của Mẹ. Do đó, truyền
giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêsa là dùng cả cuộc sống của mình để làm cho người
ta biết và yêu mến Chúa Giêsu.
Truyền giáo không chỉ là rao giảng
một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu thương. Đây chính là cốt
lõi mà Chúa Giêsu cô đọng trong giới răn mến Chúa và yêu người được Giáo Hội
cho chúng ta lắng nghe trong Tin Mừng hôm nay. Trong xã hội mà Kitô giáo chỉ là
thiểu số thì truyền giáo đối với Kitô hữu hiện nay là quyết tâm sống như thế
nào để cho mọi người nhận biết Chúa Giêsu là Đấng đã đến chỉ để rao giảng một
thứ đạo, đó là đạo của tình thương. Trong một chế độ chối bỏ những quyền tự do
cơ bản nhất của con người, thì truyền giáo đối với các tín hữu Kitô hiện nay
chính là biểu lộ được bộ mặt đích thực của Đạo là yêu thương và khoan nhượng.
4.
người ta trở thành môn đệ Đức
Kitô, và đi vào tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa.
"Bằng
cách dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho anh em", như thế các môn
đệ thuộc bất cứ thời đại nào đều có một điểm chung, đó là cùng tuân giữ toàn bộ
giáo huấn của Chúa.
"Và
đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" Đây không phải là một lời
hứa cho tương lai, nhưng là một điều đang xảy ra trong hiện tại. Chúa Giêsu thật
là Emmanuel (Mt 1,23), Ngài ở cùng Giáo Hội, ở cùng các môn đệ, Ngài ở bên họ
trong mọi bước đường rao giảng (Mc 16,20).
Khi
nhìn đến quê hương Việt Nam, chúng ta thấy hơn 70 triệu người chưa biết Chúa.
Chúng ta có trách nhiệm loan báo Tin Mừng, có bổn phận nói về Chúa cho họ, nói
bằng lời và nói bằng cuộc sống cụ thể. Làm sao qua cuộc sống của tôi: yêu
thương, tha thứ, hy sinh phục vụ, bình an vui tươi, người ta gặp được Đấng Vô
Hình mà gần gũi? Làm sao tôi có thể trả lời được những câu hỏi, soi sáng được
những vấn đề nhức nhối của họ bằng ánh sáng Tin Mừng?
Truyền
giáo không phải là tuyên truyền hay mua chuộc, cũng không phải là áp đặt một
cách tinh vi, Truyền giáo là hát lên niềm vui chất chứa nơi lòng mình, là tỏa
hương tự nhiên như đoá hoa. Truyền giáo là hơi thở của một Giáo Hội đầy sức sống
Thánh Thần.
Chúng
ta phải biếu Chúa Giêsu cho con người hôm nay. Nhưng trước hết chúng ta phải có
Chúa Giêsu, và phải biết lắng nghe con người.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo
ý bạn, tại sao ít người Việt Nam theo đạo Công Giáo? Có gì cần sửa đổi để người
khác dễ chấp nhận đạo chúng ta hơn không?
Cha
Đắc Lộ đã đi truyền giáo ở Việt Nam và đã đóng góp nhiều cho việc hình thành chữ
Quốc Ngữ. Theo bạn, người Công Giáo Việt Nam hôm nay có thể làm được điều gì
cho quê hương Cha Đắc Lộ?
Cầu Nguyện
Lạy
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Chúa đã muốn trở nên con của loài người, con của
trái đất, con của một dân tộc. Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa dù họ từ khước
Tin Mừng và đóng đinh Chúa vào thập giá. Xin cho chúng con biết yêu mến quê
hương, một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu sau những năm dài chiến tranh, một
quê hương đang mở ra trước thế giới nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc và bảo
vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin
cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên trong sự an toàn và tiện nghi vật chất,
nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau, và làm một điều gì đó thật cụ thể cho những
đồng bào quanh chúng con. Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước bằng khối óc,
quả tim và đôi tay. Và ước gì chúng con biết khiêm tốn cộng tác với muôn người
thiện chí.
16. Truyền giáo
(Trích
trong ‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas)
Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm Ấn Độ hồi tháng 11.1999. Cao điểm của
chuyến viếng thăm này là nghi thức công bố Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu.
Tông Huấn này là một đúc kết kết quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tại Á Châu
nhóm họp tại Rôma hồi tháng 4.1999. Việc chọn Ấn Độ làm nơi công bố Tông Huấn
mang một ý nghĩa đặc biệt. Những nơi mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong mỏi
đến viếng thăm nhất hẳn phải là Đài Loan, Hồng Kông, Trung Hoa Lục Địa và đặc
biệt là Việt Nam. Thế nhưng, cho đến nay người ta vẫn cứ nại đến lý do chính trị
và quan hệ ngoại giao để không cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm
Giáo Hội ở phần đất này. Dĩ nhiên đằng sau những lý do chính trị và quan hệ ngoại
giao ấy, ai cũng thấy rõ chủ trương bài trừ tôn giáo và nhất là chống lại Giáo
Hội. Tựu trung linh hồn của bất cứ một chế độ độc tài ý thức hệ nào cũng là
tinh thần bất khoan nhượng. Người dân không những bị cưỡng bách phải tuyên xưng
ý thức hệ của chế độ mà còn bị kỳ thị loại trừ và bách hại về niềm tin tôn giáo
của mình.
