CHỦ NHẬT 29 TN A
CỦA THIÊN CHÚA, TRẢ CHO THIÊN CHÚA
Nước
Trời mà Chúa Giê su loan báo dường như là một huyền thọai đối với người chỉ thấy
những thực tại vật chất. Nhưng thực sự, nó thuộc về thời cánh chung và Giáo Hội
đang phục vụ cho thực tế ấy. Chính vì thế mà Giáo hội đóng vai trò là men
thiêng liêng giữa lòng đô thị trần thế. Giáo hội có sứ mạng cảnh giác cho những
ai đang dấn thân trong việc trần thế rằng những gì họ làm chỉ có ý nghĩa trong
mức độ tôn trọng bậc thang gía trị.
Sách Tiên tri Isaia 45, 1.4-6a
Lúc
bấy giờ, Dân Thiên Chúa đang bị lưu đày ở Babylon, một vương quốc đang trên đà
suy thóai, có nguy cơ sẽ bị người Ba tư nuốt chững. Vua Ba tư là Kyrô nổi tiếng
là nhân đạo, được coi như một đấng Cứu độ, một Messia loan báo một đấng khác, một
đấng Messia đích thực sẽ cứu thoát tòan thể nhân lọai.
Thánh Vịnh 95
Vinh
danh Thiên Chúa, Chủ tể toàn thể vũ trụ. Trước nhan Người, tất cả mọi quyền
bính nhân lọai đều ra như không. Chỉ mình Ngài mới xứng đáng là Vua, vì chỉ có
mình Người mới có thể tạo dựng một vũ trụ công chính.
Thư 1 Têxalônica 1, 1-5b
Bức
thư nầy trước tiên đặt trọng tâm trên niềm hi vọng vào Nước Chúa sẽ hiển trị.
Khi trở lại, Chúa sẽ chiến thắng dứt khoát. Người Ki tô hữu phải tích cực hướng
về đích cuối cùng, bằng đức tin, hi vọng và lòng mến. Nhờ đó, Thánh Thần hành động
và lôi kéo thế giới đến chỗ hoàn tất bằng cách đưa Lời Thiên Chúa thấm nhập
vào.
Tin mừng:
Mt 22,15-21
NGỮ CẢNH
Đoạn Tin
mừng nầy nằm trong ngữ cảnh các cuộc tranh luận giữa Chúa Giê su và các địch
thủ của Ngài. Dụ ngôn tiệc cưới cho thấy tình hình căng thẳng lên đến cao độ.
Tiếp sau là các cuộc tranh luận có chiều hướng đi lên. Đoạn nầy gồm âm mưu của
địch thủ Chúa Giê su (c15), mưu tính của họ nhắm vào Ngài (c 16,17) và câu Ngài
trả lời cho họ (cc 18-21). Trọng tâm đặt ở lời phán quyết sau cùng: “Của César, trả về cho César; của Thiên Chúa,
trả về Thiên Chúa”.
TÌM HIỂU
Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người..đến nói
với Chúa Giê su: Chỉ ở đây và ở Mc 2,13 chúng ta mới
nghe nói đến môn đồ của Biệt phái. Có thể là người Biệt phái đã sai môn đồ của
các kí lục. Lí do là vì một Biệt phái đứng tuổi mà lại đi hỏi về vấn đề nộp
thuế thì chắc chắn không phải là chuyện bình thường và có thể làm cho Chúa Giê
su nghi ngờ, vì lập trường của họ đã quá rõ đối với dân chúng Palestina.
Những người thuộc phe Hê rô đê: phe
nầy ủng hộ Rô ma, vì Đế quốc Rô ma nâng đỡ các tiểu vương thuộc gia đình vua Hê
rô đê Cả.
Thưa Thầy: trong Mt,
các môn đồ không bao giờ dùng tiếng ‘Thầy’ khi nói với Chúa Giê su, nhưng dùng
danh xưng ‘Ngài’ (kurie); chỉ có các
kí lục, Biệt phái, phe Sađukêô (8,19; 9,11;12,38; 22,16.25.36) cũng như những
người thu thuế (17,24) và chàng thanh niên giàu có (19,16) sử dụng thôi. Giuđa
là người duy nhất trong nhóm Mười hai, hai lần dùng danh xưng ‘Thầy’
(26,25.49), cách gọi mà Chúa Giê su yêu cầu tránh trong cộng đoàn huynh đệ
(23,7-8).
