CHỦ NHẬT 15
THƯỜNG NIÊN
Lề luật chỉ tốt khi giúp Dân thực hiện thành công sứ mạng
của mình. Lề luật của người ki tô hữu được tóm gọn trong một điều luật duy nhất
là YÊU THƯƠNG. Đó là một luật điều chứ không phải là một sự bó buộc. Nó diễn tả
lời mời gọi của một Thiên Chúa Yêu thương đã tỏ mình ngang qua Con của Người,
giữa lòng thế giới; Ngài đề nghị chúng ta hãy trở nên người thân cận với những
người bị thương vì cuộc đời.
Sách Đệ Nhị luật
30,10-14.
Bài đọc thứ nhất là tờ di chúc của ông Mô sê trối lại cho
Dân Ít ra en trước lúc đi vào Đất hứa. Nhớ lại việc Dân chúa không ngừng xúc
phạm Lề luật mà Thiên Chúa đã ban, ông nhắc lại rằng Lề luật ấy rất đơn giản:
nó hệ tại ở việc sống trong Ánh sáng của một vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta
và mời gọi chúng ta hãy Yêu thương đáp lại.
Thánh Vịnh 18
Tác giả cử hành Lề luật của Chúa bằng cách nói rằng Lề luật
là điều đáng ao ước hơn vàng và ngọt ngào hơn mật ong.
Thư Cô lô sê 1,15-20
Trong đoạn thư nầy, thánh Phao lô nói cho chúng ta biết năng
động của người ki tô hữu bao gồm trong việc để mình bị cuốn hút treo dòng chảy
của sự sống bao la, ngay từ lúc tạo dựng vũ trụ, phản ánh Thiên Chúa. Dòng suối
sự sống ấy đã diễn tả thực tại của một Đức Ki tô tỏ hiện hoàn toàn trong con
người của Chúa Giê su. Thánh Phao lô diễn tả sự khám phá ơn gọi sống tình yêu
Thiên Chúa dưới dạng một thị kiến về tương lai của Vũ trụ.
Tin mừng Lc 10, 25-37
NGỮ CẢNH
Đáp lại câu hỏi của vị tiến sĩ luật, Chúa Giê su qui chiếu
đến luật yêu thương (10,25-28) với hai khía cạnh bổ túc lẫn nhau: tình yêu
Thiên Chúa và tình yêu con người. Để minh giải điều đó, Chúa Giê su kể dụ ngôn
người Sa ma ri tốt bụng (10, 29-37). Tiếp sau là câu truyện hai chị em nhà La
da rô niềm nở tiếp đón Chúa Giê su (38-42).
TÌM HIỂU
Tôi phải làm gì?: đám đông cũng đã đưa ra câu hỏi
tương tự cho ông Gioan Tẩy giả (3,10). Vị tiến sĩ luật nầy là một trong những
vị thầy thông thái và khôn ngoan mà Chúa Giê su vừa đề cập đến (10,21). Với một
chút do dự, ông ta tò mò đặt cho Chúa Giê một câu hỏi, mục đích là để thử Ngài.
Ông xin Ngài chỉ dạy một con đường đưa đến sự sống đời đời, nghĩa là để đạt đến
niềm hạnh phúc mà Chúa Giê su vừa nói (10, 24). Nếu Chúa Giê su không qui chiếu
đến lề luật, thì Ngài không phải là một người được Thiên Chúa sai đến, vì lề
luật đến từ Thiên Chúa. Còn nếu Ngài không nói gì ngòai lề luật, thì giáo huấn
của Ngài đâu có gì độc đáo. Thật ra Ngài đã qui chiếu đến lề luật.
Ngươi phải yêu mến Đức
Chúa: vị tiến sĩ
luật kể ra hai điều răn yêu mến Thiên Chúa (Đnl 6,5) và yêu mến tha nhân (Lv
19,18). Nhưng Lu ca nối kết bằng một động từ duy nhất: “Ngươi hãy yêu mến” như
thể phát xuất từ một giới răn độc nhất. Cần chú ý rằng người Híp pri nầy, và có
lẽ nhiều người đồng thời với ông, nhìn thấy trọng tâm của chính lề luật trong
hai điều răn nầy.
Chứng tỏ là mình có lí: có lẽ ông muốn chứng tỏ mình có
lí, tạo bảo đảm cho việc tiếp cận sự sống đời đời.
