Chân phước Gioan-Phaolô II – Sứ giả Hòa bình
Ngày 1-5-2011, tại
Rôma, Đức Gioan-Phaolô II được Giáo Hội tôn phong tước hiệu Chân phước. Không
riêng người Công giáo mà cả những người thuộc các tôn giáo khác cũng hòa chung
niềm vui thánh thiện này. Ngài giản dị mà vĩ đại và thánh thiện, thể hiện tình
yêu và thứ tha như Đức Giêsu: Rửa chân và hôn chân người được rửa, đích thân
đến nhà tù để tha thứ cho người đã ám sát mình là Mehmet Ali Ağca, yêu thương
trẻ em, hòa đồng với giới trẻ, siêng năng lần hạt, có tâm hồn văn nghệ,… Tên
cúng cơm của ngài là Karol Wojtyła. Ngài được mệnh danh là Sứ giả Hòa
bình. Chứng nhân thứ nhất là thánh nữ Faustina, chân phước Gioan-Phaolô II là
nhân chứng thứ nhì của Lòng Thương Xót Chúa.
Đức Gioan-Phaolô II
cai quản Giáo Hội Công giáo La Mã trên cương vị Giáo hoàng gần 27 năm. Ngài là vị Giáo hoàng đầu tiên không là người Ý kể từ Giáo hoàng người Đức gốc Hà Lan
Adrian VI qua đời năm 1523, triều đại của Đức Gioan-Phaolô II là triều đại dài
thứ ba trong lịch sử các triều đại Giáo hoàng. Mặc dù triều đại của ngài được
đánh dấu bằng sự suy yếu của Công giáo tại các nước phát triển Tây phương, đồng
thời có sự mở rộng của vai trò Giáo Hội ở Thế giới thứ ba và cộng sản Đông Âu.
Việc bầu chọn Đức Gioan-Phaolô II làm Giáo hoàng được nhiều người tin tưởng với
sự thúc đẩy thay đổi ở Âu châu để cuối cùng dẫn đến sự suy sụp của các nước
cộng sản (downfall of the communist states) và sự nổi dậy của các chế độ dân
chủ (emergence of democratic regimes).
Thầy Karol Wojtyła thụ phong linh
mục ngày 1-11-1946, lúc 26 tuổi, do Đức TGM Adam Stefan Sapieha giáo phận
Kraków chủ phong. Sau đó, ngài dâng lễ tạ ơn tại nhà thờ chính tòa Kraków. Rồi
ngài được đi Rôma học tiến sĩ ở Viện Giáo hoàng Thánh Thomas Aquinas
(Pontifical Athenaeum of St. Thomas Aquinas), thường gọi là Angelicum. Ở
đó ngài học thêm về thần học và chính trị. Ngài nghiên cứu các bài viết của ĐGH
Grêgôriô II, các giáo huấn của thánh Gioan Thánh giá, hiện tượng học
(phenomenology) của Max Scheler. Ngài còn nghiên cứu cả Yves Congar, một nhà lý
luận quan trọng về đại kết (ecumenism). Ngài học 2 năm tại Đại học Bỉ ở Rôma.
Đại học này chỉ có 22 sinh viên là linh mục và chủng sinh, trong đó có 5 người
Mỹ. Trong môi trường đa ngữ này, LM Wojtyła trau dồi thêm tiếng Pháp và tiếng
Đức, đồng thời bắt đầu học tiếng Ý và tiếng Anh. Trong luận án tiến sĩ Doctrina
de fide apud S. Ioannem a Cruce (Học thuyết Đức tin theo Thánh Gioan Thánh
giá), ngài nhấn mạnh bản chất gặp gỡ riêng với Thiên Chúa. Mặc dù luận án tiến
sĩ của ngài được chấp thuận hồi tháng 6/1948, ngài vẫn không được nhận bằng tốt
nghiệp vì ngài không có văn bản luận án (đó là luật của Angelicum). Ngày
16/12/1948, ban giảng huấn thần học tại ĐH Jagiellonian ở Kraków xem xét lại
luận án của ngài, và LM Wojtyła được cấp bằng.
Ngài trở về Ba Lan vào mùa hè năm
1948, và ngài được bổ nhiệm mục vụ tại giáo xứ Niegowić, cách Kraków 15 dặm.
Đến Niegowić vào mùa thu hoạch, việc đầu tiên của ngài là quỳ xuống và hôn đất
– một “thói quen tốt” mà ngài vẫn làm khi làm Giáo hoàng. Động thái này trở
thành “thương hiệu” của ngài, nhưng không phải của chính ngài, vì ngài nói rằng
ngài bắt chước vị thánh người Pháp của thế kỷ 19 là LM Gioan Maria Vianney, cha
sở xứ Ars (Curé d’Ars).
