Ngày 11 tháng 5
THÁNH MÁT-THÊU LÊ VĂN GẪM, THƯƠNG GIA
( 1813-1847)
Liều thân vì đại nghĩa
Năm 1844, theo lời yêu cầu của Đức Thánh Cha Ghê-gô-ri-ô XVI chia giáo phận đàng trong thành 2 giáo phận: Giáo phận Đông gồm các tỉnh miền Trung, và giáo phận Tây gồm các tỉnh miền Nam và Cam-Pu-Chia. Giáo phận tay được trao cho Đức Cha Lơ-Phép Nghĩa. Khi đó đã bị trục xuất và đang ở Sing-ga-po.Phải đưa Đức Cha về giáo phận, đó là điều mong ước của toàn thể tín hữu và hàng giáo sỹ ở Nam Việt. Thánh Mat – Thêu Gẫm đã đứng ra đảm nhiệm công tác này, dù đã lường trước được những nguy hiểm đến tính mạng. và thực tế, Ngài đã bị bắt và đã hy sinh vì sứ mạng này. Tấm gương sáng ngời của thánh nhân sẽ muôn đời sống mãi trong lòng các tín hữu Việt Nam yêu mến Giáo Hội.
Người gia trưởng gương mẫu
Mat-thêu Lê Văn Gẫm chào đời năm 1813 thời vua Gia Long, tại họ Tất, thuộc làng Long Đại, xứ Gò Công, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc huyện Thủ Đức). Là con đầu lòng trong một gia đình năm anh em trai và một em gái út, Mát Thêu Gẫm thừa hưởng nơi thân phụ, ông Phaolo Lê Văn Lại và thân mẫu, bà Maria Nguyễn thị Nhiệm, một truyền thống đạo đức thâm sâu.
Năm 15 tuổi, cậu Gẫm xin phép cha mẹ gia nhập chủng viện Lái Thêu để tu học làm linh mục. Nhưng chỉ một tháng sau, song thân đã đến xin cậu về. Vì là anh cả của một đàn em nhỏ dại, cậu đã vâng lời cha mẹ về phụ giúp gia đình lao động kiếm sống. Và Chúa đã hướng dẫn cậu theo lối đi khác. Khoảng 20 tuổi chàng thanh niên vạm vỡ ấy đã kết hôn với một thiếu nữ tên Thành. Làng Long Điền , Bà Rịa. hai vợ chồng sống với nhau rất êm ấm thuận hòa và sinh hạ được 4 người con.
Trong nghề thương mại thường phải xa nhà, một lần kia Mat-theu Gẫm xa ngã, theo đưởi một thiếu nữ khác. Nhưng khi nghĩ lại, ông cương quyết từ bỏ mối tình ngang trái. Để bù lại, ông tỏ ra yêu vợ nhiều hơn, và chú tâm vào việc giáo dục con cái, nhất là về đời sống đạo đức. Trong 4 người con, thì con trưởng và con út qua đời vì bệnh, người thứ hai đứng ra ngăn cản việc đốt nhà thờ Cầu Ngang nên bị giết, còn người thứ ba bị bắt vì đạo và bị chết thiêu trong khám đường cùng với nhiều người khác tại Bà Rịa ngày 7 tháng 1 năm 1862. Hai người con tử đạo, quả là bằng chứng rõ rệt về đường lối giáo dục đức tin của ông.
Người thương gia quảng đại
Vì có thuyền riêng và rành nghề sông biển, công việc buôn bán của ông Mát-thêu Gẫm càng ngày càng phát đạt. Ông quảng đại giúp đỡ các giáo sĩ, và được các thừa sai tín nhiệm. Trong chương trình của cha Lợi, quản lý nhà chung Bà Rịa, thì thỉnh thoảng ông lại làm một chuyến qua Hạ Châu ( Sing-ga-po) hay Pê-năng( Mã lai) để đón các thừa sai và các chủng sinh Việt nam du học về nước, hoặc chuyển các đồ thờ tự và sách báo đạo. Một số chuyến đi về êm xuôi, nhưng rồi công việc bại lộ, và các quan địa phương để ý theo dõi ông rất gắt gao.
Năm 1846, vì nhu cầu của giáo phận, ông nhận lời cha Lợi sang Sing-ga-po đón Đức cha Đaminh Lơ-Phép Nghĩa, cha Đu- lốt độ và 3 chủng sinh về Sài Gòn. Như có linh cảm chuyến này khó thoát, nên ông đến giã từ cha mẹ nội ngoại, dặn dò vợ con kỹ càng ước vọng của mình rồi mới lên đường. Chuyến đi được êm xuôi. Ngày 23/5, thuyền nhổ neo quay về thì gặp bão tố, và mất thêm 4 ngày trốn chạy một tàu cướp biển, nên ông trễ hẹn. Ngày 6/6, ông mới vào cửa cần giờ, ông Trùm huy họ Chợ Quán đã chờ ở đó 6 ngày để chuyển người mà không gặp, nên đã trở về nhà.
Vì biết mình là đối tượng bị theo dõi, ông Gẫm đã cẩn thận neo thuyền chờ thêm 2 ngày, đến khi không thấy ai ra đón, mới quyết định đánh liều đi sâu vào Sài Gòn. Vừa thoát qua một đồn canh, ông gặp một chiếc thuyền tuần tiễu, ông nhanh trí hối lộ cho họ 10 nén bạc để thoát thân. Năm người lính trên thuyền này, sau một hồi tranh luận, sợ chuyện bị bại lộ, nên quay thuyền lại và rượt theo để trả tiền rồi bắt thuyền ông. Ông Gẫm kêu gọi các anh em trên thuyền hợp lực, định chống trả, nhưng Đức Cha Nghĩa không đồng ý, vì cho rằng trái với tinh thần nhân hậu của Ki-tô giáo.
Khổ giá và vinh quang
Sáng ngày 8/6/1846, với sự yểm trợ của một số lính trên thuyền khác mới tới, quân lính nhà vua áp tải thuyền ông Gẫm về Bến Nghé. Đức cha Nghĩa và cha Lộ bị giam ở Công Quán. Cha Lộ qua đời trong tù ngày 17 tháng 7 năm 1846, còn vị Giám mục thì được giải ra kinh đô Phú Xuân. Tại đây, vua Thiệu Trị lên án xử trảm, sau đổi thành án trục xuất về Sing-ga-po ( sau ngài lại tìm cách vào Việt Nam). Ông Mát-thêu Gẫm tự nhận là người chủ mưu nên bị biệt giam ở Sài Gòn.
Vài ngày sau, các quan đưa ông ra tòa lấy khẩu cung và kêu gọi quá khóa. Dù bị đòn đánh đau đớn, ông Gẫm vẫn hiên ngang chịu đựng, không khai một ai, cũng không chịu bước qua Thánh Giá. Trước tòa ông khai tên là Lê văn Bửu, còn bản án lại ghi là Lê Văn Bối. 20 ngày sau, các quan làm án gởi về kinh đô xin xử chém, nhưng nhà vua chần chừ đến năm sau mới quyết định.
Trong thời gian chờ vua phê án, ông Gẫm phải mang gông xiềng nặng nề, nhưng lúc nào cũng giữ được bình tĩnh vui vẻ. Ông nói: “Tôi có ăn trộm ăn cướp gì đâu mà sợ, mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm”. Cha Thán ba lần cải trang vào thăm giải tội và trao Mình Thánh. Cha Phan Văn Minh ( tử đạo 3/7/1853) cũng vào thăm và khích lệ. Các tín hữu chợ Quán, Thị Nghè, An Nhơn và họ Lăng ( Chí Hòa) cũng rủ nhau đến thăm viếng người anh hùng của giáo phận. Thân phụ ông Gẫm và người em, ông đội Phao-lô Bằng, vì liên hệ gia đình bị bắt giam tại Biên Hòa. Thân mẫu ông và các em khác trốn tránh quanh vùng Thủ Đức cũng vào ngục thăm ông một vài lần.
Sau 7 tháng ông Gẫm bị giam, bản án được vua Thiệu Trị châu phê, nhưng vì trùng vào dịp cuối năm, vua ra lệnh dời qua Tết mới thi hành. Sau Tết, một vài viên quan ở trấn Gia Định có cản tình với người thương gia hiền lành, viện cớ chính vị Giám mục cũng không bị xử tử, làm đơn xin vua giảm án của ông Gẫm thành án lưu đày chung thân. Nhưng tháng 3/1847, khi quân đội triều đình giao tranh và thua quân Pháp ở Đà Nẵng, nhà vua quyết định không ân xá gì nữa.
Ngày 11/5/1847, ông Lê Văn Gẫm được đưa đến pháp trường “ Da Còm”, tên một cây đa tróc gốc cằn cỗi ở đó (nay là xứ chợ Đũi, khi đó còn thuộc xứ chợ Quán), các tín hữu và lương dân hiện diện rất đông. Ba người em của vị anh hùng đức tin là Tô-ma Trọng, Phao-lô Bằng và Anê Nguyện, cũng có mặt trong cuộc xử anh mình. Ông đội Bằng và ông Trùm Phước phải xô đẩy đám đông để đưa cha Thán đến gần giải tội lần cuối cho anh mình. Ông đội cũng tặng đao phủ 3 quan tiền để anh ta chém thật gọn, giúp anh mình đỡ đau đớn.
Thế nhưng nghe tiếng chiêng trống, và thấy thái độ thương tiếc của nhiều người tham dự, viên đao phủ không giữ bình tĩnh phải chém đến 3 nhát, đầu vị tử đạo mới lìa khỏi cổ. Các người em vị tử đạo và các tín hữu ùa vào, ráp đầu vị chứng nhân với thân mình, khâu lại, thay áo trắng, lấy khăn xanh quốn quanh cổ ngài, rồi đặt lên võng khiêng về an tán tại họ chợ Quán.
Năm 1870, bà Nhiệm, thân mẫu vị tử đạo thuật lại ở tòa điều tra phong thánh rằng:
“Hai vợ chồng chúng tôi nghe con chết thì chẳng có thảm thiết gì, một vui lòng mà rằng: chết vậy đặng làm thánh”.
Ngày 27/5/1900, Đức Giáo Hoàng Lê-ô XIII tôn phong ông Mat-thêu Lê Văn Gẫm lên bậc Chân Phước.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phao Lô II tôn phong Chân Phước Mát-Thêu Lê Văn Gẫm lên bậc Hiển Thánh ngày 19/6/1988.
Lời nguyện:
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho Hội Thánh Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng, biết hiến dâng mạng sống để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu mà cho chúng con biết noi gương các ngài để lại: luôn can đảm làm chứng cho Chúa và trung kiên mãi đến cùng.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Giê su Ki-tô Chúa chúng con.