Thân cận: đối với người Híp pri, người thân
cận là những phần tử thuộc dân ưu tuyển, còn những người ngoại quốc thì bị lọai
ra. Dường như vị tiến sĩ luật nầy ý thức những giới hạn của điều răn hiểu như
thế chăng? Hay ông ta còn muốn thử thách Chúa Giê su? Một lần nữa Chúa Giê su
không trực tiếp trả lời, nhưng kể một dụ ngôn, và để cho ông tự mình tìm ra ý
nghĩa như Ngài đã làm với ông Pha ri sêu Si mon.
Thầy tư tế: một thầy tư tế và một thầy lê vi
không cứu giúp người bị nạn. Họ làm như thế vì nghĩ rằng đó là một xác chết và
không muốn bị nhiễm uế?
Người Sa ma ri kia: người lại gần là một người Sa ma
ri, do đó là một người lạc giáo sống bên ngoài thế giới người do thái. Ông chăm
sóc người bị thương một cách cẩn thận và thực tế.
Để ý đến thế đối chọi mà Lu ca dựng lên: một bên là hai
người do thái vị vọng từ Giê ru sa lem kinh thành thánh, nhưng ở đây không được
Chúa Giê su nhìn nhận như là những người giải thích thật sự lề luật; họ là
những người thông thái và khôn ngoan được nói tới ở 10,21. Còn bên kia là một
người thù địch, một người bị người do thái gạt ra bên lề, lại nêu gương yêu
thương đích thật, vì đã trung thành với lề luật.
Ai trong ba người đó: vị tiến sĩ luật không gặp khó khăn
để nhận ra ai trong ba người phải được ca tụng. Nhưng Chúa Giê su buộc ông phải
làm một cuộc đảo ngược: Ngài đã gợi ý giải đáp cho câu hỏi. Vấn đề ở đây không
còn là tìm người thân cận của tôi, mà là trở nên người lân cận cho người cần đến
tôi. Lí do khiến tôi giúp đỡ người ấy là những quyền lợi của người ấy mà tôi
phải tôn trọng; mọi người có quyền lợi trên tôi, vì họ không có cái mà tôi có
thể cho họ. Do vậy phải yêu thương mọi người, và giúp đỡ khi họ cần đến, và
vượt lên trên tinh thần cục bộ của người do thái để đạt tới tình yêu thương đại
đồng mà Chúa Giê su đề ra cho anh ta, ngay cả khi giáo huấn nầy đến với anh từ một
người Sa ma ri.
Chúng ta có hai cách khác để đọc dụ ngôn nầy:
1. Người Sa ma ri được đề ra ở đây chỉ là để nêu lên một
thách đố cho người do thái: ông ta là một người ngoại quốc, một người lạc giáo,
nhưng mang lại cho ngừoi Híp pri một bài học tốt về nhân phẩm. Hoặc là hình ảnh
của chính tình yêu Thiên Chúa? cách giải thích nầy xem ra đúng.
Nơi người Sa ma ri chúng ta dễ dàng nhận ra Chúa Giê su:
trong Chúa Giê su, Thiên Chúa đến gần con người bị thương và ban lại sự sống. Như
thế đây là một dụ ngôn lớn về sự Nhập thể, một hành vi lớn về lòng xót thương
của Thiên Chúa. Nhưng tại sao lại là một người Sa ma ri? Bởi vì, thật sự Chúa
Giê su là chính người bé nhỏ, bị lọai trừ, muốn cứu độ những người không thuộc
vào trong nhóm những người “thân cận” của người Híp pri. Và trong khi Cựu Ước,
đại diện bởi thầy tư tế và thầy Lê vi, tỏ ra bất lực thì Chúa Giê su lại thành
công trong việc mang ơn cứu độ đến cho họ, dù họ là người Híp pri hay không.
Cách đọc nầy thuộc về truyền thống của Giáo Hội. Các Giáo
phụ đã thường lặp lại bằng cách sử dụng các chi tiết của dụ ngôn để soi sáng
công trình của Đức Ki tô: Dầu và rượu là các bí tích; quán trọ là Gíao Hội nơi
tiếp nối công cuộc cứu độ của Chúa Giê su.
Vị tiến sĩ luật tìm cách giới hạn đối tượng của tình yêu,
thì đối lại, Chúa Giê su trình bày một vì Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi
người đến độ tự biến mình thành người thân cận gần nhất, một người trong họ. “Mức độ của tình yêu là tình yêu không mức
độ” (Thánh Bê na đô).