Lm Karol Wojtyła ở
Niegowić, Ba lan, 1948
Tháng 3/1949, ngài được thuyên chuyển
qua xứ thánh Florian ở Kraków. Ngài dạy môn đạo đức tại ĐH Jagiellonian ở
Kraków và sau đó dạy tại ĐH Công giáo Lublin. Ngài quy tụ một nhóm gần 20 người
trẻ, gọi là Rodzinka (gia đình nhỏ), để cùng cầu nguyện, thảo luận triết học,
giúp đỡ người mù và người bệnh. “Gia đình nhỏ” tiếp tục phát triển. các bạn trẻ
bắt đầu gọi ngài là Wujek (chú, bác) để người ngoài không biết ngài là linh mục
khi phải đi ra ngoài. Nhóm của ngài càng phát triển càng liên kết chặt chẽ, vài
người trong nhóm kết hôn. Cuối cùng, nhóm của ngài có đến 200 người, và được
gọi là Środowisko (hiểu theo nghĩa “môi trường” hoặc “hoàn cảnh”). Hằng năm cả
nhóm cùng đi trượt tuyết và chèo thuyền. Khi đi chèo thuyền, LM Wojtyła thường
dùng thuyền 2 người để cùng trao đổi và hướng dẫn tâm linh. Ngài dâng thánh lễ
ngay trên thuyền, và lấy 2 mái chèo làm Thánh giá. Năm 1955, những người chèo
thuyền tham dự cuộc thi quốc tế trên sông Dunajec. Thuyền của “chú” Wojtyła bị
thủng ngay tại đích đến (finish line). LM Wojtyła đã viết một loạt bài trên báo
Công giáo Tygodnik Powszechny (Tuần báo Phổ thông) ở Kraków giải quyết
các vấn đề đương thời của Giáo Hội.
Các tác phẩm văn chương của LM Karol
Wojtyła nở rộ trong 12 năm đầu làm linh mục. Chiến tranh, sống dưới chế độ cộng
sản, và trách nhiệm mục vụ của ngài xuất hiện trong các bài thơ và kịch bản của
ngài. Các tác phẩm đó được ngài ký bằng bút danh (pseudonyms) Andrzej Jawień và
Stanisław Andrzej Gruda. Ngài dùng các bút danh để phân biệt tác phẩm văn
chương với tác phẩm tôn giáo (ngài ký tên thật), và cũng để tránh sự “dòm ngó”
của người khác.
Ngài có bằng tiến sĩ thứ hai, đánh
giá tính khả thi của đạo đức Công giáo (feasibility of a Catholic ethic) dựa
trên hệ thống đạo đức của nhà hiện tượng học (phenomenologist) Max Scheler (An
Evaluation of the Possibility of Constructing a Christian Ethics on the Basis
of the System of Max Scheler – Đánh giá tính khả dĩ của việc xây dựng Đạo đức
Kitô giáo theo Hệ thống của Max Scheler, năm 1954). Cũng như với bằng tiến
sĩ thứ nhất, ngài cũng không được cấp bằng ngay, vì chính quyền cộng sản cấm
ban giảng huấn của ĐH Jagiellonian cấp bằng. Cùng với việc chuẩn bị tại ĐH Công
giáo Lublin, cuối cùng ngài cũng nhận được bằng tiến sĩ triết năm 1957, và ngài
được bầu làm trưởng khoa đạo đức học (Chair of Ethics) năm 1956.
Ngày 5/8/1958, trong chuyến đi chèo
thuyền 2 tuần với nhóm Środowisko ở sông Lyne, thuộc Đông Bắc Ba Lan, LM Karol
Wojtyła nhận được một lá thư cho biết phải đến gặp TGM Hồng y Wyszynski, giáo
phận Warsaw. Khi ngài đến văn phòng tòa TGM, ĐHY cho ngài biết ngài được bổ
nhiệm làm giám mục phụ tá (auxiliary bishop) của TGM Eugeniusz Baziak, tổng
giáo phận Kraków, vì tổng giáo phận bị trống ngôi (sede vacante) do ĐHY Sapieha
qua đời. LM Wojtyła vâng lời và đến thẳng tu viện Ursuline và xin được vào nhà
nguyện để cầu nguyện. Ngài ngạc nhiên thấy các nữ tu đang phủ phục trước Nhà
Tạm (tabernacle).
Ngài kể trong cuốn Rise, Let us
be on our Way (Hãy đứng dậy, chúng ta cùng lên đường) rằng khi ngài vào một
căn phòng đầy các linh mục, với tin tức về việc ngài được bổ nhiệm làm giám mục
phụ tá, TGM Baziak đã nói lớn: “Habemus papam” (Chúng ta đã có Giáo
hoàng). Ngài cho rằng những từ này có thể là lời tiên tri trong ánh sáng của
các sự kiện xảy ra tiếp theo. Thế là Karol Wojtyła đã tìm được chính mình, là
vị giám mục trẻ nhất Ba Lan lúc mới 38 tuổi. Ngài được TGM Baziak tấn phong
giám mục vào ngày lễ thánh Wenceslaus, 28/9/1958, tại nhà thờ chính tòa Wawel ở
Kraków.
Năm 1959, ĐGM Wojtyła bắt đầu thói
quen hằng năm là cử hành thánh lễ vọng Giáng sinh ở một khu đất trống tại Nowa
Huta, một thành phố công nghiệp do cộng sản xây dựng không xa Kraków, và là
thành phố đầu tiên ở Ba Lan không có nhà thờ nào. Nhưng do áp lực của người
Công giáo, một nhà thờ được xây dựng tại Nowa Huta năm 1977.
