CHỦ
NHẬT 2 CHAY B
Bước đi trên con đường lạ giữa trời đêm, chỉ cần
một tia sáng xẹt ngang đôi khi cũng giúp cho người bộ hành nhìn ra phương hướng
và an tâm tiếp tục tiến bước. Đó là tình huống của các Môn đệ sau khi được loan
báo Khổ nạn. Cuộc biến hình cho thấy căn tính Thần linh của Chúa Giê su có mục
đích giúp các ông can đảm tiến về phía thập giá.
Sáng Thế Kí
22, 1-2.9a.10-13.15-18.
Ông A bra ham chắc chắn không hiểu rõ kế họach của
Thiên Chúa hơn chúng ta khi Người đòi ông phải hiến tế đứa con duy nhất của ông
là ISAAC. Dù vậy, ông chấp nhận vâng lời. Niềm TIN của ông đặt nơi Thiên Chúa
và tin vững vàng nơi lời hứa cứu độ ngay cả khi mọi sự xem ra đều đi ngược lại.
Thánh vịnh
115:
Biết được rằng Thiên Chúa có thể giải thoát chúng
ta khỏi mọi nguy hiểm và tuyệt vọng thì thật là vui mừng biết mấy! Chúng ta hãy
tạ ơn Người và đền đáp lại TÌNH YÊU của Người bằng lòng vâng phục và qui phục
hoàn toàn.
Thư Rm 8,
31b-34
Một khi chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương đến
độ ban Con Một Người cho chúng ta thì chúng ta không còn phải lo sợ hay thiếu
thốn gì nữa. Chính Người sẽ phù trợ, bênh vực và đứng về phía chúng ta.
TIN MỪNG Mc
9, 2-10
Đoạn văn nằm trong phân đọan 7, 24-10,52 trình bày
Chúa Giê su tăng cường việc giáo dục riêng cho các môn đệ. Các trình thuật đi
trước và sau loan báo cuộc tử nạn của Chúa Giê su (8,31-33; 9,30-32; 10,32-34).
Giáo huấn đi liền trước đoạn tin mừng nầy đòi các môn đệ phải vác thập giá đi
theo thầy trên con đường thầy đã đi (8,32-38), trình thuật chữa đứa bé kinh
phong đi liền sau (9,14-29) cho thấy Chúa Giê su đương đầu với sự dữ. Do đó,
biến cố biến hình có mục đích xác định cho ông Phê rô và các môn đệ hiểu rõ về
vinh quang của Đấng Mê si a qua con đường đau khổ.
Chúng ta có thể đọc đoạn tin mừng theo bố cục sau
đây:
Nhập đề: Chúa Giê su đi cùng với 3 môn đệ (9,2a-b)
Cuộc Hiển Dung (9,2c-8)
Lệnh truyền không được nói cho ai biết (9,9-10).
TÌM HIỂU
Sáu ngày sau: một trong những chỉ dẫn hiếm hoi về
thời biểu trong Mc. Có lẽ Mc muốn gợi lại lễ Lều (9,5), mà cao điểm được cử
hành vào ngày thứ sáu (x. Ga 7,37).
Phê rô, Gia cô bê và Gioan: những nhân chứng nầy
cũng đã chứng kiến việc phục sinh con gái ông Gia ia (5,37) và sẽ dự kiến cơn
hấp hối của Chúa Giê su (14,33). Do vậy có một liên kết giữa cơn hấp hối và
cuộc biến hình: biến cố nầy soi sáng cho biến cố kia và mạc khải ý nghĩa mối
tương quan của sự chết và sự sống, của vinh quang và thập giá. Tiếp nhận một
mạc khải là để được giao phó một sứ mạng: như ơn gọi của ông Mô sê (Xh 3,1-12),
của I sa ia (Is 6,1-10) và của Phao lô (Cv 22,15).
Trên một ngọn núi cao: Một truyền thống địa phương
từ thế kỉ thứ ba, đặt biến cố biến hình trên đỉnh núi Ta bô rê, sừng sững đơn
độc giữa đồng bằng Yis rê ên không xa Na gia rét bao nhiêu. Tuy nhiên độ cao
khiêm nhường (562m) của núi Ta bô rê có thực sự đáng được gọi là “ngọn núi cao”
không? Có lẽ đúng hơn phải nghĩ đến ngọn Khê môn (2760m), gần Cê sa rê Phi lip,
nơi mà Mc vừa đặt khung cảnh cho cuộc tuyên xưng đức tin của ông Phê rô (8,27).
Nhưng chính xác hơn cả có lẽ nên nghĩ rằng tác giả muốn gán cho kiểu nói nầy
một giá trị biểu tượng hơn là địa lí, và như thế gợi lên thời gian cuối cùng
qua ám chỉ đến bản văn I sa ia 2, 2-3.
Đi riêng ra một chỗ: sau giáo huấn dành cho đám
đông, Chúa Giê su sắp dành cho các tông đồ của Ngài một mạc khải chính xác hơn.
Người biến đổi hình dạng: kiểu nói chỉ một sự biến
đổi, một sự chuyển biến từ hình thức thông thường nhân loại của Chúa Giê su
trong suốt cuộc sống tại thế của Ngài qua một hình thái rực rỡ vinh quang của
một vị thần linh.
Ông Êlia cùng ông Mô sê: Ông Ê li a theo sách 2
Vua (2V2) đã không chết, nhưng được cất nhắc về trời. Còn về ông Mô sê, người
ta không biết ông được chôn cất ở đâu (Đnl 34,6). Do đó theo truyền thống Híp
pri, các ngài có thể trở lại (đối với ông Ê lia x. Ml 3,23). Ê li a, vị tiên tri, và ông Mô sê, đấng lập luật,
tất cả hai ông cùng đại diện cho toàn thể CƯ. X, Mt 7,12;22,40.
Thưa Thầy: trong nguyên ngữ là Rabbi. Đây là kiểu
xưng hô đầy tôn kính, thường được dùng để nói với một vị kí lục. Các môn đệ
dùng kiểu ấy để chào Chúa Giê su: 11,21; 14,45.
Ba cái lều: câu nầy cho thấy sự ngỡ ngàng hụt hẫng
của ông Phê rô, như câu sau sẽ xác định. “Lều” – chắc Phê rô nghĩ đến những cái
lều sơ sài được người do thái dựng lên
để mừng lễ Lều (Lv 23,34-36).
Không biết phải nói gì: kiểu nói nầy cũng được
dùng trong trình thuật biến cố Giết sê ma ni (14,40). Ở đó cũng như ở đây, rõ
ràng các biến cố đã khiến cho các môn đệ kinh hoàng.
Một đám mây: đám mây đồng thời vừa che khuất vừa
mạc khải sự hiện diện của Thiên Chúa, như trong thời Xuất hành (Xh 40,34-35). x. Xh 34,5.
Con Ta yêu dấu: ông Phê rô đã nhìn thấy đấng Mê si a nơi bản
thân Chúa Giê su (8,29). Ở đây, Chúa Cha chỉ định Chúa Giê su như là Con của
Người. Có lẽ Đấng Mê si a chỉ Vua Is ra ên được được gọi là “Con Thiên Chúa”
ngày đăng quang lên ngôi (như trong Tv 2,7). Nhưng dưới ngòi bút của Mc, lời ấy
mang ý nghĩa mà Giáo Hội được Chúa Thánh Thần soi sáng sau Phục sinh và Hiện
xuống gán cho.
Trong biến cố phép Rửa, lời mạc khải nói với Chúa
Giê su: “Con là Con Ta yêu dấu” (1,11). Giờ đây lời mạc khải nói với các môn
đệ, và thêm: “Hãy nghe lời Người”. Khi chứng thực giáo huấn của Chúa Giê su và
và sứ mạng của Ngài, Chúa Cha mời gọi họ đi theo Ngài.
Chỉ còn Chúa Giê su ở với các ông thôi: Chúa Giê
su biến hình coi như bị cắt đứt mọi liên lạc với các môn đệ. Giờ thì họ tìm lại
Ngài đồng hành với họ.
Không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy:
chấp nhận im lặng đã là một cách “lắng nghe” Chúa Giê su; tuy nhiên các môn đệ
không hiểu gì cả.
Từ cõi chết sống lại: các môn đệ hoàn toàn không
hiểu ý nghĩa kiểu nói nầy. Chắc chắn niềm tin vào sự sống lại từ cõi chết được
hầu hết mọi người chia sẻ vào thời đó, trừ những người thuộc phái Sa đu kê ô
(12,18). Nhưng đó là sự sống lại của tất cả mọi người vào thời cuối cùng. Các
môn đệ thật sự không hiểu rằng chỉ một mình Chúa Giê su sống lại từ cõi chết,
nhưng trước hết Ngài phải chịu chết.
Cảnh tượng nầy sẽ lưu lại trong tâm trí các môn đệ
một kí ức sống động. Chúng ta có thể tìm thấy âm hưởng của nó trong 1Ga 1,1-3;
và trong thư thứ hai của Phê rô (1,17-18).
SỨ ĐIỆP
Lời Chúa Chủ nhật thứ hai
mùa Chay này cho chúng ta nghe lại câu truyện về việc Abraham hiến tế Isaac con
ông, và việc Chúa Giê su biến hình. Chúng ta đừng đọc như những câu chuyện hấp
dẫn nhưng phải lắng nghe như là một lời mời gọi chỉnh đốn lại niềm tin của chúng
ta. Nhiều khi niềm tin của chúng ta bị đóng khung trong một ý tưởng nào đó về
Thiên Chúa. Nhiều người tin có một đấng Thiên Chúa hiện hữu, nhưng chẳng bao
giờ muốn dấn thân thể hiện niềm tin ấy. Một đức tin đúng nghĩa lại hoàn toàn
khác hẳn.
Lời
chứng của Abraham (bài đọc 1) cho chúng ta xác tín điều đó. Abraham lúc đầu là
một người ngoại giáo sống ở Ur (thuộc Irak ngày nay). Một ngày nọ, ông nghe
tiếng gọi của Thiên Chúa: « Hãy rời bỏ quê hương và đi đến nơi Ta sẽ chỉ
cho ngươi ». Tin vào Thiên Chúa là nghe lời mời gọi của Ngài và dấn bước
trên con đường Ngài chọn nhưng không cho chúng ta thấy trước. Tin là đi dưới
ánh mắt của Thiên Chúa. Abraham đã tin vào lời đó và đã đồng hành với Ngài. Dù
đã trải qua những ngày buồn khổ, chán ngán và mỏi mệt, ông
vẫn tiếp tục cuộc hành trình, bởi ông đã đặt một niềm tin tưởng tuyệt đối nơi
Thiên Chúa.
Nhưng
một ngày khủng khiếp đã đến. Ngày ấy, Thiên Chúa ra lệnh ông đem đứa con độc
nhất đi sát tế thờ phượng Ngài. Vào thời đó, kiểu sát tế nầy vẫn thường được cử
hành trong các nghi thức ngoại giáo. Nhưng đối với Abraham rõ ràng đó là một
lệnh truyền không thể hiểu nỗi, bởi giết đứa con thừa tự đi, thì còn gì là lời
Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc trên mặt đất. Dù vậy ông vẫn
phải bước đi trong nỗi chết của tâm hồn. Vẫn phải tin dù không còn một chút gì
để cậy dựa, vẫn phải kiên trì cho đến lúc Thiên Chúa đã dành cho mình phần kết
thúc vượt ngoài sự mong đợi. Ngài ban cho ông một tế vật thay thế Isaac, để
trung thành với lời Ngài đã hứa với ông.
Cung
cách hành động của Abraham được lặp lại nơi thái độ của ba môn đệ: Phê rô, Gia
cô bê và Gioan. Họ cũng là những người được mời gọi. Lúc đầu tâm hồn tràn đầy
hi vọng phấn khỏi đi theo Đức Ki tô. Hi vọng trần thế rồi cũng đã có lúc gặp
khó khăn. Lời dạy của Đức Ki tô không theo hướng các ông chờ đợi. Họ đã can
ngăn nhưng cuối cùng đành phải sửng sờ thấy Chúa Giê su cương quyết lên Giê ru
sa lem dù biết rằng cuộc thương khó đang chờ đợi Ngài ở phía trước. Rồi họ kinh
hoàng nghe Ngài loan báo rằng Ngài sẽ bị kết án, bị giết đi và sẽ sống lại. Dù
không hiểu gì cả nhưng chính trên con đường Canvê đó mà họ đã được mời gọi đi
theo Ngài.
Sứ
điệp lớn nhất của hai bài đọc luôn là mời gọi bước tới; lời mời gọi làm tất cả
để đức tin của chúng ta được dần dần trở nên giống như đức tin của Abraham, của
Phê rô, của Gia cô bê và Gioan. Cả trong thử thách đau thương và xem ra tuyệt
vọng nhất, Thiên Chúa vẫn mời gọi chúng ta tin tưởng nơi Ngài. Tình yêu của
Ngài dành cho chúng ta luôn có tính quyết định và không bao giờ suy suyển.
Sứ
điệp thứ hai: trước cuộc thử thách lớn, Chúa Giê su đem các môn đệ lên núi cầu
nguyện. Lời cầu nguyện đích thực là nhằm mục đích điều chỉnh ý muốn và cuộc
sống cho ăn khớp với thánh ý và tình yêu của Ngài. Để rồi kín múc lấy sức mạnh
và can đảm nơi Ngài mà tiếp tục hành trình.
Trên
núi, các môn đệ là những chứng nhân được chọn lựa phải sửng sốt trước một sự
kiện vượt xa những gì họ hiểu biết. Họ thấy diện mạo Chúa Giê su biến đổi khác
thường, trở nên sáng chói như mặt trời tỏa chiếu ánh sáng khắp nơi. Toàn thân
và y phục của ngài cũng trở nên trắng sáng như chưa bao giờ họ trông thấy như
thế. Các môn đệ vui mừng thấy lãnh tụ Mô sê và và ngôn sứ Ê li a hiện đến nói
chuyện với Ngài. Họ ngất ngây và muốn sống mãi trong hạnh phúc thần linh ấy nên
đề nghị dựng ba lều trên núi để khỏi phải trở lại trần gian nữa. Nhưng một đám
mây bao phủ họ: có tiếng nói của Cha từ trời vọng xuống: « Nầy là Con ta
yêu dấu. Hãy nghe lời Ngài ». Sứ điệp đã ban xuống. Tất cả phải trở về
cuộc sống bình thường. Chúa Giê su và các môn đệ phải trở lại và tiếp tục lên
đường về Giê ru sa lem, con đường dẫn họ đến Thương Khó, chết trên thập giá và
phục sinh.
Từ
câu truyện ấy chúng ta tìm được điều gì cho đời sống hằng ngày của chúng
ta ? Trước tiên chúng ta để ý rằng Chúa Giê su đi lên núi cầu nguyện. Núi
là nơi mặc khải, nơi hiện diện của Thiên Chúa tỏ mình cho nhân loại. Chúa Giê
su biến hình trong khi cầu nguyện với Thiên Chúa Cha. Còn chúng ta, chúng ta
chỉ bằng lòng và lặp đi lặp lại những công thức khô khan quen thuộc. Chúng ta
không biết im lặng đủ để lắng nghe Thiên Chúa nói, mời gọi và chờ đợi chúng ta
đáp trả tình yêu của Ngài. Cầu nguyện là tiếp nhận và đáp trả Thiên Chúa trong
tâm hồn. Cả khi lời cầu nguyện của chúng ta không đưa chúng ta lên cao đến độ
biến hình như lời cầu nguyện của Chúa Giê su, thì nó cũng có thể mang lại cho
chúng ta sự bình an, sức mạnh và tin tưởng mà chúng ta cần đến. Như thế chúng
ta sẽ có thể bước đi dưới sự hiện diện của Thiên Chúa như Abraham và nhiều
người khác sau ông.
Bởi
đó, lời cầu nguyện đích thực trước tiên là nghe Con yêu dấu mặc khải về tình
yêu của Cha cho mọi người. Đó là một lời mời gọi hoàn toàn thiết yếu để sống
tốt mùa Chay. Đức Ki tô sai chúng ta đi làm nhân chứng cho Ngài. Ngài muốn
chúng ta sống với Ngài. Ngài nói với chúng ta qua những người mà chúng ta gặp
gỡ hằng ngày cũng như qua các biến cố mời gọi chúng ta. Chúng ta hãy lắng nghe
Ngài trong lời cầu nguyện và trong cuộc sống. Vì chỉ có Ngài mới có thể biến
đổi chúng ta.
ĐÀO SÂU
1. HỎI: Có mấy cách đọc bài đọc một?
THƯA: Có hai cách: cách thứ nhất của người không
có đức tin. Cách thứ hai của người có đức tin.
2. HỎI: Cách đọc không có đức tin như thế nào?
THƯA: Cách đọc đáng sợ nầy tưởng tượng Thiên Chúa
ra lệnh cho Abraham chỉ để xem ông có vâng lời không, và sau khi thấy ông vâng
phục, Thiên Chúa truyền lệnh ngược lại và sau đó tưởng thưởng cho ông (St
22,17-18). Thiên Chúa như thế không phải là Thiên Chúa đích thực của chúng ta.
3. HỎI: Cách đọc thứ hai như thế nào?
THƯA: Cách đọc thứ hai là cách đọc theo cái nhìn
đức tin. Cả đoạn sách Sáng thế nầy dùng nhiều lần những từ như ‘nhìn, thấy, ngước
mắt lên’. Tên núi Moriya cũng vừa có nghĩa là ‘Thiên Chúa thấy’ hoặc ‘Thiên
Chúa được nhìn thấy’. Qua đó, tác giả muốn nói rằng đức tin như một cặp mắt
sáng cho phép nhìn thấy Thiên Chúa và người khác.
4. HỎI: Cách đọc bằng cặp mắt đức tin cho ta thấy gì?
THƯA: Điều thứ nhất là khi được viết khoảng năm
700 trước CN, bản văn nầy cho ta biết rằng Thiên Chúa tuyệt đối khước từ các hi
tế giết người. Chính tiên tri Giê rê mia đã chứng thực điều đó: ‘Chúng đã xây
những nơi cao kính Ba-an để hoả thiêu con cái chúng làm lễ toàn thiêu dâng
Ba-an; đó là điều Ta đã không truyền, không phán dạy cũng không nghĩ đến’ (19,
5). Điều thứ hai, Thiên Chúa làm mọi sự để nhắc ông nhớ rằng Ngài không quên
lời hứa ban cho ông một dòng dõi qua đứa con trai của ông.
5. HỎI: Đó là lời hứa nào?
THƯA: Đó là lời hứa được ghi lại trong các chương
đi trước: ‘Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Nơi
ngươi tất cả các gia tộc sẽ được chúc phúc. Hãy nhìn lên trời và ngắm các vì
sao mà ngươi không thể đếm hết, dòng dõi ngươi cũng sẽ đông đảo như thế. Chính
qua I-xa-ác mà dòng dõi người sẽ mang tên ngươi..’ (St các chương 12-21)
6. HỎI: Có chi tiết nào trong bản văn cho thấy
Thiên Chúa muốn nhắc ông nhớ lại Lời hứa của Ngài?
THƯA: Có. Ngài gọi ông bằng tên mới ‘Abraham’ có
nghĩa là ‘Cha của vô số dân tộc’ (St 17, 4). Qua đó, Thiên Chúa muốn cảnh giác
ông rằng Ngài không quên lời hứa Ngài đã ban cho ông.
7. HỎI: Còn chi tiết nào nữa không?
THƯA: Có. Thiên Chúa còn nhấn mạnh: ‘Hãy đem con
của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là I-xa-ác’ (St 22, 2). Người không có
đức tin thì cho rằng, Thiên Chúa quá nhẫn tâm khi nói như thế chẳng khác gì xát
muối vào vết thương của Abraham. Còn người có đức tin thì tin rằng qua cách nói
ấy, Thiên Chúa nhắc cho Abraham nhớ rằng Ngài không quên lời hứa, rằng mọi lời
hứa đều dựa trên đứa con I-xa-ác.
8. HỎI: Đâu là sự khác biệt giữa hai cách đọc
trên?
THƯA: Người ngoại giáo nghi ngờ Thiên Chúa không
quan tâm đến mình, còn người tín hữu thì khám phá ra rằng hi vọng của con người
cũng chính là hi vọng của Thiên Chúa, và tin rằng những ích lợi của nhân loại
và của Thiên Chúa là như nhau, vì Thiên Chúa đã dấn thân trong Giao ước. Tin có
nghĩa là chắc chắn rằng kế hoạch của Thiên Chúa luôn luôn nhắm mục tiêu là đem
lại lợi ích cho con người dù điều gì sẽ xảy ra.
9. HỎI: Đức tin của Abraham như thế nào?
THƯA: Đó là đức tin sắt đá giúp Abraham tin rằng
dù bề ngoài xem ra bế tắc, nhưng Thiên Chúa có đủ quyền năng sẽ thực hiện lời
Hứa là ban cho ông một dòng dõi qua I-xa-ác chứ không ai khác.
10. HỎI: Đức tin ấy đã giúp Abraham khám phá ra
điều gì?
THƯA: Đức tin ấy giúp Abraham khám phá rằng khi
Thiên Chúa nói ‘hi tế’ thì Ngài không truyền phải ‘giết đi’, như thể máu làm
cho Ngài hài lòng. Và khi Thiên Chúa phán cùng ông rằng: ‘hãy dâng hi tế con
ngươi cho ta’ thì Abraham khám phá rằng điều đó chỉ có nghĩa là ‘hãy để cho nó
sống, đừng bao giờ quên rằng chính ta đã ban nó cho ngươi’. Từ nay, dân Ít ra
ên biêt rằng Thiên Chúa không bao giờ muốn cho con người phải chết vì bất cứ lí
do gì.
11. HỎI: Còn khía cạnh nào khác trong niềm tin của
Abraham?
THƯA: Đó là một niềm tin dứt khoát và trọn vẹn. Dù
biết rằng lệnh Chúa truyền đem con đi tế hiến đi ngược lại với Lời Chúa hứa ban
cho ông một dòng dõi đông đúc, Abraham vẫn vâng lời lên đường. Thái độ vâng lời
dứt khoát ấy nói lên trọn vẹn niềm tin của ông: nó cho thấy ông biết rõ ông tin
vào ai và phải tin như thế nào.
12. HỎI: Abraham đã tin vào đấng nào?
THƯA: Abraham biết mình tin vào Đấng không muốn sự
chết, nhưng muốn sự sống. Chính nhờ đó, ông nhìn thấy được sự sống phong phú
qua cái chết tế hiến của con mình. Ông tin Thiên Chúa là nguồn gốc sự sống, nên
chỉ mình Ngài mới có thể ban sự sống và có quyền lấy lại. Ngài đã ban cho ông
I-xa-ác như khởi đầu một dòng dõi đông đảo. Giờ Ngài đòi ông tế hiến. Sự đòi
hỏi bất thường đó cho thấy Thiên Chúa làm được những điều đối với chúng ta xem
ra nghịch lí: khơi dậy sự sống từ cái chết, gọi được cái có từ cái không (Rm 4,
17).
13. HỎI: Đức tin ấy đã giúp đỡ ông như thế nào?
THƯA: Nhờ biết rõ mình tin vào ai, nên Abraham đã
tin một cách dứt khoát, triệt để. Vâng lệnh Chúa giết con tế hiến cho Ngài,
Abraham không thể không cảm thấy lòng mình bị xâu xé vì mối tình phụ tử, nhưng
ông đã tuân theo thiên ý với niềm tin vững chắc: Chúa sẽ trù liệu mọi sự để
thực hiện lời hứa và chương trình cứu độ của Ngài.
14. HỎI: Thiên Chúa đã làm gì trước lòng tin mạnh
mẽ ấy?
THƯA: Trước lòng tin mạnh mẽ của Abraham, Thiên
Chúa đã giữa và thực hiện lời hứa của Ngài: Ngài đã gửi đến cho ông một con cừu
làm tế vật thay cho Isaac. Ngài đã ông một dòng dõi đông đảo: con ông được
thánh hiến và dà dòng dõi phát sinh từ đó là một dân tộc thánh.
15. HỎI: Câu chuyện bài đọc một có liên hệ đến
Chúa Giê su không?
THƯA: Các giáo phụ từ xưa đã nhìn thấy câu truyện
trong bài đọc một là hình ảnh tiên báo cho hi tế của Chúa Giê su trên thập giá
để đền tội cho nhân loại.
16. HỎI: Ngữ cảnh của bài tin mừng là gì?
THƯA: Bài tin mừng nằm trong phân đọan 7, 24-10,
52 trình bày Chúa Giê su tăng cường việc giáo dục riêng cho các môn đệ. Các
trình thuật đi trước và sau loan báo cuộc tử nạn của Chúa Giê su (8, 31-33; 9,
30-32; 10, 32-34). Giáo huấn đi liền trước đoạn tin mừng nầy đòi các môn đệ
phải vác thập giá đi theo thầy trên con đường thầy đã đi (8, 32-38), trình
thuật chữa đứa bé kinh phong đi liền sau đó (9, 14-29) cho thấy Chúa Giê su
đương đầu với sự dữ. Do đó, biến cố biến hình có mục đích xác định cho ông Phê
rô và các môn đệ hiểu rõ về vinh quang của Đấng Mê si a qua con đường đau khổ.
17. HỎI: Đâu là điều khó
khăn nhất cho đức tin của các môn đệ?
THƯA: Điều khó khăn nhất nơi đức tin của các môn
đệ là nhận ra diện mạo của Thiên Chúa Cha trong hai diện mạo vinh quang và đau
khổ của Đấng Messia như lời Ngài nói cùng Phi líp trước ngày chịu chết: ‘Ai
thấyTa là Thấy Cha’ (Ga 14,9).
18. HỎI: Các môn đệ có hiểu lời Chúa Giê su: ‘sống
lại từ cõi chết’ không?
THƯA: Như người Do thái đương thời, các môn đệ tin
rằng đến ngày sau hết, con người sẽ sống lại từ cõi chết. Như thế, rõ ràng họ
không hiểu Chúa Giê su muốn nói gì.
19. HỎI: Các môn đệ hiểu ‘Con Người’ mà Chúa Giê
su nói đến là ai?
THƯA: Cũng như người Do thái khác, các môn đệ hiểu
‘Con Người’ là một tập thể, một dân ‘số sót’ của Ít-ra-ên, nghĩa là đám người
nồng cốt còn lại sẽ cứu thoát thế gian. Như thế, họ cũng không hiểu cách gọi
‘Con người’ mà Chúa Giê su áp dụng cho mình. Vì thế, họ cũng phải chờ đợi đến
ngày Phục sinh và Hiện Xuống mới hiểu rằng Chúa Giê su đứng đầu dân thánh của
Đấng Tối Cao và tất cả những người được rửa tội sẽ cùng với Ngài cứu rỗi thế
gian.
20. HỎI: ‘Hãy nghe lời Ngài’ có nghĩa gì?
THƯA: Lời ấy giống như lời mở đầu của kinh Shema
mà người Do thái thường đọc mỗi ngày: ‘Hãy nghe đây, Ít ra ên..’, khuyên bảo
hãy tin tưởng lên dù cho bất điều gì sẽ xảy đến. Chúa Giê su mời gọi các môn đệ
hãy vững lòng tin tưởng trước những thử thách mà họ sẽ phải đối đầu trong cuộc
khổ nạn của Ngài.
21. HỎI: Tại sao Chúa Giê su muốn họ giữ kín?
THƯA: Bởi vì chính các môn đệ cũng chưa sẵn sàng
để hiểu mầu nhiệm về Con người Đức Ki tô. Ánh sáng biến hình không được làm họ
sai lầm; đó không phải là dấu thành công hay vinh quang theo kiểu loài nguuời,
mà là giải sáng tình yêu. Khi truyền lệnh họ phải im lặng, Chúa Giê su muốn cho
họ thấy rằng chỉ có sự đức tin vào sự Phục sinh mới soi sáng mầu nhiệm của Ngài.
22. HỎI: Sứ điệp bài đọc một liên hệ đến bài tin
mừng như thế nào?
THƯA: Abraham đã để lại gương mẫu về đức tin: tin
là chấp nhận mất đi để nhận lại, chấp nhận chết đi để được sống. Bài tin mừng
Mác cô hôm nay cũng cho thấy đó là tiến trình đức tin trong cuộc đời Chúa Ki
tô, cũng như cuộc đời của chúng ta.
23. HỎI: Tại sao thế?
THƯA: Tin mừng nhằm làm nổi bật mầu nhiệm chết đi
để sống lại của Đức Ki tô. Chính trong viễn tượng đó mà sau khi đã tiên báo
cuộc khổ nạn Ngài sắp trải qua, Chúa Giê su đã cho thấy trước vinh quang phục
sinh của Ngài trên núi Ta-bo-rê, nhằm giúp các ông biết vững vàng trong đau khổ
thập giá, biết tìm ra sức sống bên kia cái chết.
24. HỎI: Cầu nguyện có giúp chúng ta biến hình
không?
THƯA: Lời cầu nguyện có thế giúp chúng ta biến hình.
Cái gì làm cho đời sống con người bị biến dạng nếu không phải là tội lỗi. Chúng
cách li chúng ta khỏi Thiên Chúa và giết chết Tình yêu trong chúng ta? Dù cho
tội lỗi có mang tên gì đi nữa, như kiêu căng, ích kỉ.. nó cũng làm hoen ố tâm
hồn chúng ta và làm khô cạn nguồn suối Tình yêu mà bí tích Rửa tội đặt trong
chúng ta. Một lời cầu nguyện đích thật sẽ khơi lại nguồn suối ấy và dần dần
giúp chúng ta biến hình, tức là thay đổi và trở nên tốt đẹp hơn.
(đọc thêm các chú giải ở phần Giải thích)