Trang Chủ > Suy Niệm > Thường Niên 26-34 > Tuần 33

CHỦ NHẬT XXXIII THƯỜNG NIÊN

jesus07.jpgTrong những lúc căng thẳng, tranh chấp, và thử thách, nhiều khi người ta tự hỏi: Thiên Chúa đang làm gì? Tại sao Người không can thiệp? chúng ta muốn Người can thiệp ngay tức khắc, can thiệp một cách lạ lùng. Nhưng Thiên Chúa im lặng, kiên trì. Chưa đến lúc tách cỏ lùng ra khỏi lúa tốt, vì sợ mất một vài cây lúa tốt.

Tiên tri Ml 3,19-20a

Trở về từ đất lưu đày, người Do thái hi vọng được Bình an và Hạnh phúc, nhưng trên thực tế thì họ lại tiếp tục sống dưới ách thống trị của người Ba tư. Đức tin sụp đổ. Tôn giáo chỉ còn là hình thức. Bấy giờ Tiên tri Ma la ki gióng lên một lời kêu gọi mạnh mẽ: Phải mạnh dạn tiếp tục tin tưởng hướng về tương lai.

Thánh Vịnh 97

Ngày của Chúa đang đến gần, và đang tỏ hiện. Ước gì mọi người và toàn thể tạo vật nhảy mừng hân hoan vì “Ngày của Chúa” không khiến người ta hoảng sợ, nhưng mang lại Niềm Vui và Hạnh Phúc.

Thư 2 Tx 3,7-12

Niềm hi vọng vào “Ngày của Chúa” đến trong nay mai đã khiến người tín hữu Tê xa lô ni ca giữ một thái độ thụ động nguy hiểm. “Cần gì phải làm việc nữa, chỉ còn chờ đợi lúc tận cùng mà thôi”. Phao lô phản bác quan niệm quá máy móc về việc Chúa đến như thế, vì nó không ăn nhập gì với cuộc sống người ki tô hữu cả. Trái lại, sự chờ đợi ơn Cứu độ cuối cùng phải mang lại cho các sinh hoạt hằng ngày một ý nghĩa. Nếu không, thì chỉ là sống trong mơ mộng, ảo tưởng. Việc làm mang lại cho sự sống giá trị của nó.

Tin mừng Lc 21,5-19

NGỮ CẢNH

Đọan văn nầy là bài diễn từ về lúc tận cùng của thời gian. Cũng như Mt và Mc, Luca cũng đưa ra một diễn từ dài viết theo lọai văn khải huyền mà sách Đa ni ên đã sử dụng 200 năm trước, và vẫn còn được sử dụng trong văn chương Híp pri thời Chúa Giê su. Lc cũng đặt diễn từ nầy sau một loạt các tranh luận gay gắt giữa Chúa Giê su và các lãnh đạo dân Do thái và ngay trước trình thuật Khổ nạn. Do vậy, đây là giáo huấn cuối cùng của Chúa Giê su.

Có ba khẳng định chính yếu: không nên tin rằng việc Con Người trở lại vinh quang sẽ diễn ra nay mai, vì sẽ có một khoảng thời gian dài bách hại và thử thách đi trước. Tuy vậy, chiến thắng là chắc chắn: Nước Thiên Chúa sẽ được Con Người thiết lập. Vì thế.  thái độ của người tín hữa là phải kiên trì, tỉnh thức, cầu nguyện và hi vọng.

Có thể đọc đoạn văn theo cấu trúc sau đây:

1. Nhập đề: (21,5-7)

2. Cảnh giác mở đầu (21,8-9)

3. Các dấu chỉ và thiên tai (21,10-11);

4. Những biến cố xảy ra trước: bách hại, phải kiên trì (21,12-19);

TÌM HIỂU

Có mấy người: nếu đọc Mc 13,1-4. ta có thể nghĩ đến bốn môn đệ đầu tiên được Chúa Giê su kêu gọi. Nhưng Lc không cho biết chính xác như thế. Ngược lại, dường như ông muốn nói rằng Chúa Giê su nói với tất cả đám đông, như sau khi Ngài đi vào đền thờ (19,48; x. 20,1.9.26.45; 21,38) và như trong trường hợp diễn từ trên đồng bằng (x.6,17-19). Do đó, diễn từ sau cùng của Chúa Giê su nói với toàn dân Do Thái, và qua đó với toàn dân Ki tô giáo.

Đền thờ: sau khi đến Giê ru sa lem, Chúa Giê su đi vào trong đền thờ (19,45). Từ đó, tất cả giáo huấn của Ngài, cho đến câu 21, 38, diễn ra trong nơi thánh nầy.

Vua Hê rô đê đại đế khởi công việc trùng tu đền thờ vào năm 18 trước CN (x. Ga 2,20). Do vậy, đền thờ hoàn toàn mới khi Chúa Giê su nói.