TGM Eugeniusz Baziak qua đời tháng
6/1962, và ngày 16/7/1962, GM Karol Wojtyła được bổ nhiệm làm giám quản (Vicar
Capitular) của tổng giáo phận cho đến khi bổ nhiệm TGM. Ngày 5/10/1962, ĐGM
Karol Wojtyła đi Rôma tham dự Công đồng Vatican II. Là một giám mục trẻ và có
chức vụ tương đối thấp trong hàng giáo phẩm, ĐGM Wojtyła ngồi ở cạnh cửa Đền
thờ Thánh Phêrô. Trước khi tới Công đồng, ĐGM Wojtyła đã gởi một tiểu luận cho
các ủy viên (commissioners) để chuẩn bị Công đồng, ngài đề nghị rằng thế giới
muốn biết Giáo Hội phải nói gì về con người và tình trạng con người. Câu trả
lời của Giáo Hội là gì đối với việc phổ biến tính hiện đại gây thất vọng và sự
hiện hữu của con người?
Ngài góp 2 tài liệu ảnh hưởng nhất
và mang tính lịch sử nhất của Công đồng là Decree on Religious Freedom
(Sắc lệnh về Tự do Tôn giáo – bản Latin là Dignitatis Humanae) và Pastoral
Constitution on the Church in the Modern World (Hiến chế Mục vụ về Giáo Hội
trong Thế giới Hiện đại – bản Latin là Gaudium et Spes).
Ngày 30/12/1963, ĐGH Phaolô VI bổ
nhiệm ngài làm TGM Kraków. Năm 1960, TGM Wojtyła xuất bản cuốn Tình yêu và
Trách nhiệm (Love and Responsibility), đó là lời biện hộ các giáo huấn truyền
thống của Giáo Hội về giới tính và hôn nhân quan điểm thần học mới (new
philosophical standpoint). Năm 1967, ngài có công trong việc công thức hóa Tông
thư Humanae Vitae (Sự sống Con người) – Tông thư này giải quyết các vấn
đề tương tự, đồng thời cấm phá thai và kế hoạch hóa gia đình theo cách nhân
tạo. Năm 1967, ĐGH Phaolô VI bổ nhiệm TGM Wojtyła làm Hồng y.
Tháng 8/1978, sau khi ĐGH Phaolô VI
qua đời, ĐHY Wojtyła được vào Mật viện Giáo hoàng (Papal Conclave). Khi đó, các
Hồng y bầu chọn ĐHY Albino Luciani, TGM Venice, với niên hiệu Gioan-Phaolô I.
Lúc 65 tuổi, ĐHY Luciani là người trẻ nhất theo tiêu chuẩn Giáo hoàng. ĐHY
Wojtyła, lúc đó 58 tuổi, còn hy vọng được vào Mật viện lần nữa trước khi 80
tuổi (hạn tuổi đối với các Hồng y được bầu làm Giáo hoàng). Tuy nhiên, triều
đại Giáo hoàng của Đức Gioan-Phaolô I chỉ kéo dài 33 ngày vì qua đời ngày
28/9/1978. Tháng 10/1978, ĐHY Wojtyła trở lại Vatican để bầu Giáo hoàng. Có hai
nhóm ứng viên “mạnh”: ĐHY Giuseppe Siri, TGM Genoa, và ĐHY Giovanni Benelli,
TGM Florence với một vị phụ tá thân cận của ĐGH Gioan-Phaolô I. Trong những lần
bỏ phiếu đầu tiên, ĐHY Benelli chênh lệch 9 phiếu. Tuy nhiên, ĐHY Wojtyła an
toàn là một ứng viên thỏa hiệp (compromise candidate), một phần nhờ sự ủng hộ
của ĐHY Franz König, Tổng giáo phận Vienna, và các vị khác mới đầu ủng hộ ĐHY
Giuseppe Siri.
Ngày hôm sau, với cương vị Giáo
hoàng, ngài dâng thánh lễ với Hồng y đoàn (College of Cardinals) tại Nguyện
đường Sistine (Sistine Chapel). Sau thánh lễ, ngài ban phép lành đầu tiên, gọi
là Urbi et Orbi (phép lành truyền thống), đài phát thanh phát sóng toàn
thế giới.
Cũng như vị tiền nhiệm, ĐGH
Gioan-Phaolô II miễn lễ đăng quang truyền thống (traditional Papal coronation)
và chỉ mặc tu phục giản dị để nhậm chức vào ngày 22/10/1978. Khi nhậm chức Giáo
hoàng, các Hồng y quỳ gối trước ngài để tuyên hứa và hôn nhẫn, ngài đứng dậy
khi ĐHY Stefan Wyszyński (người Ba Lan) quỳ gối, ngăn Hồng y này hôn nhẫn và ôm
Hồng y này.
Ngài được bầu làm Giáo hoàng ngày
12/11/1978. Việc bầu chọn một giám mục ở một đất nước cộng sản giống như cốt
truyện một cuốn sách (1963) và bộ phim The Shoes of the Fisherman (Đôi
giày của Ngư ông, 1968).
Ngày 13/5/1981, ĐGH Gioan-Phaolô II
vào Quảng trường Thánh Phêrô, ngài bị Mehmet Ali Ağca bắn bị thương nặng, hắn
là tay súng chuyên nghiệp thuộc nhóm Sói Xám (Grey Wolves). Hắn dùng súng lục 9
ly bán tự động bắn ngài vào bụng, xuyên qua đại tràng và ruột non vài phát.
