CHỦ NHẬT 2
CHAY C
Dưới ánh sáng đức tin, chúng ta đã khám phá thấy
rằng cuộc sống nầỵ có thể dẫn chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Nhưng thỉnh thoảng,
muôn vàn khó khăn trong cuộc sống khiến chúng ta thất vọng và tự hỏi đâu là ý
nghĩa của cuộc lữ hành nầy. Thế rồi một tia sáng vụt lóe lên dẫn đường, và giúp
chúng ta lấy lại can đảm. Chúa Giê su tỏ
cho thấy Ngài là Ánh sáng chiếu soi các môn đệ đang đi trong bóng tối sợ hãi.
Sách Sáng
Thể kí 15,5-12.17-18
Kể lại ơn gọi Abraham là một cách soi sáng cho ơn
gọi của tòan thể Dân Chúa. Vâng lời Thiên Chúa, Abraham đã đi đến thành công.
Đối với một người du mục như ông, thành đạt trước tiên là một đồng cỏ tốt cho
đàn súc vật; rồi kế đến là một cuộc sống được bảo đảm bởi một dòng dõi đông
đúc, vì vào lúc đó, người ta chưa biết gì về sự Sống lại.
Thánh vịnh
26
Đứng trước những cuộc chiến đấu đòi phải dấn thân,
người tín hữu tự cảm thấy đầy tin tưởng vào Thiên Chúa. Thiên Chúa là Ánh sáng
và ơn Cứu độ, Người ban sức mạnh và bảo đảm an ninh. Lòng tin tưởng ấy đem lại
niềm hi vọng được nhìn thấy đích đến của con đường.
Thư gửi tín
hữu Phi líp phê 3,17-4,1
Viết cho Cộng đoàn thân yêu của mình, thánh Phao
lô đang khi bị giam trong tù nói lên nỗi buồn của mình khi thấy có những người
từ chối thăng tiến. Họ không thực sự hướng về Thiên Chúa; họ để cho các bản
năng tự nhiên hướng dẫn. Ý nghĩa thực sự của cuộc sống là cuộc sống mới, quà
tặng của Chúa. Ngài mong ước họ đừng bao giờ quên rằng họ là công dân Nước Trời
từ lúc họ chịu Phép Rửa. Ngài ước mong sao họ đứng vững vượt qua mọi trở ngại.
Tin mừng Lc
9,28-36
NGỮ CẢNH
Cảnh tượng biến hình tiếp theo sau cuộc tuyên xưng
đức tin của Phê rô và lời loan báo Khổ nạn là biến cố cuối cùng của thời gian
hoạt động tại Galilê (3,1-9,50). Các môn đệ vẫn còn chưa hết sửng sốt vì những
lời tuyên bố của Chúa Giê su, giờ được dự kiến cuộc biến hình để khám phá ra
vinh quang và căn tính của Chúa Giê su: Người là Con và Lời của Thiên Chúa.
Có thể đọc theo bố cục sau đây:
1. Chúa Giê su tỏ hiện vinh quang, Ong Môi sê và
Elia xuất hiện bàn bạc với Người về cuộc xuất hành (9,28-32)
2. Các môn đệ ẩn khuất vào đám mây và nghe tiếng
Thiên Chúa phán, rồi không còn trông thấy ai khác nữa ngoài Chúa Giê su
(9,33-36).
TÌM HIỂU
Phêrô: thuộc vào số ba môn đệ được Chúa Giê su ưu
ái đặc biệt, cho chứng kiến sự phục sinh con gái ông Giairô (8,51), mẻ cá lạ
lùng (5,1-11), cuộc biến hình (9,28). Nhưng họ không được nhắc đến trong cơn
hấp hối ở vườn cây dầu như trong Mt và Mc.
Cầu nguyện: như ở 9,18, Luca là tác giả tin mừng
duy nhất nói đến việc Chúa Giê su cầu nguyện ở đây. Do vậy, cuộc tỏ hiện tiếp
sau là lời đáp trả của Thiên Chúa cho lời cầu nguyện nầy. Khi người công chính
cầu nguyện, thì Thiên Chúa trả lời rằng Người ở với ông trong cơn thử thách và
muốn tôn vinh ông (Tv 9,14-16).
