CHÚA NHẬT 7 PHỤC SINH
LỄ CHÚA THĂNG THIÊN C
CHỨNG NHÂN BÁC ÁI – PHƯƠNG THẾ TRUYỀN GIÁO HỮU HIỆU
I. HỌC
LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG : Lc 24,46-53
(46) Khi ấy
Đức Giê-su hiện ra với các môn đệ và bảo : “Có lời Kinh
thánh chép rằng : Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình,
rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại. (47) Và phải nhân danh Người
mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám
hối để được ơn tha tội. (48) Chính anh em là chứng nhân của những
điều này”. (49) Và đây, chính Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã
hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền
năng từ trời cao ban xuống. (50) Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a,
rồi giơ tay chúc lành cho các ông. (51) Và đang khi chúc lành, thì
Người rời khỏi các ông và được rước lên trời. (52) Bấy giờ các ông
bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ, (53) và
hằng ở trong Đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.
2. Ý CHÍNH :
Tin mừng hôm
nay thuật lại việc Đức Giê-su sau khi phục sinh đã hiện ra với các môn đệ
vào chiều ngày Thứ Nhất trong tuần, nhằm mục đích dạy các ông hiểu
Người trải qua cuộc tử nạn và phục sinh đúng như lời Thánh kinh, và các
ông có bổn phận làm chứng về những điều mắt thấy tai nghe ấy. Người
cũng hứa sẽ ban Thánh Thần đến giúp đỡ các ông. Sau đó, Đức Giê-su lên
trời đang khi giơ tay chúc phúc cho các ông ở gần làng Bê-ta-ni-a. Rồi các
ôing trở về Giê-ru-sa-lem cầu nguyện tại nhà Tiệc Ly để chuẩn bị đón nhận
ơn Chúa Thánh Thần.
3. CHÚ THÍCH :
- C 46-48 : + Khi ấy
Đức Giê-su hiện ra với các môn đệ : Về con
số môn đệ được chứng kiến việc Chúa Giê-su lên trời thì Tin mừng Lu-ca
không nêu rõ, đang khi Tin mừng Mát-thêu và Máccô nói là 11 ông (x Mt
28,16; Mc 16,15). Về nơi Chúa lên trời thì các tác giả không thống nhất: Lu-ca
cho biết ở gần làng Bê-ta-ni-a (x Lc 24,50), Mátthêu xác định là xứ Ga-li-lê,
tại quả núi đã được Người chỉ định trước (x. Mt 28,16). Sách Công vụ
thì cho biết Đức Giê-su lên trời tại núi Ô-liu gần thành Giê-ru-sa-lem
(x Cv 1,12) + Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt
đầu từ Giê-ru-sa-lem : Lu-ca luốn
nhấn mạnh về tầm quan trọng của Giê-ru-sa-lem. + Chính anh em là
chứng nhân của những điều này : Các Tông đồ
được sai đi nói cho mọi người biết về Đức Giê-su, dựa theo những điều
mắt thấy tai nghe, sau khi Người từ cõi chết sống lại (x. Ga 21,24; Cv
3,15).
- C 49-50 : + Chính
Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa : Đức Giê-su
tiên báo điều Chúa Cha đã hứa là gửi Chúa Thánh Thần đến với các
Tông đồ sau khi Người rời bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha (x Cv 1,8).
+ Cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống : Quyền
năng này chính là sức mạnh của Thánh Thần. Trong Tân ước, Chúa Thánh
Thần và quyền năng luôn gắn liền với nhau. Chẳng hạn trong biến cố
truyền tin, sứ thần đã nói với Trinh nữ Ma-ri-a : “Thánh Thần
sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên
Bà” (Lc 1,35). Sau khi chiến thắng Xa-tan cám dỗ, Đức Giê-su đã trở về
Ga-li-lê trong quyền năng Thánh Thần để bắt đầu sứ vụ (x. Lc 4,14-19).