Ngài được đưa ngay vào bệnh viện Gemelli. Ngài bất tỉnh trên đường đến bệnh
viện. Dù không bị đứt động mạch nhưng ngài bị mất 3/4 lượng máu và gần hết máu.
Cuộc phẩu thuật kéo dài 5 giờ. Khi tỉnh lại, trước khi phẫu thuật tiếp, ngài
nói các bác sĩ đừng gỡ bỏ Dây Quàng Vai (Brown Scapular, dây các phép) khi phẫu
thuật. Ngài nói rằng Đức Mẹ Fatima đã cứu ngài.
“Tôi có thể quên vụ [Ali Ağca ám sát ngài] ở Quảng trường Thánh Phêrô xảy ra
vào hôm đó và vào lúc Mẹ của Đức Kitô lần đầu hiện ra với những dân nghèo hơn
60 năm trước tại Fatima thuộc Bồ Đào Nha hay không? Vì mọi thứ xảy ra với tôi
trong ngày đó, tôi cảm thấy sự quan tâm và bảo vệ đặc biệt của Đức Mẹ, đã trở
nên mạnh hơn viên đạn” (Đức Gioan-Phaolô II – Ký ức & Đồng nhất, NXB
Weidenfeld & Nicolson, năm 2005, tr. 184).
Ağca bị một nữ tu và những người
đứng gần đó bắt giữ, sau đó cảnh sát đến điệu hắn đi. Hắn bị án tù chung thân.
Hai ngày sau lễ Giáng sinh năm 1983, Đức Gioan-Phaolô II đích thân đến nhà tù
thăm hắn. Ngài và hắn nói chuyện riêng khoảng 20 phút. Ngài cho biết: “Những
gì chúng tôi nói chuyện vẫn được giữ bí mật, chỉ anh ta và tôi biết. Tôi nói
với anh ấy như một người anh em mà tôi đã tha thứ và là người tôi hoàn toàn tin
tưởng”.
Ngày 2/3/2006, Ủy ban Mitrokhin của
Ý, do Silvio Berlusconi thành lập và dẫn đầu là thượng nghị sĩ Paolo Guzzanti,
kết luận rằng Liên bang Soviet (Soviet Union) đã đứng sau vụ ám sát Đức
Gioan-Phaolô II, nhằm trả đũa việc ngài ủng hộ tình đoàn kết (solidarity), giới
Công giáo, phong trào công nhân Ba Lan ủng hộ dân chủ (pro-democratic Polish
workers’ movement), một chủ thuyết đã được Michael Ledeen và Cơ quan Tình báo
Trung ương Hoa Kỳ (United States Central Intelligence Agency) ủng hộ lúc đó.
Tường trình của Ý cho biết rằng các bộ an ninh cộng sản Bulgaria (Communist
Bulgarian security departments) đã được dùng để không lộ vai trò của Liên bang
Soviet (Soviet Union). Báo chí tường trình cho biết rằng Tình báo quân đội
Soviet (Soviet military intelligence, tiếng Nga là Glavnoje
Razvedyvatel’noje Upravlenije) – không phải là KGB – chịu trách nhiệm. Phát
ngôn viên Boris Labusov, thuộc Cơ quan Tình báo Ngoại quốc của Nga (Russian
Foreign Intelligence Service) gọi sự kết tội đó là “lố bịch” (absurd). Trong
chuyến tông du của Đức Gioan-Phaolô II tới Bulgaria hồi tháng 5/2002, thư ký
của ngài là TGM Stanisław Dziwisz, đã viết trong cuốn A Life with Karol
(Sống với Đức Karol) rằng ĐGH tin rằng liên bang Soviet cũ đã đứng phía sau vụ
ám sát ngài nhưng họ không thừa nhận. Bulgaria và Nga đã tranh cãi về kết luận
của Ý, nói rằng ĐGH từ chối liên kết với Bulgaria.
Vụ ám sát thứ hai xảy ra vào ngày
12/5/1982, một ngày trước ngày “kỷ niệm” ám sát lần một, ở Fatima (Bồ Đào Nha),
một người đàn ông đã đâm ngài bằng lưỡi lê. Anh ta bị bảo vệ bắt, dù TGM
Stanisław Dziwisz sau đó cho biết rằng Đức Gioan-Phaolô II đã bị thương nhưng
không tiết lộ về vết thương nguy hiểm tới tính mạng ngài. Kẻ ám sát ngài là
linh mục Juan María Fernández y Krohn, thuộc phe hữu của Tây Ban Nha, được TGM
Marcel Lefebvre (thuộc Hội Thánh Piô X) phong chức linh mục và chống lại những
thay đổi do Công đồng Vatican II, gọi ĐGH là đặc vụ của Cộng sản Moscow
(Mát-cơ-va) và Khối Mác-xít Đông Âu. Sau đó Fernández y Krohn rời bỏ Công giáo
La Mã và bị tù 6 năm. Cựu linh mục này được điều trị bệnh tâm thần (mental
illness) và bị trục xuất khỏi Bồ Đào Nha, rồi làm cố vấn pháp luật (solicitor)
ở Bỉ. Tháng 7/2000, ông ta lại bị bắt sau khi leo qua tường rào an ninh
(security barricade) ở Dinh Hoàng gia Brussels (Royal Palace of Brussels), kết
tội vua Tây Ban Nha Juan Carlos đã giết anh của ông ta là Alfonso năm 1956.