Dung mạo Ngài: sự biến đổi trên khuôn mặt và màu
áo trắng của Ngài là dấu chỉ ngoại diện của vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện nơi
Chúa Giê su (9,32). Đây là một diễn biến cho thấy trước vinh quang phục sinh
của đấng vừa loan báo rằng ngày thứ ba sẽ sống lại. Nét phác họa về mầu nhiệm
của Ngài sẽ được làm rõ trong lời phán của Thiên Chúa (9,35). Lời hứa được thấy
nước Thiên Chúa của Chúa Giê su đã được thể hiện lần đầu chăng ? (9,27)
Hai nhân vật: vào buổi sáng Phục sinh, hai thiên
thần hiện ra với các bà (24,4). Cần phải có hai nhân chứng để bảo đảm cho sự
xác thật của sự kiện (Đnl 19,15). Hai nhân vật nầy đại diện cho Lề Luật và các
Tiên Tri (24,27.44). Ông Êlia đã được nhắc tới (9,3.19). Ông Mô sê đứng sau hậu
cảnh phép lạ hoá bánh ra nhiều, gợi nhớ lại manna trong sa mạc. Cả hai đã cùng
lên núi để cầu nguyện và tìm kiếm Thiên Chúa. Cả hai được liên kết với vinh
quang của Thiên Chúa. Ông Mô sê có gương mặt toả hào quang khi xuống núi Sinai,
là nơi mà Thiên Chúa đã nói chuyện với ông (Xh 34,29-35). Còn ông Êlia đã rời
trần gian trên một chiếc xe vinh quang (2V2,11-12).
Cuộc xuất hành: hai nhân vật trên đại diện cho Cựu
Ước và nói chuyện với Chúa Giê su như những nhân chứng giúp Người hiểu ý nghĩa
cuộc Khổ nạn tương lai.
Ngủ mê mệt: như trong trình thuật hấp hối (22,34),
Luca cố ý qui lỗi cho các môn đệ. Nhưng giấc ngủ nầy đối ngược với tình trạng
tỉnh thức của Chúa Giê su trong khi cầu nguyện.
Lều: sau cuộc thần hiển trên núi Sinai, ông Môsê
dựng một nơi ở cho Thiên Chúa và căn lều hội ngộ: «Đám mây bao phủ Lều Hội Ngộ,
và vinh quang Đức Chúa đầy tràn Nhà Tạm» (Xh 40,34).
Một đám mây: thêm một cách tỏ hiện nữa của sự hiện
diện của Thiên Chúa: mây vừa che khuất vừa mạc khải Thiên Chúa.
Thấy mình vào trong đám mây: chỉ có Luca nói rằng
các môn đệ đi vào trong đám mây. Lúc nãy Chúa Giê su cùng với ông Môsê và Êlia
trong vinh quang, giờ thì Ngài ở trong đám mây với các ông Phêrô, Giacôbê và
Gioan. Điều ấy có nghĩa là các ông cùng với Chúa Giê su vinh quang thuộc về
cùng một cộng đoàn sự sống và vận mệnh: nếu họ nghe lời khi Người nói với họ về
thập giá, thì họ sẽ cùng được chia sẻ vinh quang với Người (Ga 17,10; 2Cr
3,18). Họ sợ hãi (x.5,9) cũng như tất cả mọi người tiếp xúc với thế giới thần
linh (Is 6,1-5).
Có tiếng phán: tiếng nói không ngỏ với Chúa Giê su
nhưng với các môn đệ. Ngang qua lời nầy, các môn đệ khám phá ra một khía cạnh
mới của Chúa Giê su và cùng lúc sự quan trọng trong việc tin tưởng vào Người.
Con Ta: kiểu nói trích từ Isaia, nói về Israel,
tôi tớ của Đức Chúa (Is 41,9). Phê rô đã tuyên bố Chúa Giê su là Đấng Messia
(Ki tô); Thiên Chúa gọi Ngài là Con như đã loan báo cho Đức Maria (1,32-35).