Tuy
là một quốc gia có nền dân chủ lớn nhất thế giới hiện nay, Ấn Độ đang bị xâu xé
vì tinh thần bất khoan nhượng. Tại một quốc gia với một tỷ dân này, liên minh cầm
quyền gồm những người theo chủ nghĩa Ấn Giáo, trong đó có một số thành phần cực
đoan lại tái cử thêm nhiệm kỳ nữa, tinh thần bất khoan nhượng ngày càng gia
tăng tại Ấn Độ. Trong những năm gần đây, người ta ước tính là đã có gần 150 vụ
tấn công nhắm vào nhân sự và các cơ sở của Kitô Giáo, nhiều vị mục sư và linh mục
bị sát hại, nhiều nữ tu bị bạo hành, nhiều nhà thờ bị đốt phá.
Một
nhóm Ấn Giáo cực đoan đã tổ chức cuộc biểu tình phản đối nhân dịp Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô Ii viếng thăm Ấn Độ. Họ đòi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lên án
các cuộc trở lại Công Giáo cũng như xin lỗi người Ấn Độ về những phương pháp
truyền giáo cho người Ấn trong quá khứ. Chính trong bầu khí đầy bất khoan nhượng
ấy mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đến viếng thăm Ấn Độ, đúng hơn chính bầu
khí bất khoan nhượng ấy đã khiến Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chọn Ấn Độ làm
nơi để công bố Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu.
Trong
bầu khí đó chúng ta thấy rằng, sứ điệp mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ngỏ
với các tín hữu Kitô tại Ấn Độ và toàn thể Á Châu, cũng như với tất cả mọi người
Ấn Độ là sứ điệp về lòng khoan nhượng. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trưng dẫn
cuộc cách mạng bất bạo động vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại do Mahatma
Gandhi chủ xướng, Ngài cũng nói đến tấm lòng khoan dung độ lượng của biết bao
nhiêu nhà hiền triết Ấn Độ.
Quả
thật, tôn giáo nào cũng tốt trong một mức độ nào đó, câu nói này nói lên tinh
thần khoan nhượng vốn là yếu tính của tất cả mọi tôn giáo. Thật thế, tôn giáo
nào cũng dạy con người ăn ngay ở lành; tôn giáo nào cũng lên án ích kỷ, bạo động,
hận thù và tinh thần bất khoan nhượng.
Trong
tuyển tập có tựa đề "Con Đường Đơn Sơ" của Mẹ Têrêsa Calcutta, vị
Sáng Lập Dòng Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái đã viết như sau: "Chỉ có một Thiên
Chúa và Ngài là Thiên Chúa của tất cả mọi người. Do đó, cần phải nhận ra mọi
người bình đẳng trước mặt Chúa. Tôi vẫn luôn luôn nói rằng, chúng ta phải giúp
cho một người Ấn Giáo trở thành người Ấn Giáo tốt hơn; một người Hồi Giáo được
trở thành một người Hồi Giáo tốt hơn và một người Công Giáo trở thành một người
Công Giáo tốt hơn." Lễ quốc táng mà chính phủ Ấn Độ đã dành cho Mẹ cách
đây 4 năm chứng tỏ rằng, sứ điệp mà Mẹ mang đến cho dân tộc này đã được mọi người
đón nhận. Sứ điệp ấy không chỉ được Mẹ Têrêsa nói lên bằng những lời nói suông
mà còn bằng cả cuộc sống của Mẹ nữa.
Hôm
nay là ngày thế giới truyền giáo, chúng ta hiệp nhau cầu nguyện cho công việc
truyền giáo của Giáo Hội, chúng ta cầu nguyện cách đặc biệt cho các nhà thừa
sai trên cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội. Chúng ta tuyên xưng rằng, Chúa
Giêsu Kitô là Đấng duy nhất cứu rỗi nhân loại, nhưng quan trọng hơn cả là chúng
ta được Giáo Hội mời gọi mỗi người ý thức về sứ mệnh truyền giáo của mình, nhất
là hiểu được ý nghĩa đích thực của việc truyền giáo trong thế giới hôm nay.
Mẹ
Têrêsa Calcutta đã định nghĩa về một nhà truyền giáo: "Đó là một tín hữu
Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi
người nhận biết và yêu mến Ngài". Mẹ Têrêsa không những chỉ làm cho người
ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng những lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa
Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục
vụ của Mẹ. Do đó, truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêsa là dùng cả cuộc sống
của mình để làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu.
Truyền
giáo không chỉ là rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống
yêu thương. Đây chính là cốt lõi mà Chúa Giêsu cô đọng trong giới răn mến Chúa
và yêu người được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe trong Tin Mừng hôm nay. Trong
xã hội mà Kitô giáo chỉ là thiểu số thì truyền giáo đối với Kitô hữu hiện nay
là quyết tâm sống như thế nào để cho mọi người nhận biết Chúa Giêsu là Đấng đã
đến chỉ để rao giảng một thứ đạo, đó là đạo của tình thương. Trong một chế độ
chối bỏ những quyền tự do cơ bản nhất của con người, thì truyền giáo đối với
các tín hữu Kitô hiện nay chính là biểu lộ được bộ mặt đích thực của Đạo là yêu
thương và khoan nhượng.