Đức Gioan-Phaolô II cũng là một
trong các “đích nhắm” của tổ chức Bojinka được Al-Qaeda tài trợ khi ngài đến
Philippines năm 1995. Kế hoạch đầu tiên của họ là giết Đức Gioan-Phaolô II khi
ngài thăm Philippines dịp Đại hội Giới trẻ (World Youth Day) năm 1995. Ngày
15/1/1995, một kẻ đánh bom tự sát (suicide bomber) mặc tu phục linh mục, khi
Đức Gioan-Phaolô II đi qua hắn để đến chủng viện San Carlos ở TP Makati. Hắn
đến gần ngài và cho nổ bom. Vụ ám sát ngài có tổ chức để nhằm đánh lạc hướng.
Tuy nhiên, lửa hóa chất đã báo động cho cảnh sát ở gần đó, và những kẻ ám sát
ngài đã bị tóm gọn trước khi Đức Gioan-Phaolô II đến.
Ngài là vị Giáo hoàng trẻ tuổi nhất kể
từ ĐGH Piô IX được bầu vào năm 1846. Đức Gioan-Phaolô II làm Giáo hoàng khi còn
khỏe mạnh và tương đối trẻ, vẫn đi xe đạp, đi bơi và trượt tuyết. Tuy nhiên,
sau 25 năm trên cương vị Giáo hoàng, vụ ám sát năm 1981 và chứng ung thư đã
khiến sức khỏe ngài giảm sút. Ngài phải cắt một khối u ở đại tràng năm 1992, bị
trật khớp vai năm 1993, gãy xương đùi năm 1994, và cắt ruột thừa năm 1996.
Năm 2001, một bác sĩ chỉnh hình nói
rằng Đức Gioan-Phaolô II bị bệnh Parkinson, như đã được nghi ngờ một thời gian,
Vatican biết điều này vào năm 2003. Ngài khó nói vài câu một lượt, tai cũng khó
nghe hơn. Ngài còn bị viêm khớp nặng ở đầu gối chân phải, do đó ngài ít đi bộ
trước công chúng. Tuy nhiên, ngài vẫn tiếp tục đi khắp thế giới. Những ai đã
gặp ngài đều nói rằng dù sức khỏe yếu kém nhưng ngài vẫn hoàn toàn tỉnh táo.
Về cuối triều đại Giáo hoàng của
ngài, có những người ngoài và trong Giáo Hội nghĩ rằng ngài nên từ chức hoặc về
hưu. Thậm chí người ta còn đề nghị nhiệm kỳ Giáo hoàng. Tuy nhiên, khi Đức
Gioan-Phaolô II nói rằng ngài chấp nhận Ý Chúa muốn ngài làm Giáo hoàng, ngài
sẽ hoàn thành nhiệm vụ đến khi chết, dù tư liệu của ngài cho thấy ngài đã viết
đơn xin từ chức năm 2002.
Ngày 1/2/2005, ngài được đưa vào
Bệnh viện Đa khoa Agostino Gemelli ở Rôma vì bị nhiễm trùng thanh quản cấp tính
và ho, do cảm cúm. Tòa thánh Vatican cho biết là ngày hôm sau tình trạng sức
khỏe ngài đã ổn định, nhưng ngài vẫn ở trong bệnh viện đến khi khỏe hẳn. Ngày
6/2, ngài xuất hiện trước công chúng để đọc kinh Truyền tin (Angelus) ở cửa phòng
bệnh viện bằng giọng khàn. Ngài không thể cử hành lễ Tro tại Quảng trường Thánh
Phêrô ngày 9/2, và trở về Vatican ngày 10/2.
Ngày 24/2/2005, ngài bắt đầu khó thở
và bị sốt, ngài được đưa ngay vào bệnh viện Gemelli để được phẫu thuật mở khí
quản (tracheotomy). Một sĩ quan cận vệ của thủ tường Ý Silvio Berlusconi nói
rằng Đức Gioan-Phaolô II là một người trầm lặng (serene) sau khi được phẫu
thuật. Ngài đưa tay lên và muốn nói điều gì đó, nhưng các bác sĩ khuyên ngài
không nên nói. Ngài ban phép lành từ cửa sổ bệnh viện vào thứ Bảy 27/2 và Chúa
nhật 6/3, ngài nói bằng tiếng Đức và tiếng Ý khi gặp ĐHY Ratzinger (nay là ĐGH
Bênêđictô XVI) trên tầng 10 của bệnh viện Gemelli vào ngày thứ Ba 1/3. ĐHY
Ratzinger nói với báo giới quốc tế: “ĐGH nói với tôi bằng tiếng Đức và tiếng
Ý. Ngài hoàn toàn minh mẫn. Tôi vui mừng thấy ngài sáng suốt để có thể nói về
các vấn đề chính bằng giọng nói của ngài. Chúng tôi thường trao đổi bằng tiếng
Đức. Chi tiết không quan trọng – ngài nói về các vấn đề chính”.