Tước hiệu nầy sẽ được Hội Thánh sơ khai hiểu là Con đồng bản tính với Chúa Cha.
Hãy vâng nghe lời Người !: đây là điểm nhấn của
trình thuật. Chúa Giê su đã đưa ra các điều kiện để đi theo Ngài (9,23-26),
nhất là trong viễn cảnh cuộc Khổ Nạn (9,22) có thể khiến cho các Môn đệ do dự.
Vì thế Thiên Chúa Cha ban cho họ một chỗ tựa khi khuyên họ phải nghe Lời Chúa
Giê su.
Một mình Chúa Giê su: Ông Mô sê và ông Êlia đã
biến mất sau khi đã làm chứng cho Chúa Giê su. Cựu Ước đã hoàn thành sứ mạng là
chuẩn bị và loan báo đấng Messia. Giờ thì Chúa Giê su ở lại, và các môn đệ phải
theo Ngài cho đến cùng. Nhưng trước tiên, họ phải thanh luyện quan niệm về đấng
Messia.
Không kể lại cho ai biết gì cả: khác với 9,21 và
Mt, Mc, các môn đệ không nhận được lệnh cấm nói. Mà làm sao có thể chia sẻ một
kinh nghiệm như thế ? Đàng khác cũng chưa phải lúc, vì các ông cần phải
hiểu rằng cảnh biến hình trên núi là diễn biến trước sự Phục sinh và đi vào
vinh quang của Chúa Giê su.
SỨ ĐIỆP
Hằng năm, bài tin mừng chủ
nhật thứ hai mùa Chay cho chúng ta nghe lại câu chuyện về việc Chúa Giê su biến
hình. Bấy giờ, Chúa Giê su rút lui lên núi để cầu nguyện. Trong Thánh kinh, núi
là một nơi cao mà Thiên Chúa thường tỏ mình ra để trao cho con người một sứ
điệp quan trọng. Thường chúng ta nghĩ đến núi Si nai và nhất là núi Can vê. Hôm
nay, Chúa Giê su dẫn ba môn đệ của mình lên núi Ta bo rê. Ngài đang cầu nguyện
thì ánh hào quang bất ngờ rạng chiếu. Kinh nguyện của Ngài khẩn thiết đến nỗi
ánh sáng tỏa rạng trên khuôn mặt và y phục của Ngài.
Ông Mô sê và ông Ê lia,
hai người của núi cao xuất hiện. Các ngài là những chứng nhân cho Giao Ước cũ.
Chính các ngài đã gặp gỡ Thiên Chúa. Ông Mô sê được Thiên Chúa cho gặp trên núi
Si nai, trong tiếng gầm thét và cuồng nộ của bão táp. Còn ông Êlia thì được nhìn
thấy thánh nhan của Người trên núi Hô rép, trong tiếng gió nhẹ thoảng qua. Cả
hai đều nghe Chúa nói. Lần nầy, trên núi Ta bo rê, các ngài lại xuất hiện để đàm
đạo với Chúa Giê su về cuộc ra đi sắp tới của Ngài, biến cố bao gồm cuộc khổ
nạn, sự chết và sự phục sinh của Ngài. Đó là trọng tâm lời cầu nguyện của Đức
Ki tô.
Luca là tác giả duy nhất ghi chú rằng biến cố biến
hình đã diễn ra trong khi Chúa Giê su cầu nguyện. Các môn đệ là chứng nhân ưu
tiên cho cuộc giao tiếp thân mật giữa Ngài và Thiên Chúa Cha. Thân mật đến nỗi
những kẻ chung quanh Ngài cũng đều được chiêm ngưỡng. “Kinh nguyện nhiều khi
khiến khuôn mặt các Thánh bừng sáng lên” (Cha Lagrange). Mong sao lời cầu
nguyện biến đổi chúng ta! Ước gì những giây phúc chia sẻ và chiêm ngắm trước
nhan Chúa có thể biến đổi chúng ta! Điều ấy rất đáng suy nghĩ, đặc biệt trong
thời gian mùa Chay nầy.