Chúng tôi biết: Lời khen
tặng nồng nhiệt nhất dành cho một thầy Rabbi, chuyên viên giải thích lề luật,
là khen họ trung thành với Lề luật và không thiên vị: “Chúng tôi biết Thầy là người chân thật và không thiên vị ai”. Các
giáo sĩ đương thời hay nhắc đi nhắc lại hai đòi hỏi này.
Có được phép nộp thuế cho Xê da không?:
Từ “được phép” (existin) và “không được phép”
là công thức Mt thường dùng: x. 12,2.4.10.12; 14.4; 19,3; 20,15; 27,6). Đây là
câu hỏi mà người Do thái mộ đạo luôn luôn tự đặt cho mình và là câu mà các tư
tế có nhiệm vụ giải đáp trong cả ngàn nố lương tâm nêu lên cho cuộc sống thường
nhật. Nó mang ý nghĩa: ‘hướng về Thiên Chúa’= trước mắt Thiên Chúa, nghĩa là
dưới ánh sáng của lề luật, có được phép nộp thuế không? Ngoài nhiều khoản thuế
(thuế cầu đường, thuế quan..), người công dân còn phải nộp một thứ cống nộp để
tỏ lòng thần phục Hoàng đế. Người Do thái rất ghét thứ thuế nầy và nhóm Quá
Khích thì coi việc từ chối nộp là một bổn phận tôn giáo.
Hỡi những kẻ giả hình: Những
người đối thoại với Chúa Giê su bị phê phán là giả hình theo hai nghĩa. Trước
hết là họ làm bộ như rất quan tâm đến một vấn đề thời sự trong lúc chỉ cốt nêu
lên đề làm cho Chúa Giê su lúng túng. Thứ đến là khi sử dụng đồng ‘quan’ (=
đồng tiền của hoàng đế) trong các giao dịch thương mại, họ đã mặc nhiên thừa
nhận quyền bính của Hoàng đế rồi.
Đồng tiền nộp thuế: Người Do
thái chỉ có quyền đúc tiền đồng, chứ không được đúc tiền bạc. Như vậy các đồng
tiền của họ có giá trị nhỏ nên không được phép dùng để đóng thuế. Họ phải dùng
đồng quan (denarion).
Của Xê da, trả về Xê da:
câu trả lời này chứa đựng một thẩm định tích cực và tổng quát về vai trò của
Nhà nước trong quan niệm của một vài giáo thuyết Do thái đương thời cho rằng
các lãnh tụ nhận lãnh quyền bính từ nơi Thiên Chúa (Đn 2,21; 2,37-38; Cn
8,15-16; Ga 19,11; Rm 13,1-7). Triều đại của Thiên Chúa đã được khai mào, tuy
nhiên các triều đại của thế gian này vẫn còn hành xử quyền bính cách chính đáng
tuy chỉ tạm thời. Đối với các quyền bính chính trị thì trong toàn bộ Tin mừng,
Chúa Giê su đã tỏ ra một thái độ chung chung là hoàn toàn không lệ thuộc, nhưng
cũng chẳng chống đối. Cách sống của Kitô hữu đầu tiên, như được mô tả trong
Công vụ và thánh thư, cũng đi theo trong chiều hướng ấy.
SỨ ĐIỆP
“Hãy trả lại cho Xê da những gì của Xê da, và
cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Câu nói ấy đã nên thời danh như
một câu tục ngữ. Thật rõ ràng, vật nào của ai thì phải hoàn trả cho người ấy.
Vấn đề là người ta lạm dụng câu ấy để biện minh cho những sự lựa chọn và những
dấn thân chính trị hoặc để thiết lập tương quan giữa Giáo Hội và Nhà Nước. Đó
không phải là điều Chúa Giê su đã muốn.