Khi đọc kinh Truyền tin ngày Chúa
nhật 13/3, lần đầu tiên ngài có thể nói với khách hành hương từ khi nhập viện
lần nữa. Chiều hôm đó, ngài trở về Vatican sau gần 1 tháng nằm viện. Chúa nhật
lễ Lá (ngày 20/3), ngài xuất hiện một lúc tại cửa sổ để gặp khách hành hương.
Ngài được hàng ngàn người hoan hô khi ngài lặng lẽ cầm nhánh ô-liu vẫy chào.
Đây là lần đầu tiên ngài không thể cử hành Lễ Lá. Ngài xem lễ qua ti-vi quay
cảnh thánh lễ ở Quảng trường Thánh Phêrô.
Ngày 24/3, ĐHY Alfonso Lopez
Trujillo của giáo phận Colombia cử hành nghi thức rửa chân tại Đền thờ Thánh
Phêrô. ĐHY đại diện Đức Gioan-Phaolô II trong nghi thức thứ Năm Tuần Thánh ở
Vatican và nói rằng ĐGH muốn vâng theo Ý Chúa. Ngày 27/3, đại lễ Phục sinh,
ngài cũng xuất hiện một lúc tại cửa sổ. Ngài muốn nói mà không nói được. Cuối
tháng đó, ngài đến gần cái chết.
Ngày 31/3/2005, ngài bị sốt cao vì
nhiễm trùng niệu đạo, nhưng ngài không được đưa vào bệnh viện vì ngài muốn được
chết tại Vatican. Cuối ngày hôm đó, Vatican thông báo rằng Đức Gioan-Phaolô II
đã lãnh nhận Bí tích Xức dầu, nghi thức cuối cùng của Giáo Hội Công giáo La Mã,
lần đầu ngài lãnh nhận bí tích này từ vụ ám sát năm 1981.
Ngày 1/4, tình trạng sức khỏe ngài
rất yếu, suy tim và suy thận nhanh. Ngài phải tiếp thực phẩm qua đường mũi.
Sáng hôm đó ngài đã lên cơn đau tim, nhưng vẫn tỉnh táo. Joaquin Navarro Valls,
phát ngôn viên của Vatican, không nói về cơn đau tim của ngài, nhưng nói ngài
bị suy tim và trong tình trạng nguy kịch.
Vài báo Ý nói ngài qua đời lúc 20:20
CEST (18:20 UTC), nhưng ngay sau đó, Tòa Thánh nói ngài chưa chết, và mọi
chuyện đã thay đổi. Đài truyền hình Sky Italia nói rằng tim và não của ngài vẫn
hoạt động.
Khoảng 00:37 CEST ngày 2/4 (22:37
UTC ngày 1/4), phát ngôn viên Tòa Thánh đưa tin ngắn về sức khỏe của ngài và
xác nhận ngài đã lãnh nhận các Bí tích cuối cùng, không nói về việc đưa ngài
tới bệnh viện, và gặp những người thân cận nhất, trong số đó có ĐHY Ratzinger.
ĐHY Ratzinger nói: “Ngài biết mình sắp chết và đã chào biệt tôi lần cuối”.
Ngài cũng muốn được đọc những lời suy niệm về 14 chặng đàng Thánh giá đã suy
niệm vài ngày trước.
Rất nhiều người trẻ đến canh thức.
Trong sứ điệp cuối cùng của ngài, đặc biệt dành cho giới trẻ trên thế giới,
ngài nói: “Cha tìm kiếm các con. Bây giờ các con đã đến với cha. Cha cảm ơn
các con”.
Chiếu tối, Tòa Thánh thông báo tình
trạng sức khỏe của ngài vẫn nguy kịch. Đến sáng, ngài lại bị sốt cao. Khoảng
19:00 CEST (17:00 UTC), báo đài Ý đưa tin Đức Gioan-Phaolô II đã bất tỉnh. Hầu
như hết hy vọng.
Theo LM Jarek Cielecki, lời cuối của
ngài trước khi qua đời là tiếng “Amen”, rồi ngài nhắm mắt lại. Tại phòng riêng
của ngài, lúc 21:37 CEST (19:37 UTC) ngày 2/4, ngài trút hơi thở cuối cùng, 46
ngày sau sinh nhật thứ 85 của ngài. Giấy chứng tử ghi nhiễm trùng và suy tim là
những nguyên nhân gây tử vong.
Từ trái qua phải:
Tổng thống George W. Bush và phu nhân, cựu tổng thống George H. W. Bush (cha),
cựu tổng thống Bill Clinton, Ngoại trưởng Condoleeza Rice
Khi ngài qua đời, có sự hiện diện
của 2 thư ký riêng của ngài là TGM Stanisław Dziwisz và Mieczysław Mokrzycki,
Marian Jaworski, TGM Stanisław Ryłko và LM Tadeusz Styczeń. Ngài được giúp đỡ
nhờ bác sĩ riêng là Renato Buzzonetti, với 2 bác sĩ khác là Alessandro Barelli
và Ciro D’Allo, với các y tá khi cần thiết. Cũng có 3 nữ tu dòng Thánh Tâm Chúa
Giêsu giúp đỡ ngài trong giờ phút cuối cùng.