2. Cách đọc thứ hai bao gồm trong việc nhìn nơi người bị
thương là chính Chúa Giê su. Chúa Giê su không chỉ trở nên gần với con người bất
hạnh và bị đau khổ, mà còn tự đồng hóa với họ. Từ nay, chúng ta có thể nhận ra
Ngài như là Thiên Chúa cứu độ lòai người, và cùng lúc, hiện diện nơi người đang
khổ đau (x. Mt 25,40).
SỨ ĐIỆP
Ngày nay, trên các phương tiện truyền thông chúng ta đã nghe
nhiều tin tức giống với những gì mà được kể lại trong bài tin mừng: nạn nhân
tai nạn giao thông, nạn nhân các cuộc trấn lột, cướp bóc. Nhưng hầu như không
thấy ai ra tay cứu giúp các nạn nhân, thậm chí không có phản ứng gì. Cũng còn
may mắn là thỉnh thoảng cũng có những luật trừ, những người can đảm liều mình
để giúp đỡ những người bị hại.
Chủ nhật hôm nay chúng ta đọc lại dụ ngôn thường được gọi là
dụ ngôn về người “Sa ma ri nhân hậu”. Đó là câu chuyện của một người từ Giê ru
sa lem đi xuống Giê ri khô. Những ai quen thuộc địa phương nầy đều biết đó là
con đường nguy hiểm, vì chạy qua một vùng núi khô cằn và sa mạc hoang vắng, môi
trường thuận lợi cho bọn cuớp thường ra phục kích tấn công khách bộ hành. Bài
tin mừng kể lại một trường hợp như thế. Một người chẳng may bị rơi vào tay bọn
cứơp. Chúng tấn công, đánh đập anh ta dã man sau khi đã trấn lột hết của cải và
hành lí. Đánh người cướp của xong, chúng tẩu thoát và bỏ nạn nhân giữa đường,
nửa sống nửa chết.
Một lát sau, có một thầy tư tế, rồi một thầy lê vi đi ngang
qua. Thấy nạn nhân giữa đường, họ đi qua luôn, không giúp đỡ gì. Có thể ngày
nay chúng ta lên án hành động của họ, cho rằng họ quá nhẫn tâm, vì không cứu
giúp ngừơi bị nguy tử. Hơn nữa, họ là những người thông thạo lề luật, nhất là
giới lưật yêu thương: “Ngươi hãy yêu thương người thân cận như chính mình
ngươi”.
Nhưng có người thông cảm thái độ dửng dưng của hai thầy tư
tế và lê vi ấy. Họ đang trên đường đến Giê ru sa lem để dâng lễ ở Đền thờ. Lề
luật buộc họ phải giữ mình cho thanh sạch, không được chạm đến máu hay người
chết, nếu không, họ sẽ bị ra ô uế, và do đó, không thể cử hành các nghi lễ được
nữa. Chính vì để tránh một sự nhiểm uế theo lề luật mà họ bước qua bên kia, qua
bên kia hành vi nhân đạo cứu người bị nạn, qua bên kia lòng bác ái và tin mừng.
“Tay họ sẽ trong sạch, nhưng đó là đôi tay
không có trái tim”. Khi muốn trung thành với lề luật, họ quên giới luật yêu
thương quan trọng mà Thiên Chúa đã dạy.
Đến lượt một người Sa ma ri, vốn là thù địch với người do
thái và bị họ khai trừ khỏi cộng đoàn. Nhưng trước hòan cảnh đáng thương của
nạn nhân, anh đã không nghĩ gì khác ngòai việc ra tay nhân nghĩa cứu giúp người
bị nạn. Anh đã biết mở rộng lòng từ tâm, dừng lại, sơ cứu rồi chở người bị
thương đến quán trọ để nhờ người khác tiếp tục chăm sóc. Là hạng người đã bị
coi là không vâng phục lề luật, anh ta thực sự trở thành người tuân giữ lề luật
đúng nghĩa. Khi đề cao anh ta như một gương mẫu cho chúng ta, Chúa Giê su chỉ
cho chúng ta thấy con đường phải theo để được dự phần cuộc Sống đời đời.