Giờ đây, Đức Giê-su lại sắp trao cho các Tông đồ quyền năng Thánh Thần
sau cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Người. Từ đây, các ông đã cố gắng
chu toàn sứ vụ làm chứng về mầu nhiệm Chúa Giê-su đã chết và sống
lại (x. Cv 4,33). Các ông không dùng sức riêng làm các phép lạ, nhưng
nhờ quyền năng Thiên Chúa và nhờ Danh Đức Giê-su Ki-tô (x Cv 3,16;
4,7-10). + Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a : Với tư
cách là Vua Mê-si-a, Đức Giê-su đã khải hoàn tiến vào thành Giê-ru-sa-lem
từ làng Bê-ta-ni-a (x. Lc 19,28-29). Giờ đây với tư cách là Đấng Phục
Sinh chiến thắng tử thần, Đức Giê-su cũng khải hòan về trời từ làng Bê-ta-ni-a
này (x. Lc 24,50). + Rồi giơ tay chúc lành cho các ông : Thời
Cựu ước, các Tổ phụ dân Ít-ra-en thường chúc lành cho con cháu trước
khi nhắm mắt như: I-xa-ác chúc lành cho Gia-cóp (x. St 27,23-29) ; Gia-cóp
chúc phúc cho 12 con trai (x. St 49,28) ; Mô-sê chúc phúc cho con cái
Ít-ra-en (x. Đnl 33,1). Ở đây, trước khi về trời, Chúa Giê-su cũng chúc
lành cho các Tông đồ. Ngày nay, vào cuối Thánh lễ, linh mục chủ tế
cũng chúc lành cho các tín hữu trước khi giải tán họ.
- C 51-52 : Người
rời khỏi các ông và được rước lên trời : Qua sự
kiện lên trời này, tác giả Tin mừng Lu-ca cho thấy hai mầu nhiệm Phục
Sinh và Thăng Thiên luôn gắn bó mật thiết với nhau. Trong sách Công vụ
(1,6-11), tác giả Lu-ca coi việc Thăng Thiên như kết thúc các lần Chúa
hiện ra với các môn đệ, khởi đầu sứ vụ làm chứng cho Người tại Giê-ru-sa-lem
cho đến tận cùng thế giới (x. Cv 1,8).
4. CÂU HỎI :
1) Chúa Giê-su
đã lên trời tại nơi nào? Bao nhiêu môn đệ đã được chứng kiến Người lên
trời ? 2) Theo Tin mừng Lu-ca: Giê-ru-sa-lem có vai trò gì trong công
cuộc cứu độ của Đức Giê-su ? 3) Các Tông đồ phải làm gì để thi hành
sứ vụ làm chứng nhân cho Đức Giê-su ? 4) Đức Giê-su hứa ban quyền năng từ
trên cao xuống trên các Tông đồ. Vậy các ông đã nhận được quyền năng ấy
khi nào ? 5) Tin mừng Lu-ca cho thấy hai mầu nhiệm Phục Sinh và Thăng
Thiên có liên quan với nhau ra sao ?
II.
SỐNG LỜI CHÚA
1.LỜI CHÚA : “Chính anh
em là chứng nhân của những điều này” (Lc 24,47-48).
2.CÂU CHUYỆN :
1) CHỨNG NHÂN BÁC
ÁI : PHƯƠNG THẾ TRUYỀN GIÁO HỨU HIỆU.
Một tân tòng gặp một anh bạn vô tín.
Người vô tín này đã hỏi thăm về việc theo đạo của anh như sau :
- Nghe nói anh
mới theo đạo Công giáo phải không ?
- Vâng, đúng hơn
là tôi mới theo làm môn đệ Chúa Giê-su.
- Thế thì chắc
anh đã phải biết rõ về ông Giê-su. Vậy hãy cho tôi biết ông Giê-su sinh ra ở đâu ?
- Tôi đã học qua rồi, nhưng rất
tiếc bây giờ tôi lại quên mất.
- Thế ông Giê-su
sống ở trần gian bao nhiêu năm ?
- Tôi không nhớ
rõ lắm.
- Vậy anh có
biết ông ta đã giảng bao nhiêu bài, làm bao nhiêu phép lạ, có bao nhiêu quyển sách đã viết về ông
ta ?...Nói chung, sự nghiệp của ông ta ra sao ?
- Tôi cũng không
rõ lắm.
- Như vậy là anh
đã biết quá ít về ông Giê-su. Vậy sao anh lại theo đạo của ông ta ?
- Anh đã nói đúng. Tôi rất xấu hổ vì mới
biết qúa ít về Đức Giê-su. Thế nhưng, điều tôi biết rất rõ là thế này : ba năm
trước, tôi là một tên nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ nần chồng chất. Gia
đình lâm vào tình trạng bất hạnh. Vợ con đều buồn giận và không muốn nhìn mặt
tôi. Tôi chán nản tuyệt vọng, thậm chí muốn đâm đầu vào xe lửa chết quách đi
cho xong ! Nhưng
một hôm tôi đã gặp được một người bạn công giáo. Anh này đã đưa tôi đến gặp một
linh mục và tôi được vị này
khuyên chừa bỏ các thói hư, được giới thiệu công ăn việc làm và được ghi
tên theo học lớp giáo lý công giáo. Đến nay sau một năm tôi đã trả hết được nợ
nần, đã chừa bỏ được tật say sỉn, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc. Mỗi
chiều vợ con tôi đều vui vẻ chào đón tôi về nhà sau giờ tan sở. Sở dĩ tôi được
hạnh phúc như ngày nay, tất cả đều bắt nguồn từ niềm tin vào Đức Giê-su. Và đó
là những gì tôi biết rõ về Người !!!
2) CHU TOÀN SỨ MỆNH HOÀN TẤT TÁC PHẨM CỦA THẦY :
GIA-CO-MO
PUC-CI-NI, một nhạc sư sáng tác người Ý, đã để lại cho đời một số những
tác phẩm ca nhạc kịch (opera) rất nổi tiếng. Năm 1922, khi được 64 tuổi, nhạc
sư Puc-ci-ni bị bệnh ung thư ác tính. Mặc dù bị cơn bệnh hành hạ đau đớn, nhưng
ông vẫn quyết tâm hoàn tất vở ca kịch TU-RAN-DOT mà bây giờ nhiều người đánh
giá là vở ca kịch hay nhất của ông. Ông đã làm việc ngày đêm không nghỉ. Nhiều
người khuyên ông hãy nghỉ ngơi vì chắc ông sẽ khó lòng hoàn tất được vở
ca kịch này. Khi cơn bệnh trở nên trầm trọng, Puc-ci-ni đã viết cho các
học trò của ông như sau : ”Nếu
thầy phải ra đi không kịp hoàn tất được vở ca kịch Tu-ran-dot, thầy
muốn các trò tiếp tục công việc để hoàn thành tác phẩm ấy cho thầy”.
Năm
1924, Puc-ci-ni được đưa sang một bệnh viện tại nước Bỉ để chịu giải phẫu và hai
ngày sau thì qua đời. Sau khi ông mất, các học trò của ông đã qui tụ lại, phân
công mỗi người một phần tùy tài năng để hoàn tất vở ca kịch TU-RAN-DOT của thầy,
và sau nhiều ngày vất vả, họ đã hoàn tất được vở ca kịch nổi tiếng này. Năm
1926, vở ca kịch TU-RAN-DOT lần đầu tiên được trình diễn tại nhà hát kịch ở
Milan. Vở ca kịch đã được nhạc trưởng là môn sinh rất được Puc-ci-ni ưa
thích điều khiển. Khi dàn hòa tấu trình diễn tới khúc nhạc mà Puc-ci-ni đã sáng
tác dang dở, những giọt nước mắt đã rơi xuống trên khuôn mặt của người điều khiển.
Ông đã ngưng dàn nhạc lại, buông cây đũa điều khiển xuống, quay ra phía khán giả
nói lớn: ”Nhạc sư đã viết đến đây, rồi ông qua đời”. Cả nhà hát im lặng một hồi
lâu không một tiếng động ! Sau
đó, nhạc trưởng cầm cây đũa, quay ra khán giả, mỉm cười qua những giọt lệ và
nói lớn :
”Nhưng các môn sinh của ông đã tiếp tục hoàn tất tác phẩm này”. Khi vở ca kịch
kết thúc, cả nhà hát bùng lên những tràng pháo tay như sấm nổ vang trời. Mắt
mọi người đều rơi lệ và từ đó về sau không ai có thể quên được giây phút đáng
nhớ ấy (viết theo Sống Lời Chúa giữa dòng đời, tr 190).
Rao
giảng Tin mừng là sứ vụ Đức Giê-su đã trăn trối lại cho các môn đệ Người, cho
Giáo hội nói chung và cho mỗi tín hữu chúng ta nói riêng. Trước khi lìa xa môn
đệ về trời, Chúa Giê-su đã để lại chúc thư cho Hội Thánh qua các Tông đồ như
sau :
”Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho
muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho anh em. Và đây Thầy
sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20).
3) GIÁ TRỊ HOÁN CẢI CỦA LỜI
CHÚA TRONG SÁCH THÁNH :
Tại
một nước thuộc châu Phi, một nhà buôn Âu Châu khi đi vào một bộ lạc hoang dã,
thấy một thổ dân đang đọc sách liền hỏi xem anh đang đọc sách gì ? Anh đáp : “Đọc Kinh Thánh”. Nhà
buôn cười cười nói: “Thứ đó, ở xứ tôi đã lỗi thời rồi! Không ai thèm đọc nó nữa
!”. Người Phi Châu liền đáp :
“Nếu ở đây mà Kinh Thánh cũng lỗi thời như ông nói, thì ông đã bị người trong bộ lạc chúng tôi ăn
thịt rồi !”.
4) LÀM CHỨNG CHO CHÚA BẰNG
LỜI NÓI :
Cách
đây ít lâu, tờ “Lơ Fi-ga-rô” (Le Figaro) đã có đăng một bài báo phỏng
vấn Tổng thống Nga Pu-tin, nội dung thuật lại việc ông Pu-tin đã tuyên xưng
đức tin để làm chứng cho Chúa như sau: Phóng viên hỏi ông Pu-tin về chuyến đi
Giê-ru-sa-lem của ông mới đây, nhiều người đã thấy ông đến cầu nguyện
tại mồ Đức Giê-su và trên tay có cầm cây thánh giá. Vậy ông có cảm
thấy mâu thuẫn giữa việc trước đây từng là cựu sĩ quan của tình báo
KGB với việc ngày nay lại bày tỏ đức tin vào Chúa Giê-su hay không?” Tổng
thống Pu-tin đã trả lời như sau :
“Cuộc sống được tạo nên bằng những điều mâu thuẫn. Chỉ khi nào chết
thì người ta mới hết mâu thuẫn... Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo. Mẹ
tôi đã bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các
ông lại ngạc nhiên khi thấy tôi cầm cây thánh giá mà cầu nguyện tại
ngôi mộ của Chúa Giê-su ?
Tôi tự hào là một tín hữu Ki-tô... Niềm tin của tôi đã cho tôi thêm
tinh thần và bình an trong tâm hồn”.
3. THẢO LUẬN : Con người ngày
nay thích nghe các chứng nhân hơn thầy dạy, thích nhìn thấy những
gương sáng hơn nghe lời giảng suông, như Ba-banh (Babin) đã nói : “Người ta chỉ có
thể tin vào Đức Giê-su, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ đi loan
báo Người”. Bạn có đồng ý với các nhận định nói trên hay không ?
Tại sao ?
4. SUY NIỆM :
1) Cần xác tín về quê trời đời
sau : Trước
cuộc tử nạn, Đức Giê-su dã khích lệ các môn đệ như sau : ”Lòng anh em
đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha của Thầy
có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi. Vì Thầy đi dọn chỗ cho
anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại, và đem anh em về
với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,1-3). Thánh Phao-lô cũng
khẳng định : ”Quê
hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ
trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20).
Trong
thực tế, thánh Phao-lô đã nhận xét : “Có nhiều người sống thù nghịch với thập
giá Ðức Ki-tô. Chung cuộc đời họ là hư vong, chúa tể của họ là cái bụng, và họ
đặt vinh danh của họ trong những điều ô nhục; Họ chỉ ưa chuộng những cái trên
cõi đời này” (Pl 3,17). Có nhiều tín hữu đã quá bám víu vào các thực tại trần
gian là những cái nay còn mai mất, như : tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, chức quyền…
Thánh Phao-lô cũng khuyên mỗi người chúng ta hôm nay như sau : Còn chúng ta,
quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô
từ trời đến cứu chúng ta (Pl 3,20).
2) Điều
kiện lên trời là sống đức Tin bằng thực thi đức Cậy đức Mến :
Để được vào Nước Trời do Đức Giê-su
thiết lập, các tín hữu phải tin Thiên Chúa và tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến
là Giê-su Ki-tô. Tin bằng lời tuyên xưng đức tin mà thôi chưa đủ, nhưng còn
phải thể hiện đức tin bằng hành động, là vâng phục thánh ý Thiên Chúa như Chúa Giê-su
đã dạy : ”Không
phải bất cứ ai thưa với Thầy : “Lạy Chúa ! Lạy Chúa !” là được vào Nước Trời cả
đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời, mới
được vào mà thôi” (Mt 7,21-23). Cụ thể muốn vào Nước Trời phải tuyên xưng đức
tin bằng đức Cậy là sự chuyên cần cầu nguyện và thực thi đức Mến là quan tâm
chia sẻ và khiêm nhường phục vụ Chúa đang hiện thân nơi tha nhân, đặc biệt những người
nghèo hèn bệnh tật đau khổ...
3) Về sứ vụ loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Chúa Giê-su
hôm nay ?
:
- Đức giáo hòang Phao-lô VI đã nói : ”Mỗi ngưởi
giáo dân, tự bản chất, là một chứng nhân”. Bởi vì khi lãnh nhận phép rửa tội và
thêm sức, chúng ta đã được Đức Giê-su trao cho sứ vụ làm chứng cho Người. Ngày
nay tuy chúng ta không xem thấy, không được gặp gỡ tiếp xúc trực tiếp với Chúa Giê-su
như các Tông đồ hay như dân Do thái khi xưa, nhưng chúng ta nhờ đức tin, vẫn có
thể suy niệm và thực hành Lời Chúa và nhận được ơn Thánh Thần để nên con người
mới giống như Đức Giê-su. Cách thức làm chứng tốt nhất là bằng lối sống quên
mình vị tha bác ái noi theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giê-su với ơn trợ giúp của
Chúa Thánh Thần.
-
Cụ thể : người tín hữu phải làm
cho tình yêu thương, sự khiêm nhường phục vụ của Chúa thấm nhập vào môi trường
gia đình và xã hội. Một Ki-tô-hữu đích thực không thể làm ngơ, hoặc khoanh tay
trước những vấn đề bức súc của xã hội như : sự bất công, nghèo đói, thất nghiệp,
luân lý suy đồi, các tệ nạn tham ô, trộm cướp, mãi dâm, ma túy, dịch bệnh, ô
nhiễm môi trường v.v... Lối sống đạo của các tín hữu hôm nay không phải chỉ dừng
lại ở việc đọc kinh đi lễ để được lên thiên đàng, và không quan tâm đến nỗi
đau của người bên cạnh. Giáo Hội kêu gọi
mỗi tín hữu phải ý thức sứ vụ loan báo Tin Mừng bằng lời rao giảng kèm theo lối
sống chứng nhân bác ái, tích cực góp phần xây dựng môi trường mình đang sống ngày
một Xanh Sạch Đẹp, không còn cảnh bất công bóc lột và cần góp phần bài trừ các tệ nạn
xã hội…
4) Phải loan
báo Tin Mừng thế nào để giúp lương dân tin yêu Chúa ? :
Nên nhớ rằng: Việc giúp một người lương
từ bỏ đạo mình đang theo để gia nhập vào đạo công giáo không dễ chút nào. Nó
đòi các tín hữu chúng ta phải đón nhận ơn Chúa Thánh Thần để áp dụng các phương
pháp tích cực như sau :
a) Cần
năng cầu nguyện cho việc truyền giáo như Đưc Giê-su dạy : “Lúa chín đầy
đồng mà thợ gặt thì ít. Anh em hãy xin Chủ ruộng sai thêm thợ gặt đến”. Việc
truyền giáo là công việc vượt quá tầm sức tự nhiên của loài người chúng ta nên
cần được Thánh Thần giúp
đỡ, như Chúa Giê-su đã nói : “Vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga
15,5), hoặc như lời sứ thần Gáp-ri-en thưa với Đức Ma-ri-a : “Vì không có
gì mà Chúa không làm được” (Lc 1,37), và lời thánh Phao-lô : “Tôi trồng, A-pô-lô
tưới, nhưng Chúa mới làm cho cây mọc lên” (1 Cr 3,6).
b) Cần
tránh những lối hành đạo hình thức bề ngoài : như
thi đua xây dựng nhà thờ to đẹp, tổ chức lễ hội hoành tráng … Nhưng cần chú trọng xây
dựng một lối sống đạo dựa trên việc học sống Lời Chúa, thực thi bác ái cụ thể …
c) Cần
tránh lối hành xử coi thường người lương : Khi có dịp tiếp
xúc với ban hành giáo hay các mục tử thiếu lòng thương xót, người lương sẽ bất mãn và ghét đạo.
d) Việc
truyền giáo phải cụ thể : Cần quan tâm
cầu nguyện cho anh em lương dân, nhất
là các thân nhân chưa biết Chúa như cha mẹ, chồng vợ, anh chị em ruột thịt,
bạn bè … để xin Chúa giúp họ sớm nhận biết tin yêu Chúa... Hãy trao tặng các
sách báo công giáo để họ có dịp tìm hiểu về đạo như giáo lý công giáo, giải đáp
thắc mắc về đức tin, truyện Kinh thánh Cựu Tân Ước, truyện các thánh… Quan tâm
truyền bá rao giảng Tin Mừng trên truyền thông, các trang mạng xã hôi như You Tube,
facebook…
e) Cần
phải có cú “hích” cụ thể : Các việc tốt
nói trên mới chỉ là tạo điều kiện giúp người lương hiểu biết và có thiện cảm
với đạo. Cần phải
có một “cú hích” thêm để họ quyết tâm vượt
qua khó khăn trở ngại. Cũng
nhờ có tình yêu của người công giáo mà một bạn trai hay bạn gái ngoại đạo sẽ
vượt qua các rào cản tâm lý tinh thần nói trên. Nhờ tham dự khóa giáo lý dự
tòng, giáo lý hôn phối, mà người lương có dịp tập sống theo Lời Chúa dạy, để
đức Tin của họ ngày thêm vững mạnh.
g) Vai
trò của các phép lạ : Ngày nay anh
em lương dân cũng rất cần những “cú hích” là các ơn lành Chúa ban qua việc tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót, xin khấn Đức Mẹ Lavang,
Đức Mẹ Tà-pao, đền thánh Giu-se, thánh Mác-tin Po-rê, cha Trương bửu Diệp… Khi được ơn Chúa ban, họ sẽ dễ tin vào tình thương của Chúa hơn.
h) Để
thực hành : Các tín hữu chúng
ta hãy mời các người lương quen biết cùng đi nghe giảng các buổi tĩnh tâm, cùng
tham dự các chuyến đi hành hương,
cùng tham gia các công tác thăm viếng bác ái ở vùng sâu vùng xa, tại các trại khuyết
tật, trại mồ côi, trại dưỡng lão… nhờ đó họ sẽ cảm nghiệm được tình thương của
Chúa và sẵn lòng đón nhận đức tin vào Chúa hơn.
5. NGUYỆN CẦU :
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng
con nhớ rằng : “Quê
hương chúng con ở trên trời, nơi đó chúng con sẽ gặp Đấng Cứu Chuộc” là chính Chúa. Xin giúp
chúng con tích cực góp phần xây dựng xã hội chúng con đang sống ngày một an toàn sạch đẹp hơn,
công bằng nhân ái hơn. Xin cho chúng con ý thức rằng: tuy sống giữa
thế gian nhưng chúng con không thuộc về trần gian. Xin đừng để chúng
con quá quyến luyến những của cải nay còn mai mất ở đời này, nhưng luôn biết
phó thác cậy trông vào Chúa, và quảng đại chia sẻ cơm áo gạo tiền cho
những người nghèo, bệnh
tật và đau khổ ... Hầu sau này chúng con cũng được về quê
trời với Chúa.- AMEN.
LM ĐAN VINH - HHTM