Quả thật, có nhiều khi Chúa cho chúng ta nhận ra
những giây phút dạt dào ân sủng và soi sáng ấy trong khi cầu nguyện. Lời cầu
nguyện là lực nâng tâm hồn chúng ta lên, ban cho chúng ta nghị lực và niềm vui
để đối đầu với những thử thách trong cuộc sống. Thánh I nha xi ô gọi niềm vui
là một trong những hoa trái của Chúa Thánh Thần, trong khi sự buồn thảm và thất
vọng là dấu chỉ cho thấy sự hiện diện của Sa tan.
Nhưng có một nguy cơ tiềm ẩn là muốn nán lại trong
cảm giác hạnh phúc thiêng liêng ấy. Trên núi, ông Phê rô cảm thấy hân hoan tột
độ, đến nỗi ông muốn dựng ba lều, một cho Chúa Giê su, một cho ông Mô sê, và
một cho ông Êlia, mà chẳng quan tâm gì đến những người khác. Và để tránh cho
chúng ta những cám dỗ tương tự nên Chúa Giê su chỉ thỉnh thoảng cho phép vài
giây phút biến hình ấy trong cuộc sống thiêng liêng của chúng ta. Kinh nguyện
đích thực phải dẫn chúng ta trở xuống núi để bước đi trong cái đơn điệu thiêng
liêng của cuộc sống hằng ngày.
Điều cần phải hiểu rõ là lời cầu nguyện trước tiên
không phải là của chúng ta. nhưng chính Chúa Thánh Thần cầu nguyện trong chúng
ta. Đó chính là sự trút bỏ chính mình để tạo không gian cho Ngài trong cuộc
sống của chúng ta. Có nhiều lúc chúng ta cầu nguyện rất tha thiết, nhưng cũng
có khi ánh sáng vụt tắt. Khi gặp những giây phút ấy, chúng ta đừng thất vọng,
vì Chúa Giê su luôn hiện diện. Cũng như các môn đệ, lúc nào chúng ta cũng có
thể xin Ngài dạy cho chúng ta cầu nguyện. Và Ngài sẽ nhắc lại: “Hãy cầu nguyện:
Lạy Cha chúng con..” Như thế là đủ, tức là để cho tiếng nói yêu thương trìu mến
ấy từ đáy tâm hồn chúng ta dâng lên Cha không ngừng yêu mến chúng ta.
Trong thời gian mùa Chay nầy, chúng ta được mời
gọi thay đổi tâm hồn chúng ta để trở về với Đức Ki tô là Ánh sáng trần gian.
Lời cầu nguyện là một trong những con đường cho phép chúng ta đến gần Ngài. Dù
không phải lúc nào cũng giống nhau, Lời Thiên Chúa Cha luôn luôn nhắc cho chúng
ta phải lắng nghe Con chí ái và đi theo Ngài cho đến cùng. Lời cầu nguyện cho
phép chúng ta hiểu rõ hơn chương trình của Thiên Chúa để biến thành chương
trình của chúng ta. Nó giúp chúng ta thay đổi cách nhìn trên mọi người và mọi sự
để có cái nhìn của Thiên Chúa.
Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa luôn luôn đòi hỏi một
cố gắng. Cả ba môn đệ muốn thiếp đi vì mệt mõi, cũng như sau nầy khi Chúa Giê
su cầu nguyện trên núi Cây dầu trước cuộc khổ nạn. Cuộc cám dỗ tương tự cũng
đang rình rập tất cả chúng ta. Nếu lời cầu nguyện của chúng ta trống rỗng thì
không phải là tại Thiên Chúa không hiện diện, mà chính là chúng ta không hiện
diện trước nhan Người. Chúng ta dễ có khuynh hướng ngủ quên và sống mùa Chay
nầy như những ngày khác trong năm.
Bởi thế, chúng ta hãy nhớ rằng Chúa Giê su không
chỉ cầu nguyện trong ánh quang núi Ta bo rê, mà còn trong bóng tối của vườn
Giết sê ma ni và trên thập giá. Trong những lúc buồn khổ, nhiều khi chúng ta
muốn gào thét lên nỗi sợ hãi của chúng ta với Chúa Giê su trên thập giá. Nhưng
Chúa Thánh Thần sẽ gợi lên trong chúng ta tâm tình phó thác cho Thiên Chúa Cha:
“Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).