Ngài mời gọi chúng ta hãy đảo ngược vấn đề. Nếu cứ tiếp
tục đặt câu hỏi: ai là người thân cận với tôi, có lẽ chúng ta cũng là một trong
những thấy người bị nạn, rồi đi luôn để tránh bổn phận bác ái. Hay trong những
trường hợp khác, chúng ta có thể viện dẫn nhiều lí do để lẫn tránh người đến
xin chúng ta giúp đỡ. Nhưng khi lẫn trốn họ, chúng ta từ khước chính Đức Ki tô.
Thật vậy, chính Ngài luôn luôn ở bên cạnh những người bị lọai trừ và bị thương
bởi cuộc sống. Hơn nữa, Ngài còn tự đồng hóa với mỗi người trong họ: “Quay lưng
lại với một người anh em đang đau khổ là quay lưng lại với chính Thiên Chúa”.
Khi kể cho chúng ta nghe ví dụ ấy, Đức Ki tô muốn thúc đầy
chúng ta làm một cuộc đảo ngược vấn đề, thay đổi cái nhìn mà chúng ta hướng đến
người khác. Từ nay, câu hỏi không còn là: “Ai là người thân cận của tôi?” nhưng
là “tôi trở thành người thân cận của ai?”. Người thân cận không phải là người
khác; mà là chính tôi khi tôi đến gần họ, khi tôi đến gần gia đình tôi, gần
những người làm việc chung với tôi, những người bị thương trong cuộc sống,
những bệnh nhân, những người bị ức hiếp trong xã hội.
Hiện nay, các phương tiện truyền thông tân tiến cho phép
chúng ta tiếp cận toàn thế giới. Đó là những cơ hội tốt cho phép chúng ta có
thể tự đặt cho mình câu hỏi nầy: “Tôi có phải là một người thân cận tốt cho mọi
người không?”
Dụ ngôn ấy nói với chúng ta về Thiên Chúa “nhân từ”. Thật
vậy, người Sa ma ri tốt bụng chạnh lòng trước thảm cảnh của người bị nạn ấy
chính là Thiên Chúa. Người đã động lòng thương xót trước hòan cảnh tội lỗi đáng
thương của con người. Nên Người đã đến gần chúng ta, sống với chúng ta, để giải
thoát chúng ta khỏi tội lỗi và ban cho chúng ta niềm tin để sống và để hi vọng.
Bài dụ ngôn trên đây cũng nói với chúng ta về Chúa Giê su.
Ngài là người bị nạn rơi vào tay bọn cướp. Sau nầy, trong suốt cuộc Khổ nạn,
Ngài sẽ bị kết án, bị đánh đập và bị giết chết trên cây thập giá. Các môn đệ sẽ
bỏ Ngài. Ngài trở thành đối tượng chê cười cho các lãnh đạo tôn giáo dân Ngài.
Khi chấp nhận chết như thế, Ngài muốn trở nên gần gủi và liên đới với tất cả
những người bị loại trừ trên thế gian nầy.
Lòng thương xót của người Sa ma ri nhân
lành ấy đã trở thành
điển hình của lòng xót thương của Chúa Giê su nghiêng mình trên nhân lọai đang
bị tổn thương vì tội lỗi. Tòan tin mừng cho chúng ta thấy Ngài đi rong ruổi
khắp các nẻo đường, để đến gần với các bệnh nhân và tất cả những ai bị thương
bởi những thử thách của cuộc đời. Ngài đã mang lấy trên mình tất cả những nỗi
đau khổ và tội lỗi của trần gian. Ngài đã phải trả giá đắt để cho chúng ta được
sống. Chính khi yêu thương chúng ta cho đến cùng mà Ngài trở thành người thân
cận của chúng ta. Và hôm nay, Ngài nói với chúng ta giới răn của Ngài: “Con
cũng hãy đi và làm như vậy”.
Khi chúng ta cử hành Thánh lễ, chính Chúa Giê su đến để trở nên
người thân cận
với chúng ta. Với Ngài, chúng ta học cách yêu thương và tiếp cận người khác như
Ngài. Cùng hiệp thông với toàn thể Giáo Hội, chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi
người ki tô hữu biết trở thành chứng nhân cho một cộng đòan biết mở rộng vòng
tay đón nhận, một cộng đòan sống theo gương của Ngài cho đến cùng. Chính bằng
giá đó mà chúng ta có thể dự phần vào sự Sống vĩnh cửu