Những đồ dâng cúng: sát nghĩa: “những gì để trên” (bàn thờ hoặc đền thờ); đó là những của dâng cúng tự nguyện của tín hữu vào việc xây cất hoặc trang hoàng đền thờ.

Không còn tảng đá nào trên tảng đá nào: lời loan báo khủng khiếp, đã được ám chỉ trong câu 19,44. khởi đầu bằng công thức: “Sẽ đến những ngày”, mà Thánh Kinh vẫn dùng để dẫn vào các câu sấm đầy hăm doạ (x. 17,22; 19,43). Ở đây Chúa Giê su dùng lại kiểu nói mà nhiều tiên tri dùng để chống lại đền thờ (Mk 3,12; Gr 7,1-15; 26,1-19; Ed 8-11) vì lòng bất trung của Israel đối với Giao Ước. Sự bất trung nầy giờ đây được tỏ bày trong sự chối từ Chúa Giê su.

Bao giờ: câu hỏi của dân chúng gồm hai điều: thời gian đền thờ bị phá huỷ; và dấu chỉ báo trước sự gần kề. Mt và Mc cũng ghi lại câu hỏi kép nầy, nhưng câu trả lời của họ chuyển từ viễn tượng lịch sử sang ngay viễn tượng lúc cuối thời gian. Trái lại Lc chỉ bàn tới việc đền thờ bị phá huỷ, như thế để tránh cho người ta tin rằng việc đền thờ bị phá huỷ loan báo một kết cục gần kề của thế gian. Cách trình bày vấn đề nầy còn được nhấn mạnh ở cuối câu 9 “chưa phải là cùng tận ngay đâu”, và ở đầu câu 12 “Nhưng trước khi tất cả các sự ấy xảy ra..”. Cả hai chi tiết cho thấy rõ Lc không đặt việc Giê ru sa lem bị tàn phá, xảy ra vào năm 70 trong tương quan gần kề với lúc cuối của lịch sử.

Anh em hãy coi chừng: lời cảnh giác nầy của Chúa Giê su nhắm đến hai hạng người xách động: những kẻ đến mạo danh Chúa Giê su nói rằng: “Chính là Ta đây”. Hoặc tệ hơn nữa, “Ta Là”, và những kẻ quả quyết rằng “thời giờ đã gần kề” (x. 10,11;19,11).

Chiến tranh: lời khuyên thứ ba: đừng để mình bị hoảng sợ vì chiến tranh hay các cuộc cách mạng, bởi vì những cuộc chính biến hay quân biến (ám chỉ đến cuộc nổi loạn của người Do thái từ năm 66 đến năm 70 chăng?) không liên can trực tiếp đến lúc tận cùng thế gian. Tất cả những điều nầy xảy ra trước, nhưng không phải là dấu chỉ đi trước lúc tận cùng. Nói cách khác, lời cảnh giác đầu tiên (căn bản trả lời cho câu hỏi: khi nào?) nhấn mạnh đến mối nguy hiểm cho đức tin do việc sai lầm nghĩ đó là thời điểm tận cùng gần kề.

Rồi Người nói tiếp: câu nầy của riêng Lc, tiếp sau lời cảnh giác đầu tiên có giá trị cho cả diễn từ. Và cho biết đây là khởi đầu đúng nghĩa của diễn từ. Chúa Giê su sắp trả lời cho câu hỏi thứ hai, về các dấu chỉ xảy ra trước lúc tận cùng. Lc trình bày các dấu chỉ nầy trong hai thời khắc quan trọng và phức tạp và đan xen vào nhau: thời khắc trước bao hàm thời khắc sau, trực tiếp báo trước việc Con Người đến (21,27), và niềm hi vọng mà biến cố ấy gợi lên trong lòng tín hữu (21,28). Thời khắc nầy gồm những biến cố lịch sử (21,10) hoặc hoàn vũ (21,11), được lặp lại trong cc. 25-26. Nó được đặt sau thời khắc trước, hoàn toàn trong lịch sử, được hiện thực trong cuộc bách hại các môn đệ (21,12-19) và việc dân ngoại tàn phá đền thờ (21,20-24).

Ôn dịch: là những hình ảnh truyền thống của văn chương khải huyền Do thái dùng để mô tả các biến cố báo trước lúc tận cùng thế gian. X. Is 24,19-20; Dc 14,4-5; Ed 6,11-12..

Ngược đãi anh em: đoạn nầy không thuộc thành phần của diễn từ Mt, thuộc về một ngữ cảnh khác (10,17-22). Đối với Mc, x. 13,9-13. Lc thuật lại một vài câu chuyện của cuộc bách hại nầy trong sách Công Vụ. Người ta hiểu đó là cuộc bách hại của người La mã dưới thời Hoàng đế Nê ron.