Mỗi ngày chủ nhật, chúng ta gặp Thiên Chúa trong
Lời và Thánh Thể của Người. Đó là thời gian chúng ta ở gần Người và các anh em
của chúng ta, và có thể coi như là thời khắc biến hình. Trong thời gian mùa
Chay nầy, chúng ta hãy để cho Đức Ki tô soi sáng để cái nhìn và diện mạo của
chúng ta nói lên một điều gì đó về tình yêu của Thiên Chúa.
ĐÀO SÂU
BIẾN HÌNH
St 15,5-12,17-18 Giao ước giữa Thiên Chúa và Ađam
Tv 27,1, 7-8, 9, 13-14 Chúa là ánh sáng và ơn cứu
độ
Pl 3,17-4,1 Đức Ki tô sẽ biến đổi hình dạng chúng
ta
Lc 9,28b-36 Chúa Giê su hiển dung
1. HỎI: Ba
bài đọc liên kết với nhau theo chủ đề nào?
THƯA: BIẾN HÌNH. Giao ước Thiên
Chúa kí kết với tổ phụ Áp-ra-ham là lời hứa hẹn cho sự biến đổi thân phận loài
người (Bđ1). Thần tính của Chúa Giêsu hiển linh trong biến cố Hiển
dung (BTM) là mẫu mực cho điều mà Thánh Phao lô loan báo: ‘Đức Kitô sẽ
biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài’
(Bđ 2).
2. HỎI: Sách
Sáng thế là sách gì?
THƯA: Sách Sáng thế là quyển
sách đầu tiên của bộ Kinh Thánh, gồm phần đầu (12 chương đầu) nói về việc Thiên
Chúa tạo dựng vũ trụ qua các suy tư từ kinh nghiệm tôn giáo của Ít-ra-ên và
phần sau (các chương 13-50) ghi lại các câu chuyện về các tổ phụ dân Ít-ra-ên
dựa vào các truyền thống thủy tổ của họ.
3. HỎI: Bài
đọc I (St 15,5-12, 17-18) có nội dung như thế nào?
THƯA: Bài đọc một kể lại việc
Thiên Chúa hứa ban cho Áp-ra-ham một dòng dõi đông đúc và kí kết Giao ước với
ông.
4. HỎI:
Trong nghi thức kí kết giao ước thời ông A-bra-ham, có điều gì đặc biệt?
THƯA: Thời ông A-bra-ham, nghi
thức kí kết giao ước buộc phải tìm những con vật lớn khôn và sung sức để sát
tế, phải chặt đôi các con vật và để nửa nầy đối diện với nửa kia. Rồi cả hai
bên kí kết để chân trần nhúng máu đi qua giữa những miếng thịt ấy để tỏ ý muốn
chia sẻ sự sống cho nhau, và một cách nào đó trở nên thân thuộc với nhau. Kí
kết như thế là muốn nói rằng nếu ai phản bội những điều đã kí kết, thì sẽ bị
phân thây như những tế vật nầy.
5. HỎI: Có
điểm gì khác biệt trong nghi thức của A-bra-ham?
THƯA: Áp-ra-ham thực hiện đúng
những qui định trong nghi thức kí kết hiệp ước thông thường vào thời đó. Tuy
nhiên điều khác biệt ở đây là ông kí kết giao ước với Thiên Chúa. Lần đầu tiên
trong lịch sử loài người, một bên kí kết là chính Thiên Chúa.
6. HỎI: Lời
Chúa hứa: ‘Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó’ (St 15, 5) có nghĩa gì?
THƯA: Chúa hứa ban cho ông một dòng
dõi, một điều mà ai cũng mơ ước. Dòng dõi ấy đông đúc như sao trên trời đem lại
cho ông nguồn hạnh phúc lớn lao. Lời hứa thật kì lạ và khó tin vì làm sao một
ông già không có con lại được một dòng dõi như thế.
7. HỎI: Ông
Áp-ra-ham đã làm gì?