Hôm nay
Chúa Giê su đứng trước hai loại đối thủ chống đối lẫn nhau; một bên là phe Xê
da, và bên kia là những kẻ chống đối họ. Họ đồng lòng giăng
bẫy bắt Chúa Giê su: “Có được phép hay
không nộp thuế cho Vua Xê da không?” Bẫy giương ra thật nguy hiểm: Nếu Ngài
trả lời là có, Ngài bị mất uy tín nơi dân đang chịu đau khổ vì ách thống trị
của người La mã. Còn nếu không, người ta có thể cáo buộc Ngài là một tay xách
động chống đối người La mã và ra lệnh bắt Ngài. Trong cả hai trường hợp, đằng
nào Ngài cũng sẽ chết, và vĩnh viễn sẽ bị loại ra khỏi vòng chiến.
Ngày nay,
chúng ta đang đối diện một cám dỗ nặng nề là muốn gạt bên lề những ai muốn đặt
lại vấn đề chúng ta và đẩy chúng ta đến chỗ thay đổi. Lời họ nói khiến chúng ta
khó chịu: vì thế, người ta làm tất cả để để gây tổn thương cho họ, cả việc cáo
buộc cách bất công những hành vi mà họ không phạm. Như thế lời của họ không còn
đáng tin nữa. Nhưng Chúa Giê su không để cho mình bị rơi vào trong cái bẫy ấy.
Câu trả lời của Ngài thật rõ ràng và không thể đảo ngược. Trước tiên Ngài tố
cáo sự giả hình của họ: Khi dùng đồng tiền của hoàng đế, từ lâu họ đã trả lời
câu hỏi: “Hãy trả cho Xê da những gì của
Xê da, trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Trên mặt đồng tiền họ
đưa cho Chúa Giê su, có hàng chữ: “Ti bê ri ô, Xê da thần thánh”. Các hoàng đế
Rô ma tự cho mình tước hiệu thần linh. Họ muốn người ta thờ phượng mình như
những thần linh.
Và đó chính
là điều mà Chúa Giê su không đồng ý: Xê da không phải là Thiên Chúa. Người ta
không thờ phượng hay vâng phục ông ta khi ông ta tự gán cho mình những quyền năng
chỉ thuộc về Thiên Chúa mà thôi. Chúng ta hãy nhớ lời Kinh Thánh: “Ta là Chúa và không có Chúa nào khác ngoài
Ta”. Điều đó cũng có giá trị cho chúng ta hôm nay. Vẫn còn một số người tự
cho mình là Thiên Chúa. Chúng ta đã biết và đã gặp họ. Và thỉnh thoảng, chúng
ta kêu cứu đến họ, lụy phục họ khi chấp nhận những điều không phải lúc nào của
phù hợp với lương tâm chúng ta. Chính lúc đó chúng ta phải tìm lại điều cốt yếu
cho cuộc sống chúng ta hôm nay. Đồng tiền mang hình Xê da, còn chúng ta, dấu ấn
mà chúng ta đang mang thuộc một trật tự khác: đó là dấu ấn của Thiên Chúa; ngày
chịu phép rửa, chúng ta đã được đóng ấn bằng dấu thánh giá của Đức Ki tô. Chúng
ta đã trở thành con cái Thiên Chúa. Đó là một dấu ấn không thể tẩy xóa định
hướng toàn bộ cuộc sống chúng ta.
“Hãy trả lại cho Xê da những gì của Xê da!”.
Thật sự là chúng ta mang hình ảnh Thiên Chúa; bởi đó, chúng ta tìm cách thấm
nhuần sự hiện diện và tình yêu của Ngài. Nếu chúng ta thật sự yêu thương Ngài,
chúng ta không còn phải tự hỏi đâu là điều được phép hay cấm đoán. Chúng ta sẽ
dâng cho Ngài điều tốt đẹp nhất của chúng ta. Nhưng Thiên Chúa mà chúng ta đón
nhận hướng chúng ta đến tha nhân. Niềm hi vọng mà Ngài đặt nơi chúng ta, cũng
giống như một ánh sáng phải chiếu tỏa nơi mắt mọi người. Bổn phận chúng ta là
quan tâm đến những gì thuộc lợi ích chung cho mọi người, với mục đích góp phần
vào việc xây dựng một xã hội công bình và huynh đệ hơn. Không phải bằng cách
quị lụy trước quyền bính mà mọi sự được giải quyết. Mỗi người chúng ta phải tìm
những gì tốt cho lợi ích của cộng đoàn và làm tròn trách nhiệm của mình.
“Hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về
Thiên Chúa!”. Chúa Giê su nhấn mạnh đến quyền tối thượng của Thiên Chúa.
Người là chủ tể cả thế gian và Người trao quyền hành cho các quyền bính thế
gian. Nhưng những quyền bính thế gian phải vâng phục quyền bính của Thiên Chúa
là ưu tiên. Khi Đức Giáo Hoàng và các Giám Mục can thiệp, không phải để làm
chính trị. Thí dụ như nói phải bỏ phiếu như thế nào thì không thuộc vai trò của
các Ngài. Trái lại, các Ngài có bổn phận nhắc lại các giá trị căn bản cho những
người có trách nhiệm trên thế giới. Kính trọng sự sống ngay từ khi đầu thai,
bảo vệ những người yếu và kẻ bị loại trừ, bác bỏ tất cả những gì hủy hoại hoặc
nô lệ con người. Trong các lãnh vực trên, vẫn có một cám dỗ lớn theo các hướng
dẫn của trần gian, cả khi điều đó không phù hợp với những xác tín sâu xa của
chúng ta.
Người ki tô
hữu mang dấu ấn thời đại chúng ta là những người hành động chống lại một trật tự
được thiết lập. Trả lại cho Xê da những gì của Xê da không ngăn cản người ta
đấu tranh cho công bằng và làm sao cho phẩm giá của những người nghèo nhất, của
bệnh nhân và của những người bị loại trừ được nhìn nhận và tôn trọng. Trả cho
Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa cũng là một trong những lời kêu gọi ngày thế
giới truyền giáo. Chúng ta không phải là những người chỉ biết tiêu thụ những
của cải đức tin. Chúng ta được mời gọi là những diễn viên và những người xây
dựng cộng đoàn ki tô. Chính trong thế giới như hiện nay mà chúng ta phải làm
chứng cho tin mừng. Nhờ phép Rửa và phép Thêm sức, chúng ta đã lãnh nhận Thánh
Thần trong chúng ta. Thánh Thần của Thiên Chúa cũng là một Thánh Thần truyền
giáo. Chúng ta được sai đến với những người khác. Đức Ki tô muốn rằng chúng ta
thực sự ở trong trạng thái truyền giáo dù chúng ta đang ở trong độ tuổi hay
tình trạng nào.
Trả lại cho
Thiên Chúa những gì của Người, đó cũng là điều mà chúng ta được mời gọi khi
tham dự Thánh lễ. Chúng ta dâng cho Người tất cả những hành vi đức tin, hi vọng
và đức ái sáng lên trong cuộc đời chúng ta và anh em chúng ta. Đồng thời, đó
cũng là điều mà chúng ta dấn thân thực hiện khi tranh đấu cho tình yêu chiến
thắng hận thù và sự loại trừ nhau và để cho tin mừng được loan báo bằng lời
nhưng nhất là bằng hành chính cuộc sống.
ĐÀO SÂU
1. HỎI: Sách Đệ nhị Isaia là sách gì?
THƯA: Sách Đệ nhị Isaia bao gồm
các chương từ 40 đến 55, do môn đồ tiên tri Isaia viết để
nâng đỡ niềm hi vọng những người Do thái bị lưu đày ở Ba by lon.
2. HỎI: Bối cảnh bài đọc một như thế nào?
THƯA: Trong thời gian người
Do thái bị lưu đày ở Ba by lon, Vương quốc Ba tư dưới quyền Hoàng
đế Ky rô trở nên hùng mạnh, mở rộng đế quốc khắp vùng trung đông. Trước tình
hình mới đó, tiên tri Isaia đã loan báo Ky rô sẽ đánh bại Ba by lon, sẽ giải
thoát những kẻ bị lưu đày và cho người Do thái trở về Giê ru sa lem.
