LOAN BÁO TIN MỪNG THEO CHỈ DẪN
CỦA CÔNG ĐỒNG VATICAN II
Lm Đaminh Ngô Quang Tuyên
Trước khi Công Đồng Vatican II được nhóm họp, vai trò của giáo dân trong Giáo Hội thường nằm trong những sinh hoạt đạo đức nội bộ hoặc truyền giáo, nhưng tiếng nói của họ chưa đúng với tầm vóc của cả một lớp người mà ta gọi là những chi thể của Thân Thể Mầu Nhiệm trong Đức Kitô. Hàng giáo phẩm và giáo sỹ nắm vai trò chủ động trong tất cả các hoạt động của giáo dân. Nhưng dần dần những phong trào phát khởi từ những hoàn cảnh xã hội của Giáo Hội đã khẳng định xu hướng “Công Giáo Tiến Hành” cần phải được sắp xếp và được hướng dẫn theo đúng đường lối của Tin Mừng giữa bão táp của những đổi thay toàn cầu, nhất là trong phạm vi triết học, kinh tế, chính trị, xã hội…Đôi khi đó đây đã đột biến những ý nghĩ, thậm chí thành phong trào tẩy chay cả những sứ vụ truyền giáo, vì những thời kỳ khai mở do các thừa sai, các bậc tiền bối từ Tây Phương ra đi giảng đạo cho các châu lục khác, bị gắn chung với ác tâm chiến tranh thuộc địa… Công Đồng Vatican II đã kịp thời đưa làn gió mát từ Thánh Thần Thiên Chúa đến cho cả xã hội toàn cầu. Đón luồng gió mát này, những Kitô hữu cảm thấy mình như tươi trẻ đầy sức sống trên đồng cỏ xanh tươi (TV.22) và sẵn sàng đảm nhận trách nhiệm của mình theo hướng dẫn của Công Đồng.
Công Đồng Vatican II đã dành riêng một văn kiện chuyên biệt dành cho giáo dân, đó là sắc lệnh về Tông Đồ Giáo Dân Apostolicam Actuositatem mà chúng ta sẽ lược qua những chỉ dẫn thực hành được ghi trong văn kiện này. Bên cạnh đó, một văn kiện lừng danh khác kết hợp với văn kiện ấy làm thành đôi cánh giúp người giáo dân bay cao hơn trong khung trời Loan Báo Tin Vui Cứu Độ: Sắc lệnh về truyền giáo Ad Gentes. Dĩ nhiên ý tưởng về truyền giáo còn tràn lan trong tất cả những văn kiện của Công Đồng. Nhưng ở đây ta chỉ cần tóm tắt giáo huấn quý báu và sắc bén của hai sắc lệnh chuyên biệt về truyền giáo nói trên.
I. Tóm tắt Giáo Huấn Ad Gentes.(sắc lệnh về truyền giáo)
Giáo Hội truyền giáo vì bổn phận phải rao giảng Tin Mừng cho mọi người và thành lập cộng đồng tín hữu khắp nơi, noi gương các Tông Đồ để lại, sao cho lời Chúa được phổ biến và tôn vinh (2Tx 3,1).
CHƯƠNG I:
1. Những nguyên tắc giáo thuyết (Từ số 2-9)
Nguyên tắc giáo thuyết: truyền giáo là ý định của Chúa Cha (Ga 11,52), sứ mệnh của Chúa Con (Lc 19,10), tác động của Chúa Thánh Thần (Ga 14,16), còn Hội Thánh thì được Chúa Giêsu sai đi (Mt 28,19-Mc 16,15). Từ đây xuất hiện nhiệm vụ Hội Thánh là quảng bá đức tin mang ơn cứu độ đến cho muôn người theo gương Chúa Giêsu trong tinh thần đơn sơ, nghèo khó, vâng lời, phục vụ, hy sinh chịu chết như Chúa Giêsu để cuối cùng sống lại vinh hiển như Người.
