Suy Niệm Lời
Chúa Thứ Ba Tuần XXXIV Thường Niên B
LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
“Khôn
như rắn và đơn sơ như bồ câu”
Lời Chúa: Mt 10, 16-22
(16) Này, Thầy sai anh em đi
như chiên đi vào giữa bầy sói. Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ
câu. (17) "hãy coi chừng người
đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội
đường của họ. (18) Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan
quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết. (19)
Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì: (20)
thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Chúa Cha nói trong
anh em.
(21) "Anh sẽ nộp em, em
sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha
mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. (22) Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi
người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.
Suy Niệm:
Cùng với toàn thể Giáo
Hội, trong Thánh Lễ này, chúng ta mừng kính trọng thể Các Thánh Tử Đạo Việt Năm.
Cụ thể, có tất cả 96 vị thánh tử đạo: 37 thánh tử đạo linh mục và 59 thánh tử
đạo giáo dân, nam và nữ. Các vị đã được Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô phong
thánh vào ngày 19 tháng 6 năm 1988.
Như chúng ta vừa nghe,
đa số các thánh tử đạo là giáo dân nam và nữ. Vậy chúng ta hãy cầu xin cho Giáo
Hội và nhất là cho tất cả các Ki-tô hữu, là chính chúng ta, có được niềm xác
tín tuyệt đối nơi tình yêu muôn ngàn đời bền vững của Thiên Chúa dành cho chúng
ta, bất chấp mọi sự, theo gương của các thánh tử đạo. Như lời thánh Phao-lô
nói:
Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại
hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một
loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của
Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta. (Rm 8, 38-39)
1. Sự chết
Khi thi hành sứ mạng phục vụ cho sự sống của con
người, người môn đệ có nguy cơ mất đi chính sự sống của mình. Bởi vì con người
không chỉ đau khổ vì thân phận sinh lão bệnh tử, nhưng còn bị chi phối nặng nề
bởi Sự Dữ, gây ra bầu khí chết chóc và chính cái chết cho con người (x. St 3,
1-7: Con Rắn gieo nọc độc ghen tị gây chết chóc trong lòng con người và trong
tương quan giữa người với người). Phục vụ cho sự sống đến độ đánh liều chính sự
sống của mình. Nhưng đó lại là con đường nhận lại sự sống trong Chúa, giải
phóng sự sống hôm nay khỏi Sự Dữ và tất cả những gì liên quan đến Sự Dữ, vì thế
làm cho sự sống trở nên đích thật và hướng về sự sống viên mãn mai sau, theo
khuôn mẫu của mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô.
Chính vì thế, Đức Giê-su nói, Ngài sai các môn đệ
đi như “chiên vào giữa bầy sói”. Như thế, sự chống đối, thậm chí bách hại, là
tất yếu; như hình ảnh “chiên và sói” gợi ra: một bên là hiền lành và một bên là
bạo lực, muốn hủy diệt. Nhưng lí do của sự chống đối không phải là chính bản
thân các môn đệ, nhưng là “vì Thầy”, “vì danh Thầy”, bởi vì Thầy mới là “Con
Chiên” đích thật của Thiên Chúa, là Đấng mà các môn đệ rao giảng và được mời
gọi trở nên một với Ngài. Người môn đệ được mời gọi trở nên một với Đấng mình
rao giảng, vì Ngài đã trở nên một với môn đệ trước.
“Người đời” đã bách hại Thầy và Đức Giê-su nói:
“Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được
như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là Bê-en-dê-bun, huống
chi là người nhà”. Và “Người đời” tiếp tục bách hại Thầy nơi các môn đệ, bởi vì
Thầy là “Chiên lành”, “Sự Thiện”, “Thiên Tính”, “Ánh Sáng”, “Sự Sống, “Sự
Thật”. Vì thế, một cách tương ứng, kẻ bách hại không phải là những con người cụ
thể, nhưng là “Sói Dữ”, “Sự Dữ”, “Thú Tính”, “Gian Dối”, “Bóng Tối”, “Sự Chết”
hành động nơi những con người cụ thể. Thế mà, Sự Dữ và những gì thuộc về Sự Dữ
có mặt ở khắp nơi và nơi mọi người, và có nơi chính các môn đệ! Vì thế, sự
chống đối của Sự Dữ có thể bùng lên từ những nơi và những người thiết thân
nhất: “Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái
sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết.” “Sói Dữ” không phải
là con người, những là thú tính hiện diện và chi phối con người chống lại
“Chiên Lành”.
2. Sự Sống
Nhưng lời loan báo của Đức Giê-su về sự bách hại
thậm chí giết hại, lại chứa đựng Sự Sống của Thiên Chúa và hướng đến Sự Sống
viên mãn của Người, theo khuôn mẫu của “Hạt Lúa Mì”, nghĩa là của mầu nhiệm
Vượt Qua. Thật vậy, bách hại, nhưng lại là cơ hội “để làm chứng cho họ và cho
dân ngoại được biết”; và bởi vì đây là chứng từ tận cùng, nghĩa là “chứng từ sự
sống”, như Đức Ki-tô trong cuộc Thương Khó, người môn đệ được dẫn vào kinh
nghiệm “thần nhiệm” về Thiên Chúa Ba Ngôi: người môn đệ bị bách hại vì Chúa
Con, nên được Chúa Cha ban Chúa Thánh Thần để Người lên tiếng và hành động nơi
các môn đệ, như Đức Giê-su nói: “Vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết
phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí
của Cha anh em nói trong anh em.”