Vua chúa: chi tiết chính xác nầy cho thấy trước hoàn cảnh trong đó Phao lô sẽ bị điệu ra trước Vua Agrippa và Tổng thấn Festô.

Làm chứng: trong khi ở câu 18,9 Mc nói: “để làm chứng trước mặt họ (những kẻ bách hại), thì Lc lại nói (sát chữ): “Đó sẽ là cơ hội cho anh em làm chứng cho Thầy”. Lc gợi ý rằng sự đau khổ của họ sẽ trở thành một chứng từ có lợi cho họ trước mặt Thiên Chúa. Từ “làm chứng” (trong hy ngữ martýrion) sau nầy sẽ mang ý nghĩa là tử đạo.

Thầy sẽ cho anh em: khác với đoạn 12,11-12, Chúa Giê su xác định ở đây là chính Ngài sẽ ban cho chứ không phải là Thánh Thần cảm hứng cho các môn đệ bị bách hại. Hơn nữa sự cảm hứng nầy không chỉ phù trợ trong cách ăn nói và sự khôn ngoan, mà còn ban cho một sức mạnh không gì có thể thắng được (so sánh với Mc 13,11). Cũng thế, Lc sẽ nói rằng các người bách hại Tê pha nô  “không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thần khí đã ban cho ông” (Cv 6,10).

Một số người trong anh em: hễ là người ki tô hữu thì sẽ bị ghen ghét, ngay cả trong gia đình, và bởi chính anh em bạn hữu mình. Nhưng Lc giảm nhẹ bầu khí u ám nầy bằng cách ghi chú rằng chỉ “một vài” người bị bách hại sẽ chết, khác với Mt và Mc.

Sợi tóc: trong hoàn cảnh đau thương này, Lc lặp lại một lời nói của Chúa Giê su mà ông đã ghi lại trong 12,7, nhưng theo một hướng hơi khác. Qua đó ông muốn nhắc cho người ki tô hữu nhớ rằng họ được bảo đảm nhờ sự che chở của Thiên Chúa dù cho hoàn cảnh có xấu đến đâu đi nữa. Xem tác giả nhắc lại câu nói nầy trong biến cố Phao lô bị đắm tàu (Cv 27,34). Nhưng sự che chở của Thiên Chúa không nhằm mục đích đem ra khỏi các thử thách, nhưng trái lại bảo đảm ơn cứu độ.

Kiên trì: đối với Lc, các cuộc bách hại không có tương quan tức khắc với cuộc Chung Thẩm, nhưng là điểm đặc trưng trong tình huống tại thế của người tín hữu. Do đó ở đây, chỉ có ông thuật lại một lời nói có bao quát, có thể áp dụng cho bất cứ hoàn cảnh nào và ở bất cứ thời đại nào (so với Mc 13,13). Sự kiên trì nầy, thiết yếu để trổ sinh hoa trái (8,15), là cần thiết trong suốt cuộc thử thách của cuộc sống và đặc biệt trong hoàn cảnh bách hại. Điều đó có thể nhờ sự giúp đỡ của Thiên Chúa. Nó giúp cho người tín hữu hi vọng vào cuộc sống (x. 17,33). Ta cũng có thể gặp thấy cung giọng đầy xác tín và tin tưởng trong c. 28.          

SỨ ĐIỆP

Đây là chủ nhật áp chót của năm Phụng vụ. Các bài đọc hôm nay gợi lên những biến cố kinh hoàng. Khi lướt nhanh qua Thánh kinh, chúng ta thấy có những biến cố đau thương như Đại Hồng Thuỷ, nô lệ bên Ai cập, lưu đày bên Babilon, phế tích đền thờ Giê ru sa lem, các cuộc bách hại. Hiện nay, truyền thông nói với chúng ta về những hăm doạ khủng bố, tai hoạ động đất, trái đất nóng lên và đủ mọi thứ thiên tai.

Nhưng bài tin mừng hôm nay muốn làm sống lại niềm hi vọng của chúng ta, nó nói với chúng ta rằng: Không, chưa phải là tận cùng của thế giới đâu mà là tận cùng của một thế giới. Chúng ta thấy thế giới nầy đang đi qua đi, nhưng chúng ta cũng ý thức một thế giới mới đang hình thành.

Thật vậy, trong Thánh Kinh cũng dùng những từ và hình ảnh cho thấy điều đó. Thiên Chúa hiện diện ngay giữa cuộc sống con người. Tất cả các bản văn Cựu Ước và Tân Ước loan báo cho chúng ta về sự giải phóng, sự gần gũi của Thiên Chúa, sự sống lại, ân sủng, ơn cứu độ. Ngày nay, Chúa Giê su nói với chúng ta về sự tàn phá thành Giê ru sa lem. Và ai cũng có thể tưởng tượng sự kinh hoàng của các môn đệ khi nghe điều đó.