2.Hoạt động truyền giáo phải được hoàn thành do lệnh cùa hàng Giám Mục mà vị đứng đầu là Thánh Phêrô với lời cầu nguyện và sự hiệp thông của toàn thể Hội Thánh. Nhiệm vụ này có thể gặp thuận lợi hoặc bị trắc trở, tùy hoàn cảnh nhưng mục đích chính yếu vẫn là Loan Báo Tin Mừng và thành lập các Hội Thánh. Bản văn Latin dùng chữ implantandi nghĩa là Trồng: munus Envangelium praedicandi et Ecclesiam ipsam implantandi. Chữ trồng gợi lên ý tưởng trồng cây đòi chăm sóc, tưới bón. Việc “Trồng” Hội Thánh cũng phải diễn ra như thế theo trình tự.
Tại sao ta phải làm như vậy? Thưa vì Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý (1Tm 2,4-6). Mặt khác, giữa hoạt động truyền giáo và bản tính con người có một mối dây liên hệ mật thiết: khi biểu lộ Chúa Kitô Hội Thánh bày tỏ cho loài người sự thật về cuộc đời và ơn gọi toàn vẹn của họ. Công Đồng cũng cho thấy sau khi lời rao giảng Tin Mừng đã vượt lên mọi thứ phân biệt về nòi giống hay chủng tộc thì nó biểu lộ cho thấy tính cách Cánh Chung của hoạt động truyền giáo, góp phần xây dựng trời mới đất mới vào thời chu kỳ lịch sử đã hoàn tất, và dân Thiên Chúa mỗi ngày được mở rộng như lời Ngôn Sứ Isaia: “Hãy nới rộng lều ngươi đang ở, căng các tấm bạt ra đừng hẹp lòng hẹp dạ. Nối dây thừng dài thêm, đóng cọc lều cho chắc” (Is.54,2)
CHƯƠNG II :
Chính Công việc Truyền Giáo (từ số 10-18)
1.Lời chứng và sư hiện diện của tình thương: muốn làm chứng cho Chúa, người Kitô hữu phải sống hòa hợp với người khác bằng tình thương, lòng trọng kính, coi mình là thành phần của cộng động mình sống, phải tham gia vào những hoạt dộng văn hóa, xã hội qua nếp sinh hoạt chung. Đức Kitô đã rảo qua các thành phố, làng mạc, chữa lành mọi bệnh nhân và công bố rằng triều đại Thiên Chúa đang đến (Mt 9.35-Cv 10,38). Hội Thánh cũng phải noi gương Chúa Giêsu, săn sóc người ốm đau, nghèo khó, nhận ra những khát vọng và vấn đề của họ. Hội Thánh dùng việc từ thiện để hướng người ta đến ơn cứu độ.
2.Nơi nào dược tự do rao giảng để công bố mầu nhiệm Chúa Kitô, Hội Thánh phải loan báo cho mọi người cách mạnh dạn và kiên trì về Thiên Chuá hằng sống, và Đấng Người sai đến là Đức Giêsu Kitô để cứu độ muôn dân. Hội Thánh không cho con cái mình dụ dỗ hay cưỡng ép ai nhập đạo, đồng thời cũng đòi quyền tự do hành đạo không để bị ngăn cản hay cấm cách. Đó là chính sách tự do tôn giáo mà Hội Thánh chủ trương.
3.Hội Thánh kêu gọi huấn luyện các cộng đoàn để Kitô giáo có thể hiện diện giữa đồng bào, quê hương để loan báo cúa Kitô bằng lời nói và gương sáng. Những cộng đòan đó cần phải do người bản địa điều khiển với những hàng giáo sĩ, tu sĩ dịa phương, đồng thời cố gắng tổ chức huấn luyện Thày Sáu vĩnh viễn và các giáo ly viên để hiệp thông truyền giáo.
CHƯƠNG III :
Các Hội Thánh địa phương (từ số 19-22)
1.Các Hội Thánh trẻ cần phải được hỗ trợ để trưởng thành về mọi mặt thần học, Kinh thánh để dần dần tự túc và giúp các giáo hội khác.