Ngay sau đó, ĐHY Quốc vụ khanh
(Secretary of State) Angelo Sodano đến, có cả Sứ thần Tòa thánh Eduardo
Martínez Somalo, TGM Leonardo Sandri, thư ký văn phòng, và TGM Paolo Sardi,
nguyên Sứ thần Tòa thánh. Sau đó, ĐHY Ratzinger, trưởng Hồng y đoàn (College of
Cardinals), và ĐHY Jozef Tomko cũng hiện diện.
Hơn 2 triệu công dân Vatican với 1
tỷ người Công giáo hoàn cầu và nhiều người không Công giáo đã thương tiếc Đức
Gioan-Phaolô II. Ngài luôn nói rằng khi ngài qua đời nên coi như giai đoạn
chuyển qua cuộc sống vĩnh hằng. Đám đông ở Vatican đã vỗ tay khi được thông báo
ngài qua đời, theo thói quen truyền thống Ý biểu hiện lòng kính trọng.
Tại Ba Lan, người Công giáo tụ họp
tại nhà thờ ở Wadowice, nơi sinh của ngài. Đài truyền hình quốc gia hoãn lại
các chương trình khác từ ngày 1/4/2005 để chiếu thánh lễ. Dân Ba Lan rất kính
trọng ngài và coi ngài là “cha”, họ đã rất buồn khi ngài qua đời. Chính phủ Ba
Lan tuyên bố 6 ngày đại tang ngài.
Nhiều vị lãnh đạo thế giới đã bày tỏ
thương tiếc ngài và cho treo cờ tang tại quốc gia của họ:
• Tại Argentina, các sinh viên giữ
thinh lặng một lúc trước khi vào lớp sau khi nghe tin Đức Gioan-Phaolô II qua
đời. Tổng thống Néstor Kirchner của Argentina nói: “Hàng triệu người chúng
ta đang khóc thương Đức Gioan-Phaolô II, các giáo huấn của ngài tiếp tục theo
chúng ta đến hết đời, mãi mãi”.
• Thủ tướng Úc John Howard nói rằng
Đức Gioan-Phaolô II nên được nhớ đến là một người đấu tranh cho tự do để chống
lại cộng sản, và là một vị lãnh đạo Kitô giáo vĩ đại.
• Tại Brazil, nước có số người Công
giáo đông nhất thế giới, Tổng thống Luiz Inácio Lula da Silva bày tỏ niềm tiếc
thương của dân Brazil đối với ngài. Chính phủ tuyên bố 7 ngày quốc tang dành
cho ngài. Đêm trước khi ngài qua đời, thượng nghị viện Brazil đã ngưng họp và
các nghị sĩ đã cùng đọc kinh Lạy Cha (Lord’s prayer) để cầu nguyện cho ngài hồi
phục. Sau khi ngài qua đời, thượng nghị viện đã dành một phút mặc niệm ngài.
• Thủ tướng Paul Martin của Canada
nói: “Phần tư thế kỷ qua, Đức Gioan-Phaolô II đã là biểu tượng của tình
thương và niềm tin, hòa bình và lòng trắc ẩn… Hôm nay, nỗi đau của chúng ta là
nỗi đau chung của thế giới”. Ngày 4/4, thủ tướng Martin và các vị lãnh đạo
của Canada đã tưởng niệm Đức Gioan-Phaolô II tại Hạ viện (House of Commons). Cờ
rũ treo khắp nước và tại một số tòa nhà ngoại giao; cờ tang treo cho đến ngày
an táng ngài. Tỉnh Manitoba để sách phân ưu cho người ta ghi vào.
• Tại Chilê, chính phủ tuyên bố 3
ngày quốc tang. Tổng thống Ricardo Lagos cho biết: “Đức Gioan-Phaolô II
không ở xa chúng ta. Tên ngài đã trở thành một phần của lịch sử, tư tưởng của
ngài sẽ luôn truyền cảm hứng cho chúng ta để xây dựng một quốc gia công bình
hơn và một thế giới hòa bình hơn”.
• Tổng thống Álvaro Uribe Vélez của
Colombia cho treo cờ tang trên các tòa nhà chính phủ và các tòa đại sứ treo cờ
rũ 2 ngày. Tổng thống nhấn mạnh đến sự chiến đấu vì hòa bình thế giới của Đức
Gioan-Phaolô II.
• Chính quyền Cuba cho phép ĐHY
Jaime Lucas Ortega y Alamino phát biểu trên đài truyền hình: “Đây là một con
người đã gánh chịu sức nặng luân lý của thế giới trong suốt 26 năm… biến ngài
thành biểu tượng luân lý duy nhất đối với lòng nhân đạo trong những năm qua đầy
khó khăn và chiến tranh”. Chính quyền Cuba tuyên bố 3 ngày quốc tang.
• Thủ tướng Ấn độ Manmohan Singh
cũng đã ghi lời phân ưu tại tòa đại sứ Vatican ở New Delhi. Chính phủ Ấn độ
tuyên bố 3 ngày quốc tang.