Khi tin mừng thánh Luca được viết, lời tiên tri ấy đã được thực hiện. Đền thờ Giê ru sa lem đã bị Titô phá huỷ. Đó là cơ hội cho tác giả Tin mừng mời gọi người ki tô hữu tiến thêm một bước nữa: từ nay, đền thờ đích thật mà Thiên Chúa muốn ngự vào không phải là đền thờ bằng đá, dù nó có đẹp đến mấy đi nữa. Đền thờ đích thật chính là Thân xác của Đức Ki tô. Đó là điều mà chúng ta phải hiểu khi Chúa Giê su nói: «Phá huỷ đền thờ nầy đi và trong ba ngày ta sẽ xây dựng lại».

Từ mạc khải trên chúng ta rút ra các kết luận nầy: chúng ta không còn tìm Thiên Chúa trong cái xa hoa mà người ta trang hoàng cho đền thờ hoặc trong các nhà thờ bằng đá của chúng ta. Tất cả chúng ta đều là phần Thân Thể của Đức Ki tô, đền thờ mà Thiên Chúa muốn ngự. Nếu chúng ta muốn gặp Người, thì đừng quên tìm gặp Người giữa những người nghèo khổ, những người đói rách, những người đau yếu và tù tội. Đền thờ đích thật của Thiên Chúa chính là tâm hồn con người. Sự tàn phá đền thờ đúng nghĩa nhất, đó là những thân xác bị huỷ hoại vì đói, bệnh tật, chiến tranh, thất nghiệp và bất hạnh.

Tái thiết đền thờ Thiên Chúa tức là làm việc xây dựng một thế giới nhân đạo hơn, huynh đệ hơn và mở rộng vòng tay hơn trong thế giới chung quanh chúng ta. Điều đó phải bắt đầu từ trong gia đình, hàng xóm, từ các mối tương quan của chúng ta hằng ngày. Chính đó là nơi mà Chúa chờ gặp chúng ta.

Tất cả những điều đó, chúng ta phó thác cho Chúa. Chúng ta tập họp nơi đây để cầu nguyện. Đó là một cách đi vào trong tâm tình của Thiên Chúa để yêu mến Người như Người yêu mến, và để hiến ban như Người tự trao ban. Cầu nguyện là giáo dục cái nhìn là sự chia sẻ huynh đệ. Lời cầu nguyện giúp đưa những người vắng mặt vào trong cộng đoàn và cho chúng ta nhớ lại rằng họ luôn có chỗ trong trái tim của Thiên Chúa và của chúng ta. Lời cầu nguyện đích thực dẫn chúng ta theo Đức Ki tô, Ngài là đấng chỉ cho chúng ta thấy những người nghèo nhất. “Món quà vật chất được nhân lên khi được mang đi bởi đôi cánh cầu nguyện”.

Khi chúng ta cử hành Thánh lễ, chúng ta đến kín múc tận nguồn dành cho sứ mạng mà Chúa giao phó cho chúng ta. Chúng ta mừng Đấng đã tự hiến cho đến cùng, đến chỗ dâng hiến cuộc đời mình. Chúng ta hãy xin Ngài mở rộng tâm hồn chúng ta theo chiều kích của Ngài. Ước gì nhờ lời cầu nguyện, lời nói và sự liên đới, chúng ta trở thành những chứng nhân đích thực cho niềm hi vọng.

 


Các bài viết mới hơn
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Bảy Tuần XXXIII Thường Niên_Lm Giuse Phạm Hoàng Vũ
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Năm Tuần XXXIII Thường Niên_Nt. Maria Nguyễn Thị Quỳnh Tiên, OP
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Sáu Tuần XXXIII Thường Niên B_Lm. Antôn Maria Vũ Quốc Thịnh
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Năm Tuần XXXIII Thường Niên Năm B_Lm Antôn Maria Vũ Quốc Thịnh
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Tư Tuần XXXIII Thường Niên B_Lm. Antôn Maria Vũ Quốc Thịnh
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Tư Tuần XXXIII Thường Niên B_Nt. Anna Têrêsa Thiên Hoàng, OP
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Ba Tuần XXXIII Thường Niên B_Lm. Giuse Nguyễn Duy Khang
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Ba Tuần XXXIII Thường Niên B_Lm. Antôn Maria Vũ Quốc Thịnh
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Hai Tuần XXXIII Thường Niên B_Nt. Maria Nguyễn Thị Anh Thư, OP
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Hai Tuần XXXIII Thường Niên B_Lm. Antôn Maria Vũ Quốc Thịnh

Các bài viết cũ hơn