2.Hội Thánh địa phương cũng phải là đại diện của Giáo Hội tòan cầu và cũng đi rao gỉảng như mình được rao gỉảng trước đây. Các Giám mục của những giáo hội này phải biết rõ đàn chiên mình suy nghi ra sao, thay đổi thế nào chung quanh tình hình di dân, thất nghiệp, tệ nạn xã hội, gia tăng dân số…và các linh mục, tu sĩ phải hăng say loan báo Tin Mừng, hợp tác với các thừa sai nước ngoài để lập thành linh mục đoàn duy nhất dưới quyền Giám mục địa phương để thống nhất và hiệp thông truyền giáo.
3.Cần nhớ rằng bao lâu chưa có bậc giáo dân đích thực làm việc và hợp tác với hàng giáo phẩm, thì chưa có sự sống trọn vẹn, đầy đủ trong Hội Thánh (Ecclesia non vere fundata est, non plene vivit, nec perfectum Chrsti signum est inter homines nisi cum Hierrchia laicatus veri hominis extet et laborat). Tuy nhiên, vì là Công giáo, nên Giáo Hội sẽ đa dạng, phong phú, khác biệt nhưng luôn luôn duy nhất. Nền tảng của sự duy nhất trong các khác biệt đa dạng, chính là các suy tư thần học, dựa vào mạc khải, Kinh Thánh, truyền thống và giáo huấn của Hội Thánh. Khoa nói và suy nghĩ về Chúa, tức thần học chỉ có một, nhưng lại được diễn tả trong nhiều ngôn ngữ khác nhau, qua các thời đại khác nhau, ở những khung trời văn hóa cũng khác nhau nữa, nhưng vẫn diễn tả một Chúa, một đức tin.
CHƯƠNG IV :
Các nhà truyền giáo (Từ số 23-27)
1.Ơn gọi truyền giáo là một ân huệ Chúa ban cho một ai đó kèm theo những điều kiện đặc biệt như người ấy sẵn sàng ra đi, dấn thân vào miền xa lạ, sằn lòng đón nhận rủi ro, nguy hiểm, thiếu thốn. họ có thể là linh mục, tu sĩ hay giáo dân. Họ có một linh đạo phù hợp với nếp sống ấy, đó là noi gương Chúa Giêsu “mặc lấy thân nô lệ” (Pl 2,7) và “trở nên tất cả cho mọi người” (1Cr 9,22). Lời Thánh Phaolô diễn tả rất sinh động linh đạo này: “trong mọi sự, chúng tôi luôn chứng tỏ mình là những thừa tác viên của Thiên Chúa: gian nan, khốn cuỗn, lo âu, đòn vọt, tù tội, loạn ly, nhọc nhằn, vất vả, mất ăn, mất ngủ, chúng tôi đều kiên trì chịu đựng” (2Cr 6,4-5).
2.Huấn luyện đạo đức và học thức cũng như tinh thần tông đồ phải là quan tâm hàng đầu đối với các nhà truyền giáo tương lai. Những học viện đào tạo hay các tổ chức làm việc trong các xứ truyền giáo phải tập hợp nhiều nhân lực, và nên tìm sự hiệp thông, cộng tác và phát triển những sáng kiến cho công cuộc huấn luyện nói trên.
CHƯƠNG V:
Tổ chức hoạt động truyền giáo (từ số 28-34)
Kẻ gieo cũng như người trồng, người tưới, người chăm sóc, tuy làm những công việc khác nhau nhưng cùng hợp tác hướng về mục đích chung. Công cuộc truyền giáo cũng phải mang định hướng và hành động có trật tự thì mới đem lại hiệu quả.
1. Tổ chức chung: nhiệm vụ tổ chức chung là công việc hàng đầu của Giám Mục Đoàn, của Thượng Hội Đồng Giám Mục. Có một Bộ riêng để lo việc truyền giáo, Bộ này tổ chức đôn đốc cung cấp tài liệu, huớng dẫn và chỉ huy nhân sự, tài trợ vật chất cho các xứ truyền giáo.