Và sự bách hại không phải là vô tận, nhưng sẽ kết
thúc với biến cố “Con Người đến” một cách bất chợt. Đó là hướng đi tất yếu của
lịch sử cứu độ, bởi vì Đức Ki-tô đã vượt qua sự bách hại và chính sự chết, và
Ngài sẽ lại đến để dẫn đưa sáng tạo và lịch sử đi vào một chiều kích vừa vĩnh
cửu và vừa mới mẻ. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể hiểu, chính sự bách hại
khiến người môn đệ phải trốn chạy: “Khi người ta bách hại anh em trong thành
này, thì hãy trốn sang thành khác”, sẽ làm cho người môn đệ trở nên giống với
Đức Ki-tô và mau đến với Người. Con Người đến với chúng ta, hay chúng ta đến
với Con Người, còn nhắc nhớ Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người: Người đã bị giết
chết, nhưng Người đã phục sinh, để trở nên sức mạnh và niềm hi vọng cho người
môn đệ thuộc mọi thời.
3. “Đừng sợ”
Tuy nhiên, đứng trước
viễn tượng chống đối tất yếu và tận căn như thế, không ai có thể tránh được sự
sợ hãi ; và chính Đức
Ki-tô cũng có kinh nghiệm này trong Vườn Dầu. Vì thế, khi
Người mời gọi người môn đệ nhiều lần « đừng sợ » (3 lần ở những câu
26, 28 và 31), thì đó không phải là sự sợ hãi thuộc bình diện tâm lí, vì ở bình
diện này, con người không thể không sợ, nhưng Người gọi người môn đệ
«đừng sợ», đừng lung lạc, đừng để ma quỉ làm cho nghi hoặc, ở bình
diện tín thác, mà người môn đệ đặt để nơi Sự Thật, quyền năng và tình yêu của
Thiên Chúa.
Tín thác nơi chân lí
của sứ điệp Tin Mừng, của chính Đức Ki-tô, bởi vì Người là Chân
Lý ; và Chân Lý này hôm nay được rao giảng bởi các môn đệ, nhưng một ngày
kia sẽ được tỏ bày cho tất cả mọi người : « Thật ra, không có gì che
giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết.
Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và
điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng.” Và tín thác nơi quyền năng mạnh hơn sự chết của Thiên Chúa: «Anh em đừng sợ những kẻ
giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể
tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục»
Và nhất là người môn
đệ đươc mời gọi tín thác nơi tình yêu quan phòng của Người : « Hai con chim sẻ chỉ bán
được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của
Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh
em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá
hơn muôn vàn chim sẻ». Khi nói về tình yêu quan phòng
của Thiên Chúa Cha, ngang qua hình ảnh « con chim sẻ », Đức Giê-su đã
làm cho lời nguyện Thánh Vịnh được hoàn tất (x. Lc 24, 44); thật vậy,
theo con đường thiêng liêng của lời nguyện Thánh Vịnh, Người mời gọi chúng ta
nhận ra tình yêu đặc biệt của Thiên Chúa dành cho con người khởi đi từ công
trình sáng tạo của Người :
Ngắm tầng
trời tay Chúa sáng tạo
muôn trăng sao Chúa đã an bài,
thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến,
phàm nhân là
gì, mà Chúa phải bận tâm?
(Tv 8, 4-5)
Chim sẻ rẻ tiền như
thế, nhưng vẫn không bị loại bỏ khỏi sự quan tâm yêu thương của Chúa Cha, trong
khi chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và được tái sinh trong Máu Đức Ki-tô để trở nên con Thiên Chúa, vì thế, Người quí trọng từng «sợi
tóc» trên đầu của chúng ta. Chứng kiến từng sợi tóc rụng theo năm tháng,
nhất là khi đến tuổi trung niên, thay vì sợ hãi, chúng ta được mời gọi tín thác
nơi Thiên Chúa «muôn ngàn đời vẫn trọn tình thương».
Vì thế, không có gì
tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa, được thể hiện nơi Đức Ki-tô, dù cho đó là “gian
truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?... là sự chết hay sự
sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức
mạnh nào trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác” (Rm 8,
35-39). Chính tình yêu Thiên Chúa cuốn hút con tim và làm cho người môn đệ
“tuyên bố Thầy trước mặt thiên hạ”, nghĩa là sống tương quan thiết thân với
Người trong mọi nơi mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh.
Khi bắt đầu nói về sự bách hại, Đức Giê-su mời gọi
người môn đệ: “Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu” (c. 16).
Chúng ta chỉ có thể hiểu đúng lời mời gọi này khi chiêm ngắm Mầu Nhiệm Thương
Khó của Đức Ki-tô, để nhận ra Khuôn Mặt của Đức Ki-tô chịu đóng, rạng ngời sự đơn sơ và khôn ngoan của Thiên Chúa và để cho con tim chúng ta được chinh
phục.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc