CHỦ NHẬT LỄ HIỆN XUỐNG
Sự sống sung mãn là một ơn ban của Thánh Thần. Tiếng kêu tự bản năng con người, ngay từ khởi thủy là đây: SỐNG!, ĐƯỢC SỐNG SUNG MÃN VÀ ĐƯỢC SỐNG MUÔN ĐỜI. Nhưng tội lỗi giam hãm con người trong chính nó và dẫn đến thất bại. Sự Sống đích thực, chính là Thần Khí. Mạc khải Ki tô giáo khẳng định rằng Thánh Thần sẽ được ban cho chúng ta. Lễ Hiện Xuống chính là Lễ của Thánh Thần, đồng thời đánh dấu mùa Phục sinh kết thúc. Chính từ biến cố Hiện Xuống mà sự canh tân một thế giới tái tạo bởi Thiên Chúa được khẳng định.
Công vụ 2,1-11
Biến cố Hiện xuống là điểm khởi hành. Tất cả những gì được ghi chép lại trong sách Công vụ có mục đích cho thấy sự bùng nổ của Thánh Thần trong thế giới. Và chúng ta cũng được loan báo công cuộc tái hợp nhất nhân lọai đang được tiến hành ngang qua Lịch sử nhờ các tín hữu được thấm nhuần Tình yêu Thiên Chúa.
Thánh vịnh 103
Người Do thái ca tụng Thần khí Thiên Chúa, diễn tả sức năng động của Người, nguồn suối phát sinh sự sống của thiên nhiên. Đối với người ki tô hữu, Thánh Thần là nguồn suối phát sinh một sự Tái Tạo đích thật. Bằng cách đảo lộn tâm hồn con người, Người tìm cách tái định hướng đến một thế giới phản ánh Vinh quang Thiên Chúa.
Thư gửi tín hữu Rô ma 8,8-17
Theo ngôn ngữ thánh Phao lô, xác thịt chính là con người co cụm lại với chính mình, chỉ quan tâm đến các ước muốn của mình. Còn Thần khí, chính là một hình thái sự sống mới được Thánh Thần Thiên Chúa khơi dậy. Người giúp chúng ta định vị chính xác trước mặt Thiên Chúa, trước mặt người khác, trước mặt thế giới. Không gì có thể phá hủy được Người. Như Chúa Giê su sống lại, chúng ta được mời gọi luôn luôn sống kết hợp với Chúa.
Tin mừng Ga 20,19-23
NGỮ CẢNH
So sánh với đoạn văn song song của Lu ca giúp ta nhận thấy rằng trong khi Lc dừng lại ở việc nhận biết Chúa Giê su phục sinh, thì Gio an lướt qua để dừng lại lâu hơn nơi con người Chúa Giê su đang hướng về tương lai và thông ban các quyền năng của Ngài. Như thế chủ ý của ông là muốn nhấn mạnh đến sứ mệnh của Giáo Hội phát sinh từ cuộc Phục sinh của Chúa Giê su.
Có thể đọc bản văn theo bố cục sau đây:
Thời gian, nơi chốn hoàn cảnh cuộc hiện ra: 19abc.
Chúa Giê su hiện đến (19d-20a) được các môn đệ nhận ra (20b).
Lời chào, sai đi, trao banThánh Thần và sứ mạng (21-23).
TÌM HIỂU
Vào chiều ngày ấy: bà Ma ri a Ma đa lê na đi ra mồ từ « sáng sớm » (20,1). Đối với nhóm Mười Một, một ngày dài đã trôi qua trước cuộc hội ngộ nầy. Các cuộc hiện ra của đấng Phục sinh với các môn đệ diễn ra vào buổi chiều (6,16; 13-17), nhưng cũng còn trong ngày thứ nhất (20,1.26).
Các cửa đều đóng kín: niềm tin của Ma đa lê na đầy ngẫu hứng và tình cảm. Bà đi thẳng đến Chúa và đã gặp thấy Ngài. Còn các môn đệ thì khác chưa hết “sốc” bởi nỗi sợ hãi người Do thái; dù có những bước chân của Phê rô và Gio an, họ vẫn còn ẩn trốn trong nhà. Vì thế Chúa Giê su cần phải cho họ niềm xác tín là Ngài đã sống lại. Các trình thuật nầy có lẽ phản ánh nỗi khó khăn mà Giáo hội gặp phải: một vài người mạnh dạn đến với Chúa, trong sự đơn sơ của niềm tin; một số khác thì chậm chạp hơn vì nhiều thử thách mà cộng đoàn phải vượt qua.
Chúa Giê su đứng giữa các ông: “Đâu có hai hay ba người tụ họp nhân danh ta, có ta ở giữa họ” (Mt 18,20).
“Bình an cho anh em”: lời chào được lặp lại ở câu 21. Đó là câu chào hỏi bình thường trong ngôn ngữ sê mít. Tuy nhiên, bình an là một khái niệm giàu ý nghĩa bao hàm toàn bộ những gì làm cho cuộc sống được hạnh phúc. Sự bình an của thời đại cánh chung là một ơn ban quí giá nhất của Thiên Chúa dành cho con người đã được các tiên tri loan báo. Ơn trên được ban cho là nhờ vào những nỗi khổ đau mà người Tôi Tớ phải gánh chịu: “Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành” (Is 53,5).
Khi Chúa Giê su xuất hiện ở giữa các môn đệ của Ngài, không những Ngài cầu chúc, mà còn ban cho sự bình an (x.14,27; 16,33). Sau nầy Phao lô sẽ nói về Đức Ki tô rằng: Ngài qui tụ các kẻ thuộc về Ngài trong chính sự chết và sự phục sinh của Ngài: “Ngài là chính sự bình an của chúng ta” (Ep 2,14).
Xem tay và cạnh sườn: như ở Lu ca 24,39, Chúa Giê su muốn liên kết các đau khổ mà Ngài đã chịu với cuộc phục sinh của Ngài, khi tỏ cho thấy các vết thương của Ngài. Trong các tác giả tin mừng, chỉ có Gio an nói, và nói ba lần (ở đây và cc, 25-27) đến vết thương cạnh sườn Ngài (x. 19,34-37).
Vui mừng: giờ đây mọi sự đã thay đổi. Với sự phục sinh, lời kinh của Chúa Giê su dâng lên Cha đã được chấp nhận: “Để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con” (Ga 17,l3).
Thầy cũng sai anh em: Chúa Giê su hiện ra với các môn đệ của Ngài không chỉ để gợi lại cho họ kí ức về Ngài, nhưng còn để sai phái họ ra đi. Cả bốn tin mừng đều đồng qui về điểm đó (Mt 28,19; Mc 16,15; Lc 24,47; x. Cv 1,8).
Sứ mạng đó là một trong những đối tượng các lời cầu nguyện của Chúa Giê su cho các môn đệ của Ngài (17,18). Và cũng nhằm nối tiếp sứ mạng mà Ngài đã lãnh nhận từ nơi Chúa Cha. Chúa Giê su lặp lại “Bình an cho các con”. Ra đi vào thế gian, họ mang theo mình sự bình an của Thiên Chúa.
Thổi hơi: đối với Gio an, cử chỉ nầy là dấu chỉ đưa đến một thực tại sâu xa hơn. Hơi thở mà Chúa Giê su khi sinh thì, đã trao lại trên thánh giá (19,30) là hơi thở của Thiên Chúa, tức là Thánh Thần. Ơn ban Thánh Thần đó được liên kết mật thiết với cái chết và sự phục sinh của Ngài. Lu ca bố trí biến cố Thánh Thần hiện xuống năm mươi ngày sau (Cv 2,1-4), cũng đặt mối tương quan đó trong một lời Chúa Giê su hứa cho các môn đệ vào chính ngày Phục sinh (24,49).
Với sự phục sinh Chúa Giê su, lịch sử cứu độ đạt tới giai đoạn cuối cùng. Vào lúc khởi đầu: Thiên Chúa đã “thổi sinh khí” (Stk 2,7) vào lỗ mũi người nam. Chúa Giê su phục sinh ngự tại trung tâm thế giới mới, mà ngài đã tác sinh bằng cách thông truyền hơi thở của chính Thiên Chúa để cho thế giới được sống.
Tha tội: sứ mạng truyền giáo bao gồm việc tha tội (x. Lc 24,47). Ngay từ đầu, sách tin mừng Gio an đưa ra một lời mời gọi tiếp nhận sự sống ngang qua niềm tin vào Chúa Giê su; do đó, tội lỗi, căn bản chính là sự từ chối tin. Gia nhập vào cộng đoàn các tín hữu, tức là những người đặt niềm tin vào Chúa Giê su phục sinh, có nghĩa là xác nhận rằng tội riêng đã được tha thứ.
Cầm giữ ai: tha thứ-cầm giữ chỉ là hai mặt song đối của một tổng thể duy nhất là sứ mạng của Chúa Giê su hoàn toàn hướng về ơn cứu độ (3,16-17; 5,20-30).
SỨ ĐIỆP
Chúng ta đã đọc bài tin mừng nầy cách đây mười lăm ngày. Nhưng các bài đọc thánh kinh được đề nghị cho Thánh lễ Hiện Xuống mang lại cho nó một luồng sáng mới. Hôm nay là lễ của Ơn ban Thánh Thần cho các Tông đồ và cho toàn thể Hội Thánh. Một điều đáng để ý là nhân cơ hội nầy, tin mừng chỉ nói với chúng ta về tình yêu. Bình thường chúng ta muốn nói về Thánh Thần như một đấng mang đến cho chúng ta niềm cảm hứng, các ý tưởng, sự biện phân, sự hiểu biết. Nhưng Chúa Giê su nói với chúng ta về một điều khác hẳn. Thánh Thần là một Tình yêu nhân cách hóa. Điều đó không có gì lạ lùng, bởi vì, Thánh Gioan đã viết: “Thiên Chúa là tình yêu”.
Vào buổi sáng ngày Hiện xuống, các môn đệ đầy tràn Chúa Thánh Thần. Đó chính là Tình yêu của Thiên Chúa xâm chiếm họ. Đối với chúng ta, những người ki tô hữu đã được rửa tội và thêm sức cũng như thế. Khả năng yêu thương của chúng ta bị chính tình yêu của Thiên Chúa chiếm hữu. Từ nay, chúng ta có thể trở thành người do thái với người do thái, người ả rập với người ả rập, người phi châu với người phi châu và nhất là chúng ta có thể cảm nghiệm sự nghèo khổ với những người nghèo. Tình yêu ấy của Thiên Chúa ngự trong chúng ta thúc đẩy chúng ta gặp gỡ người khác trong chính điều họ đang sống. Đức Ki tô nhấn mạnh rất rõ ràng vế mối liên kết giữa tương quan của chúng ta với Thiên Chúa và tương quan giữa chúng ta với anh em: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ trung thành với các giới răn của Thầy”. Điều răn ấy chúng ta đều biết: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Yêu thương nhau chính là phục vụ tha nhân, như việc rửa chân vào chiều thứ năm tuần thánh mà Chúa Giê su đã làm gương cho chúng ta.
Ai yêu mến Đức Ki tô không thể không dấn thân phục vụ anh em mình. Tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và tình yêu của chúng ta đối với anh em mình không thể tách rời được. Nhìn cách chúng ta phục vụ anh em mà người ta có thể phán đóan về phẩm chất tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa. Chúa của chúng ta quí chuộng mỗi người như là phẩm vật quí giá nhất của Người. Nếu Chúa Giê su chết trên thánh giá, thì quả thật chính vì tình yêu đối với tất cả mọi người không loại trừ ai. Ai không phục vụ người khác thì không thể nói rằng mình yêu mến Thiên Chúa. Thánh Gioan còn đi xa hơn: “Nếu ai yêu mến Thầy, và trung thành giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và chúng ta sẽ đến với người ấy và chúng ta sẽ ở trong người ấy”. Chúng ta nên hiểu cho kỹ, Chúa Giê su không có ý nói rằng nếu chúng ta không phục vụ người khác, Cha có thể không yêu thương chúng ta. Trong Thiên Chúa, không có sự mặc cả hay điều kiện. Người là Tình yêu và lòng Thương xót; điều đặc biệt nơi lòng thương xót của Người đó là Người dành nhiều ưu ái hơn cho những kẻ khốn cùng, những kẻ cần được yêu thương và được phục vụ.
Vì thế, trang tin mừng nầy là một lời mời gọi tiếp nhận tình yêu không giới hạn ở nơi Thiên Chúa. Nếu chúng ta đi theo hướng ấy, tâm hồn chúng ta sẽ rộng mở. Tình yêu của Thiên Chúa càng ngày càng xâm chiếm tâm hồn, giúp chúng ta phục vụ anh em mình một cách đắc lực hơn. Nhưng tất cả tùy thuộc vào việc chúng ta biết chịu khó “kín múc tận nguồn” tình yêu, niềm vui và bình an ấy ở trong Thiên Chúa. Chúng ta chỉ chuyển thông cho thế gian điều mà chúng ta được Thiên Chúa tiếp tế trong lời cầu nguyện và đón nhận Lời Thiên Chúa.
Thần khí của Chúa Giê su được ban cho chúng ta để chúng ta thi hành sứ vụ. Nhưng thường luôn có sự chống đối trong chúng ta. Tin mừng hôm nay nói với chúng ta rằng chúng ta có một đấng bào chữa. Tất cả chúng ta đều cần đến Người, không phải để chống lại Thiên Chúa, vì Người là Tình yêu, mhưng để chống lại chính mình. Rất thường, chúng ta nói: “Tôi không thể làm được, tôi quá già.. hoặc quá trẻ.. chúng tôi không đủ số. Theo não trạng chúng tôi, điều đó không thể thực hiện được”. Nhưng đấng bào chữa hiện diện để bênh vực cho người khác. Người là đấng đã thúc đẩy các môn đệ ra trước đám đông, đến với những người đã lên án Chúa Giê su chết trên thánh giá.
Nghĩ đến Chúa Thánh Thần, thì điều trước tiên là thưa với Người: “Xin hãy đến!”. Bấy giờ, Người sẽ là đấng xâm chiếm tâm hồn. Cuộc sống ki tô hữu của chúng ta trở thành một kinh nghiệm sự sống tràn đầy Thánh Thần. Vừa đến, Người hoạt động ngay. Chính Người phát động Giáo Hội trên khắp thế gian. Chúng ta cần phải thưa với Người rằng: “Xin hãy đến” khi có bế tắc nơi chúng ta, khi chúng ta sợ dấn thân, khi chúng ta không thể tha thứ. Khi bị thử thách hay khó khăn cùng cực, Người sẽ trở thành đấng bảo vệ, để giúp chúng ta hiểu rằng đối với Thiên Chúa, không có tình cảnh nào là tuyệt vọng cả. Người là sức mạnh để khởi đầu và khởi đầu lại, là đấng không biết mệt mỏi thúc đẩy chúng ta bước tới trước. Tất cả đều tùy thuộc vào sức mạnh của lời cầu xin: “Xin hãy đến!” mà ai trong chúng ta cũng có thể dâng lên Người.
Chúng ta hãy cầu xin Người giải thoát chúng ta khỏi những nỗi sợ hãi đóng khung chúng ta, những thói quen, những thành kiến và những điều không hài lòng. Ước gì Người biến chúng ta thành những con người tự do!
ĐÀO SÂU
1. HỎI: Nội dung bài đọc một như thế nào?
THƯA: Bài đọc thứ nhất trích từ sách Công vụ (2,1-11), tác phẩm thứ hai của Thánh Lu ca, kể lại biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các môn đệ vào ngày lễ Ngũ tuần.
2. HỎI: Đâu là bối cảnh của cuộc Hiện xuống?
THƯA: Đó là Thành Giê su sa lem và lễ Ngũ tuần. Thành Thánh Giê ru sa lem là thành của ơn ban Thánh Thần: đó không chỉ là nơi Chúa Giê su thiết lập bí tích Thánh thể, nơi Ngài sống lại, mà còn là nơi Thánh Thần được ban xuống cho nhân loại. Vào thời Chúa Giê su, lễ Ngũ tuần của Do thái giáo rất quan trọng: đó là lễ kỉ niệmn ơn ban lề luật, một trong ba lễ lớn trong năm mà người ta phải hành hương về thành Giê ru sa lem.
3. HỎI: Thánh Lu ca muốn gợi lại ba bản văn nào của Cựu Ước?
THƯA: Thánh Lu ca muốn gợi lại ba bản văn nầy: một là bản văn ban Lề luật trên núi Si nai (Xh 19); hai là lời của Tiên tri Giô-ên (Ge 3); và ba là câu truyện tháp Ba-bên (Stk 11,1-3)
4. HỎI: Những dấu hiệu nào gợi lại bản văn ban lề luật trên núi Si-nai?
THƯA: Đó là lưỡi lửa, tiếng động giống như một luồng gió mạnh, gợi nhớ lại những gì đã xảy ra ở trên núi Si nai khi Thiên Chúa ban lề luật cho ông Mô sê (x. Xh 19).
5. HỎI: Thánh Lu ca có ý gì khi gợi lại biến cố Si nai?
THƯA: Thánh Lu ca muốn cho thấy lễ Ngũ tuần nầy là một biến cố Si nai mới. Cũng như Thiên Chúa đã ban lề luật cho dân để dạy họ sống theo Giao Ước, thì từ nay Người ban Thần khí của Người cho dân, như lời tiên tri Êdêkiên loan báo: “Ta sẽ đặt trong tâm hồn chúng Thần khí của Ta, Ta sẽ dạy chúng đi theo lề luật, tuân giữ và thực hiện các điều luật của ta, chúng sẽ là dân ta và ta sẽ là Thiên Chúa của chúng”. Từ nay luật Thiên Chúa được ghi khắc trong tâm hồn chứ không còn trên những phiến đá nữa như xưa nữa.
6. HỎI: Điều gì cho thấy Thánh Lu ca muốn gợi lại lời sấm Gio-ên?
THƯA: Tiên tri Gio-ên loan báo: “Ta sẽ đổ thần khi của Ta trên mọi xác phàm” (Ge 3). Nên sự kiện nhiều dân tộc khác nhau hiện diện ở Giê-ru-sa-lem cũng như việc người do thái từ khắp nơi đổ về Giê ru sa lem dự lễ cho thấy lời sấm Giô ên đã được hoàn tất.
7. HỎI: Tại sao Thánh Lu ca muốn gợi lại câu truyện về tháp Ba bên?
THƯA: Câu chuyện về ngày Ngũ tuần trong Lu ca theo sát đường hướng câu chuyện tháp Ba bên: ở Ba bên, nhân loại học được sự khác biệt, còn ở ngày lễ Ngũ tuần, họ học được sự duy nhất trong sự khác biệt: từ nay, mọi dân tộc đều đồng ý công bố sứ điệp duy nhất về những điều kì diệu của Thiên Chúa bằng các ngôn ngữ của họ.
8. HỎI: Các cửa đều đóng kín, nhưng Chúa Giê su vẫn đến được, cho thấy gì?
THƯA: Cho thấy rằng Ngài đang sống trong một điều kiện thể lí khác hẳn trước, thân xác phục sinh của Ngài không còn bị ràng buộc bởi các định luật vật lí như chúng ta.
9. HỎI: “Nơi các môn đệ ở”, nơi nào?
THƯA: Có lẽ Gioan nghĩ đến mộ căn nhà ở Giê ru sa lem, và dường như đây cũng chính là nơi các môn đệ ở khi Maria Mađalêna đến tìm các ông (20,18).
10. HỎI: Tại sao Chúa Giê su chúc các tông đồ hai lần: “Bình an cho các con”?
THƯA: Vào chiều Phục sinh, Chúa Giê su tỏ mình ra cho các tông đồ và hai lần chào chúc bình an cho họ. Giữa hai lần chào chúc, Ngài tỏ cho thấy các dấu tích của cuộc Khổ nạn. Qua đó, Ngài muốn nói rằng bình an Ngài ban không giống bình an của người đời. Trái lại đó là thứ bình an đích thực, được mua lấy bằng chính máu của Ngài trong cuộc Khổ nạn. Niềm vui và bình an Ngài ban là kết quả của cuộc Khổ nạn ấy.