3. HỎI: Bài đọc một để lại bài học gì?
THƯA: Nội
dung bài đọc một cho thấy trước hết Thiên Chúa trung thành với Giao Ước, Người
không bao giờ bỏ rơi dân Người đã chọn. Thứ hai,Thiên Chúa là Chủ tể của lịch
sử. Trong tay Người, mọi sự đã trở thành phương tiện Người dùng để hướng dẫn lịch sử đến mục tiêu cuối cùng là
ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại.
4. HỎI: Xác tín thứ nhất có ý nghĩa gì?
THƯA: Trong lúc Ít ra ên rơi
vào thảm họa tồi tệ nhất trong lịch sử: mất quyền độc lập, mất tự do, đất đai,
đền thờ, người ta có thể tự hỏi có phải Thiên Chúa đã bỏ dân của Ngài không.
Tiên tri mạnh mẽ khẳng định rằng: Thiên Chúa luôn trung thành với Giao Ước của
mình, Ngài không bao giờ từ bỏ dân Ngài đã chọn, vì như thánh Phao lô nói, Ngài
không thể chối bỏ chính mình.
5. HỎI: Và xác tín thứ hai?
THƯA: Thiên Chúa vẫn là chủ
tể trần gian, nắm quyền bính trên mọi loài. Và mọi sự đều nằm do tay Ngài quyết
định.
6. HỎI: Như vậy việc vua Kyrô xuất hiện là do tay Thiên Chúa
xếp đặt?
THƯA: Đúng vậy, dù là người
ngoại đạo, nhưng vua Ky rô được mô tả như là người được Thiên Chúa tuyển chọn,
phong vương và xức dầu để phục vụ Ngài và dân Ngài. Tiên tri Isaia nhấn mạnh:
“Nhân vì Giacóp tôi tớ Ta, và Israel kẻ Ta kén chọn, Ta đã gọi đích danh ngươi:
Ta đã kêu gọi ngươi khi ngươi không nhận biết Ta. Ta đã thắt lưng cho ngươi khi
ngươi không nhận biết Ta, để các kẻ từ đông sang tây nhận biết rằng ngoài Ta ra
không có ai khác: Ta là Chúa, và chẳng có chúa nào khác” (Is 45, 5-6).
7. HỎI: Tại sao Ky rô được gọi là ‘Đấng Messia’?
THƯA: Ông được gọi là Đấng
Messia bởi vì được Thiên Chúa chọn lựa để giải phóng dân Ngài khỏi ách nô lệ.
Dù không phải là vua, tư tế hay tiên tri, nhưng những gì mà ông thực hiện cho
dân Chúa khiến ông xứng đáng được gọi là ‘Đấng Messia’.
8. HỎI. Trong Is 45,1.4-6, khi gọi vua
Ky rô là người được Thiên Chúa xức dầu tuyển chọn, Isaia muốn nói điều gì?
THƯA: Tiên tri Isaia có
ý đem lại cho độc giả của mình một lời giải thích tôn giáo về lịch sử. Vua Ba
tư được gọi là “Người được Thiên Chúa
tuyển chọn”, bởi vì Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi chiến thắng. Thiên Chúa
Israel mà Vua Kyrô không biết đến, đã chọn ông để cho thấy công trình cứu độ
của Ngài. Ngay cả điều mà đối với chúng ta coi là một sự dữ khủng khiếp nhất
hoặc những biến cố đau buồn nhất, cũng có thể trở thành cơ hội mang lại Ơn Cứu
độ Vĩnh cửu trong Chương trình của Thiên Chúa.
9.HỎI: Ngữ cảnh bài tin mừng như thế nào?
THƯA:
Đoạn tin mừng nằm trong ngữ cảnh ba cuộc tranh luận giữa Chúa Giê su và nhóm
lãnh đạo Do thái giáo. Sau ba dụ ngôn là ba cuộc tranh luận do ba nhóm đại diện
do thái giáo khởi xướng để tìm cách gài bẩy Chúa Giê su bằng chính lời nói của
Ngài về những vấn đề rất quan trọng: việc nộp thuế, việc kẻ chết sống lại và
giới răn lớn nhất.