• Tại Anh quốc, nữ hoàng Elizabeth
II diễn tả niềm tiếc thương sâu sắc trước cái chết củ Đức Gioan-Phaolô II và
ghi nhớ những nỗ lực của ngài trong việc thúc đẩy hòa bình khắp thế giới. Thủ
tướng Tony Blair nói: “Thế giới đã mất một vị lãnh đạo tôn giáo đáng kính
đối với người có đạo hay không có đạo”.
• Tại Tòa Bạch Ốc (White House) và
các tòa nhà công tại Hoa Kỳ đều treo cờ rũ trong ngày an táng Đức Gioan-Phaolô
II. Tổng thống George W. Bush bày tỏ lòng thương tiếc ngài và gọi ngài là “nhà
vô địch của tự do nhân quyền” (champion of human freedom), là “nguồn cảm hứng
cho hàng triệu người Mỹ” (inspiration to millions of Americans) và là “anh hùng
của mọi thời đại” (hero for the ages). Tổng thống Bush là tổng thống đầu tiên
của Hoa Kỳ tham dự đám tang một vị Giáo hoàng. Cựu tổng thống Bush cha và cựu
tổng thống Bill Clinton cũng hiện diện tại đám tang ngài.
Nhiều nước có số người Công giáo
đông đã tuyên bố quốc tang dành cho ngài. Chính phủ Philippines tuyên bố để
tang đến khi an táng ngài. Gabon và Paraguay tuyên bố 5 ngày quốc tang, Costa
Rica 4 ngày quốc tang, Ý 3 ngày quốc tang, Bồ Đào Nha cho treo cờ rũ trên các
tòa nhà công từ sau khi biết tin ngài qua đời, Bolivia, Cape Verde, Croatia,
Đông Timor, Haiti, Malawi và Seychelles cũng có hoạt động tương tự. Peru và Tây
Ban Nha tuyên bố 1 ngày quốc tang.
Ai Cập và Lebanon cũng có số dân
Công giáo đông, họ tuyên bố 3 ngày quốc tang. Kosovo tuyên bố 2 ngày quốc tang.
Còn Albania, Bosnia và Herzegovina tuyên bố 1 ngày quốc tang. Tại Công hòa
Macedonia, các hoạt động văn hóa được hoãn lại trong ngày Đức Gioan-Phaolô II
qua đời. Pháp và Đức cũng cho treo cờ rũ.
Nhiều lãnh tụ không Công giáo ở khắp
thế giới đều bày tỏ niềm thương tiếc ngài.
Từ khi Đức Gioan-Phaolô II qua đời,
nhiều giáo sĩ tại Vatican, kể cả ĐHY Angelo Sodano giảng trong thánh lễ an
táng, đều nhắc đến ngài là vị Giáo hoàng vĩ đại. Báo Corriere della Sera
của Ý gọi ngài là “người vĩ đại nhất” (The Greatest). Danh xưng “vĩ đại nhất”
đã dành cho 2 vị Giáo hoàng hồi thế kỷ I là Đức Lêô Cả và Grêgôriô Cả. Các học
giả về Thánh luật (Canon law) đều nói rằng không có quy trình chính thức nào để
tuyên bố một vị Giáo hoàng là “vĩ đại”, danh xưng này được hình thành qua công
chúng, và vẫn được áp dụng.
Lễ kính viếng (Rite of Visitation)
từ 4/4 tới 7/4 tại Đền thờ Thánh Phêrô. Di chúc của ngài được công bố ngày 7/4
cho thấy ngài muốn được an táng tại quê hương Ba Lan nhưng quyết định cuối cùng
thuộc Hồng y đoàn, muốn an táng ngài dưới Đền thờ Thánh Phêrô, tôn trọng ý muốn
của ngài nên an táng ngài ở “đất trống” (in bare earth).
Thánh lễ cầu hồn ngày 8/4 là kỷ lục
thế giới về số người tham dự và số vị lãnh đạo quốc gia hiện diện. Số các vị
lãnh đạo quốc gia tham dự lễ an táng còn đông hơn đám tang của Winston
Churchill (1965) và Josip Broz Tito (1980). Bốn vị vua, 5 nữ hoàng, 70 tổng
thống và thủ tướng, hơn 14 vị lãnh đạo các tôn giáo và rất nhiều tín hữu.
Khoảng 4 triệu người quy tụ về Rôma, chưa từng thấy trong lịch sử Kitô giáo.
Khoảng 250.000 – 300.000 người trong khuôn viên Vatican. Trưởng Hồng y đoàn là
ĐHY Joseph Ratzinger lúc đó đã chủ tế. Đức Gioan-Phaolô II được an táng trong
hầm mộ dưới Đền thờ Thánh Phêrô, khu mộ của các vị Giáo hoàng, nơi mà trước đó
là thi hài Đức Gioan XXIII. Nơi đây trống vì hài cốt Đức Gioan XXIII được dời
vào trong Đền thờ sau khi được phong chân phước.
Chiếc quan tài rất giản dị của con người vĩ đại Gioan-Phaolô
II
Lạy Chân phước
Gioan-Phaolô II, xin nguyện giúp cầu thay cho chúng con biết tích cực tìm kiếm
và xây dựng hòa bình, luôn sống giản dị, nhưng can đảm trong mọi nghịch cảnh để
chứng tỏ là con cái Thiên Chúa. Amen.
Trầm Thiên Thu
Nguồn:
www.lamhong.org