11. HỎI: Tại sao Chúa Giê su thổi hơi vào các ông khi trao ban Thánh Thần?
THƯA: Cũng như Thiên Chúa đã thổi hơi sự sống cho con người đầu tiên (Stk 27,; Kn 15,11), Chúa Giê su thổi hơi Thánh Thần tái tạo họ để trao ban cho sứ mạng dẫn đưa người khác đến với nguồn sự sống mới.
12. HỎI: Như thế, các môn đồ được Chúa Giê su trao ban Thánh Thần hai lần, một lần chiều ngày Phục sinh (theo Gioan) và một lần nữa vào dịp lễ Ngũ tuần (Cv 2,1-4)?
THƯA: Hai sự việc được Gioan và Luca tường thuật thật ra không phải hai lần trao ban Thánh Thần khác nhau, nhưng là hai cách diễn tả cùng một biến cố.
13. HỎI: Quyền tha và cầm tội được trao ban cho các môn đệ nói lên điều gì?
THƯA: Truyền thống Công Giáo vẫn coi những lời Chúa Giê su trao ban cho các môn đệ quyền tha và cầm tội là lời thiết lập bí tích cáo giải. Từ nay, các môn đệ được ban cho quyền tha thứ tội lỗi cho các tội nhân để giao hòa họ với Thiên Chúa.
14. HỎI: Trong bài tin mừng, Chúa Giê su nói về Chúa Thánh Thần như thế nào?
THƯA: Thường chúng ta khuynh hướng nghĩ về Chúa Thánh Thần hoạt động để linh hứng, gợi ý, phân biện, giúp hiểu biết. Ở đây Chúa Giê su nói với chúng ta về Chúa Thánh Thần như là Tình yêu nhân cách hóa.
15. HỎI: Điều đó có nghĩa là gì?
THƯA: Điều đó có nghĩa là buổi sáng ngày lễ Ngũ tuần, ở Giê ru sa lem, khi các môn đệ đầy tràn Chúa Thánh Thần, thì chính tình yêu của Thiên Chúa xâm nhập tâm hồn họ. Cũng như chiếc bình sành trong bàn tay của Thiên Chúa, chúng ta không ngừng được uốn nắn theo ý Người muốn. Nếu chúng ta càng để cho Thần khí tình yêu biến đổi, thì chúng ta càng trở nên giống Người hơn.
16. HỎI. Lễ Hiện Xuống có phải là lễ tôn giáo quan trọng nhất không?
THƯA: Đúng là như vậy. Đó là lễ lớn nhất, vì nó chỉ ra con đường cho tin mừng được loan báo trên tòan thế giới. Đó là lễ Truyền Giáo của Giáo Hội công bố cho mọi dân biết rằng Thiên Chúa Ba Ngôi ba lần thánh là Tình yêu.
17. HỎI. Nhưng theo Phụng vụ, thì lễ Hiện Xuống nói lên điều gì?
THƯA: Lễ Hiện Xuống là cao điểm của các lễ mùa Phục sinh và cùng với lễ Phục sinh, là đỉnh cao của Năm Phụng vụ. Đó là lễ của Thánh Thần và là lễ của Giáo Hội, là ngày sinh ra Giáo Hội. Nó nhắc chúng ta nhờ đến sự hiện diện và hoạt động kì diệu của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội và trong đời sống con người. Hơn bao giờ hết, nhân lọai có trách nhiệm to lớn là không được dập tắc hay cản trở hành động nầy. Đức Gioan Phao lô II nói trong thông điệp Redemptoris Missio rằng: “Chúa Thánh Thần là nhân vật chính của Sứ mạng Giáo Hội”.
18. HỎI. Việc tắt nến Phục sinh có cho thấy Đức Ki tô vắng mặt trong Giáo hội không?
THƯA: Không hẳn là như thế, dù cho việc tắt nến Phục sinh được chỉ định trong ngày hôm nay, cho thấy một hình thức hiện diện mới của Đấng Phục sinh trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần, giữa các môn đệ và ngang qua các Ngài giữa mọi dân tộc.