10. HỎI. Vào thời Chúa Giê su, tình trạng
chính trị của Pa lét ti na như thế nào?
THƯA: Vào thời Chúa Giê su, người Rô ma thống
trị toàn bộ cư dân ở Pa lét ti na. Hằng năm họ phải nộp thuế cho chính quyền Rô
ma.
11. HỎI: Lời khen tặng Chúa Giê su của người Biệt phái có
dụng ý gì?
THƯA: Lời khen tặng ấy có
dụng ý che dấu mưu thâm độc của đối thủ Chúa Giê su. Họ giả vờ nâng Ngài lên để
liền đó giăng ra một cái bẫy để chờ Ngài sa vào. Nhưng dù mưu mô vào xảo quyệt
như thế, họ cũng không qua mắt Chúa Giê su.
12. HỎI: Tại sao Chúa Giê su gọi họ là những kẻ giả hình?
THƯA:
Giả hình vì hai lí do: trước tiên, họ hỏi Chúa Giê su một điều mà họ đã biết
rồi, nên hỏi chỉ để làm cho Chúa Giê su lúng túng mà thôi. Thứ đến, họ hỏi là
nhằm giăng bẩy bắt bẻ Chúa Giê su.
13. HỎI: Tại sao thế?
THƯA:
Nếu Chúa Giê su chấp nhận nguyên tắc nộp thuế thì người dân sẽ coi Ngài là một
người Do thái gian, uy tín Ngài sẽ sụp đỗ tan tành, còn nếu tuyên bố chống nộp
thuế, họ sẽ có cớ tố cáo Ngài là kẻ phá rối trật tự chung, lôi kéo người khác
chống lại quân La mã.
14. HỎI: Chúa Giê su đã trả lời như thế nào?
THƯA:
Ngài trả lời qua ba điểm: Hãy trả lại cho Xê da những gì của Xê da. Chỉ trả cho
Xê sa những gì của Xê da. Và hãy trả lại
cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa.
15. HỎI: ‘Hãy trả lại cho Xê da những gì của Xê da’nghĩa là
gì?
THƯA: Là công nhận Xê da
hiện thời là người nắm giữ quyền bính. Chính Chúa Giê su trong cuộc Khổ nạn
cũng đã chấp nhận như thế: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng
ban cho ngài.” (Ga 19,11). Và vì thế, Ngài chấp nhận việc nộp thuế như là một
bổn phận mà mọi công dân phải thực hiện đối với nhà nước.
16. HỎI: ‘Chỉ trả cho Xê da những gì của Xê da’ có nghĩa gì?
THƯA: Khi Xê da là hoàng đế
Rô ma đòi phải đóng thuế, thì phải đóng thuế, nhưng khi đòi người ta tuyên xưng
và thờ lạy là Chủa, thì không được tuân theo vì thờ lạy hoàng đế là tội thờ bụt
thần.
17. HỎI: ‘Hãy trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa’ có
nghĩa là gì?
THƯA: Có nghĩa là nhìn nhận
nơi Chúa Giê su là Đấng đến từ Thiên Chúa, là ‘Đấng thuộc về Thiên Chúa’. Và phải
tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước tiên, còn mọi sự khác Ngài sẽ ban cho (Mt 5,
39-42).
18. HỎI: Người Do thái có chống đối việc nộp thuế cho Xê da
không?
THƯA: Phần lớn dân Do thái
chống lại việc nộp thuế, nhất là thuế thân, đặc biệt nhóm Nhiệt Thành còn coi
việc từ chối nộp thuế làmột bổn phận tôn giáo.
19. HỎI: Bài tin mừng gửi đến chúng ta sứ điệp gì?
THƯA:
Bài học về sự tự do. Xê da chỉ là Xê da, vua chúa trần gian chỉ là những người nắm quyền nhỏ bé. Triều đại của
họ chỉ kéo dài trong một thời gian. Còn Vương quốc Thiên Chúa thuộc về một lãnh
vực khác: chính nơi các nước trần gian nầy mà mọi hành vi tình yêu và huynh đệ
làm lớn lên vương quốc đích thực là Vương quốc của Thiên Chúa.