THƯA: Đó không phải là lần đầu Thiên
Chúa hứa với ông. Lần đầu tiên Người đã ban cho ông lời hứa khi gọi ông ra đi
đến nơi mà ông chưa biết (St 12,1). Nhiều năm sau đó dù ông chưa thấy có dấu
hiệu nào để tin, ông vẫn cứ tiếp tục đi dựa vào lời hứa ấy mà không hề đặt một câu
hỏi nào. Kinh Thánh Cựu ước đã ghi nhận niềm tin lạ lùng ấy như sau: ‘Ông
Áp-ra-ham đã ra đi như lời Chúa đã nói với ông’
8. HỎI:
Thiên Chúa đã làm gì trước đức tin ấy?
THƯA: Thiên Chúa đã ban thưởng
cho ông: vì dức tin ấy, ĐỨC CHÚA kể ông là người công chính (x. St 15,6)
9. HỎI: Tin
là gì?
THƯA: Lần đầu tiên từ ‘Tin’
xuất hiện trong Kinh Thánh. Tin là nắm chắc lời Chúa hứa và giữ vững cho đến
cùng, ngay cả trong lúc ngờ vực, thất vọng hay lo âu nhất. Áp-ra-ham đã có thái
độ như thế, do đó ông được coi là một người công chính. Người công chính là
người mà ý chí, cuộc sống phù hợp với chương trình của Thiên Chúa.
10. HỎI:
Điều khoản trong giao ước gồm những gì?
THƯA: Thiên Chúa hứa ban cho
Áp-ra-ham hai điều: một dòng dõi đông đúc và một vùng đất mầu mở, chảy sữa và
mật, thường gọi là miền Đất Hứa.
11. HỎI: Bài
đọc 2 (Pl 3, 17-4, 1) có nội dung như thế nào?
THƯA: Thánh Phao-lô khuyên các
tín hữu Phi-líp-phê sống thánh thiện cho tương xứng với địa vị cao sang của
những người đã được cứu chuộc bằng giá máu và thập giá của Chúa Ki-tô chứ đừng
chạy theo những giá trị giả trá và thấp hèn của thế gian.
12. HỎI: Ngữ
cảnh bài Tin mừng (Lc 9, 28b-36) như thế nào?
THƯA: Đây là biến cố cuối cùng
trong sứ vụ Ga-li-lê (Lc 3,1–9,50). Sau khi Phêrô vừa tuyên tín ‘Ngài là Đấng
Kitô của Thiên Chúa’ (9, 20) Chúa Giê su loan báo cuộc thương khó (9,22). Biến
cố Hiển Dung (9, 28-36) đi theo sát huấn dụ về đời môn đệ nhằm cho họ thấy
trước vinh quang của Đấng Phục Sinh, vinh quang Nước Trời. Có các ý sau đây: 1)
Hoàn cảnh của cuộc Hiển Dung (9,28). 2). Cuộc Hiển Dung (9, 29-35). 3) Kết thúc
cuộc Hiển Dung (9, 36).
13. HỎI: Chúa
Giêsu đã giảng gì tám ngày trước đó?
THƯA: Ngài đã báo trước sự
thương khó và vương quốc của Thiên Chúa sắp đến. Ngoài ra Ngài cũng giáo huấn
về cuộc đời từ bỏ mà những người muốn trở thành môn đệ Ngài đã lựa chọn.
14. HỎI:
Biến hình có nghĩa gì?
THƯA: Theo thánh Luca, biến
hình là ‘Gương mặt trở nên sáng láng’. Thiên Chúa đã chọn lúc Chúa Giê su cầu
nguyện trên núi để mạc khải mầu nhiệm Con Người cho ba chứng nhân được tuyển
chọn. Ở đây không phải là đám đông hay các môn đệ đưa ra ý kiến của mình, mà là
chính Thiên Chúa đã đưa ra câu trả lời và cho họ chiêm ngắm mầu nhiệm Đức Ki
tô: ‘Nầy là Con Ta, mà Ta quí mến, hãy vâng nghe lời Ngài’.
15. HỎI:
Thánh Luca muốn chúng ta nhớ đến cảnh tượng nào khi mô tả cuộc biến hình của
Chúa Giê su?
THƯA: Ngài muốn qui chiếu đến
việc Thiên Chúa mạc khải trên núi Si-nai được ghi lại trong sách Xuất Hành. Vì
thế, những từ ngữ hay cách diễn tả như núi, đám mây, vinh quang, giọng nói vang
ra, lều được lựa chọn để gợi lại bối cảnh cuộc mạc khải ấy.
16. HỎI: Ba
tông đồ còn được đi theo Chúa Giê su trong các biến cố nào nữa?
THƯA: Ba ông Phê rô, Gioan và
Gia cô bê còn được đi theo Chúa Giês su trong phép lạ phục sinh con gái ông
Dai-a. Họ cũng sẽ hiện diện trong giờ hấp hối của Chúa Giê su trong vườn cây
dầu (x. Mc14,33).
17. HỎI: Tại
sao lên ‘núi’ cầu nguyện?
THƯA: Chúa Giê su dẫn các môn
đồ lên núi cầu nguyện như chúng ta vẫn thường thấy trước các thời khắc quan
trọng. Núi là nơi gặp gỡ Thiên chúa. Ông Mô-sê đã gặp Thiên Chúa trên núi
Si-nai. Chính trên những nơi cao mà con người có kinh nghiệm về sự Thiên Chúa
tỏ hiện.
18. HỎI: Sự
hiện diện của hai ông Mô-sê và Ê-li-a có nghĩa gì?
THƯA: Ông Ê-li-a đã được cất về
trời (2V 2, 11) còn ông Mô-sê cũng được người Do thái tin là cũng đã được thăng
thiên. Vì thế hai ông với tư cách là những nhân vật từ trời đến báo trước vinh
quang tương lai của Chúa Ki tô. Đồng thời hai ông còn là nhân chứng cho cuộc
Biến hình: ông Mô-sê đại diện cho Lề luật, Ê-li-a cho các Tiên tri.
19. HỎI:
‘Nói về cuộc Xuất hành’ nghĩa là gì?
THƯA: Thánh Lu ca dùng chữ
‘xuất hành’ để nói về cuộc Vượt qua của Đức Ki tô. Như cuộc vượt qua của Mô-sê
khai mào cuộc Xuất hành của Dân Chúa khỏi kiếp nô lệ Ai cập về đất hứa, thì
cuộc Vượt qua của Đức Ki tô cũng mở đường giải phóng cho nhân loại. Cả hai ông
Mô-sê và Ê-li-a chứng thực rằng Chúa Giê su chính là Đấng Mê-si-a, nhưng là một
đấng Cứu độ phải chịu đau khổ, chết rồi sống lại.
20. HỎI: Câu
nói của Phê rô có ý nghĩa gì?
THƯA: Phê rô nói: ‘Chúng con ở
đây thì thật là hay’. Bản thân ông cũng không biết mình đang nói gì, và chỉ mơ
ước khung cảnh thần tiên ấy được kéo dài mãi để được được gặp gỡ Thiên Chúa. Họ
cảm thấy gần Người đến nỗi muốn giây phút ấy trở thành thiên thu.
21. HỎI: Đám
mây có nghĩa gì?
THƯA: Đám mây thường đi liền
với các lần Thiên Chúa hiện ra (X. Xh 16, 10; 19.9.16; 24,15-16) và được coi
như là dấu cho thấy Thiên Chúa hiện diện.
22. HỎI:
Tiếng nói từ trời có mục đích gì?
THƯA: Đó là tiếng nói của Thiên
Chúa Cha ngỏ lời với các môn đệ để mạc khải mầu nhiệm Chúa Giê su: Ngài là Con,
đấng đã được Thiên Chúa chọn làm người tôi tớ, làm vị tiên tri để mang ánh sáng
đến cho muôn dân và là Đấng Cứu thế dùng cái chết để chuộc tội cho muôn người.
23. HỎI: Ba
hành động được Lu ca mô tả ở đây khá giống với câu chuyện ở núi Si-nai?
THƯA: Đúng. Trình thuật biến
hình song song với câu chuyện Xuất Hành 24. Một cách cụ thể:
1) Mô-sê
lên núi một mình cùng với ba người được lựa chọn là ông A-ha-ron, ông Na-đáp và
A-bi-u.
2) Cũng trên núi Si nai, vinh quang Thiên Chúa
xuất hiện vào ngày thứ bảy sau sáu ngày chờ đợi (Thánh Luca nói: ‘Khoảng tám
ngày sau đó’).
3) Dân Ít-ra-ên hoảng sợ khi nhìn thấy khuôn mặt
rạng ngời ánh sáng của ông Mô-sê (x. Xh 34,30), như ánh sáng bao quanh Chúa
Giêsu khiến cho các môn đồ hoảng sợ (x. Mc 9,2-6.15; Lc 9,29.34 b).
24. HỎI: Phê
rô có ý gì khi đề cập đến ba chiếc lều?
THƯA: Có lẽ ông nghĩ đến sự gần
gũi với Thiên Chúa như đã được ban cho Mô-sê trong ‘Lều hội ngộ’ (x. Xh 33,
7-11; 34, 29 - 35).
25. HỎI: Với
trình thuật về biến cố Biến Hình lịch sử, Thánh Luca muốn nói gì với những
người đương thời với ông?
THƯA: Ngài muốn dạy rằng Chúa
Giêsu chính là Đấng đáp ứng niềm hy vọng phổ biến rộng rãi ở Ít-ra-ên: Thiên
Chúa, vào thời gian định sẵn bởi sự khôn ngoan của mình, sẽ qui tụ dân Người
lại và một lần nữa cho thấy lòng thương xót của Người: ‘Bấy giờ Đức Chúa sẽ cho
thấy những vật thánh đó. Vinh quang của Đức Chúa và đám mây sẽ xuất hiện như đã
từng xuất hiện dưới thời ông Mô sê’ (2 Mcb 2,8).
26. HỎI: Có
liên kết nào giữa câu chuyện Biến Hình và câu chuyện người bị quỉ ám tiếp theo
sau không (Lc 9, 37- 43)?
THƯA: Chắc chắn là có. Câu
chuyện Biến hình được bổ túc bằng câu chuyện của người thanh niên được Chúa
Giêsu giải thoát, sau khi các môn đệ đã không thể thắng được Sa-tan. Qua đó,
Thánh Lu ca muốn nói rằng trong khi Chúa Giêsu ở trên núi, Giáo Hội dường như
không thể đuổi được ma quỉ và chiến thắng thế hệ bất tín và gian tà của trần
gian. Tuy nhiên vì Chúa Giêsu luôn luôn gần gũi với các tín hữu nên khi Giáo
hội bế tắc, thì chính là lúc Chúa chiến thắng sự Ác trên thế gian và gợi lên
niềm hy vọng vào chiến thắng cuối cùng.
27. HỎI:
Thực thi Sứ điệp như thế nào?
THƯA: Để thực thi sứ điệp Lời
Chúa hôm nay, chúng ta phải vâng nghe Lời Chúa Giê su. Vâng nghe Lời Chúa Giê
su trước hết là đọc và suy niệm Lời Chúa trong Phúc Âm; kế đến là thi hành
những giới răn và lời mời gọi của Chúa, cũng trong Phúc Âm; và sau cùng là giúp
người khác biết vâng nghe Lời Chúa Giê-su như chính mình đã vâng nghe.
TYGLCG: 110 Trước hết, Thiên Chúa Ba Ngôi xuất
hiện trong cuộc Hiển Dung: ‘Chúa Cha trong lời nói, Chúa Con trong nhân tính
của mình, Chúa Thánh Thần trong đám mây sáng chói’ (thánh Tôma Aquinô). Khi gợi
lên cho ông Môsê và ông Êlia về cuộc ‘ra đi của mình’ (Lc 9,31), Chúa Giêsu cho
thấy rằng vinh quang của Người phải kinh qua thập giá; và Người sống trước cuộc
phục sinh và cuộc trở lại trong vinh quang của Người, lúc Người ‘sẽ biến đổi
thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người’(Pl 3,21).