2. Trong từng địa phương, muốn cho việc truyền giáo có kết quả tốt đẹp, các nhà truyền giáo phải một lòng một ý với nhau (Cv 4,32). Nhiệm vụ của Giám Mục là chỉ huy, phối hợp, phân công các nhân sự truyền giáo. Các Ngài cũng có Hội Đồng Giám Mục, để định hướng công việc mục vụ - truyền giáo. Sự phối hợp giữa các miền của những quốc gia cũng phải được phối hợp bởi các Hội Đồng Giám Mục để khỏi phí phạm tài sản và nhân lực, như mở chung các chủng viện, các trường đào tạo, trung tâm mục vụ, huấn giáo, phụng vụ, thánh nhạc…
3. Sự hợp tác giữa các dòng tu nam, nữ cũng cần phải được quan tâm thực hiện, bởi vì trong một giáo phận cũng có nhiều ơn gọi của các dòng tu. Họ có thể mở chung những học viện, hoặc thực hiện chung một phong trào xã hội. Một sự hợp tác khác là phối hợp hoạt động của các viện hay sở, chẳng hạn ký những hợp đồng với Giám Mục Địa phận để hoạt động trong lĩnh vực chuyên môn. Cũng đứng quên phối hợp với những “viện khoa học”, hay những học hội, dòng tu chuyên việc đối thoại với các nền văn hóa hay tôn giáo khác nhau, hoặc khai thác những bộ môn hỗ trợ việc truyền giáo như: chủng tộc học, tôn giáo học, xã hội hay ngôn ngữ học…
CHƯƠNG VI:
Hiệp thông công tác (từ số 35-41)
Trong chương sáu Công Đồng nhấn mạnh đến bổn phận truyền giáo của toàn dân Thiên Chúa. Mỗi người phải sống sâu sắc đời sống Kitô hữu của mình, trước nhất là các Giám mục phải chiếu tỏa tinh thần truyền giáo của mình, rồi đến các linh mục. Các vị có ba nhiệm vụ liên quan sứ mệnh Hội Thánh: một là các vị phải hiểu biết rõ là mình được hiến thánh để lo việc truyền giáo; hai là hiệp thông với Chúa Kitô để đưa những người khác đến với Người; ba là kết hợp các mối bận tâm của mình để làm sao cho Tin Mừng được đến với những người còn ngoài Giáo Hội. Tiếp đến là bổn phận truyền giáo trong các dòng tu, tu hội, tu đoàn. Công lao của những thành viên tu trì này được Công Đồng ghi nhận và đề cao, dù họ sống đời chiệm niệm hay hoạt động. Sau cùng Công Đồng đề cao hoạt động truyền giáo của giáo dân. Đó là lực lượng mạnh mẽ nhất của Hội Thánh để thi hành sứ vụ.
II. Tóm tắt Gíáo Huấn Apostolicam Actuositatem về Người Tông Đồ Giáo Dân.
CHƯƠNG I (từ số 2-4)
1.Ơn gọi làm Tông Đồ Giáo Dân.
Công Đồng cho thấy người giáo dân được tham dự với Chúa Kitô vào việc cứu rỗi mọi người, do đó họ tham dự thực sự vào quyền tư tế, ngôn sứ và vương đế của Người, và phải thi hành nhiệm vụ tông đồ bằng:
-Loan Báo Tin Mừng (ngôn sứ)
-Thánh hóa nhân loại (tư tế)
-Sống Tin Mừng để hoàn hảo hóa các việc trần thế (vương đế)
2.Người Tông Đồ Giáo Dân phải tuân theo mẫu gương hoàn hảo và đời sống tu đức của Đức Mẹ Maria.
CHƯƠNG II: Mục tiêu phải đạt tới (từ số 5-8)
1. Mục đích duy nhất của công cuộc Tông Đồ là cứu rỗi nhân loại, nhưng cũng bao gồm cả việc canh tân tất cả trật tự trần thế trong Chúa Kitô. Trong cả hai lãnh vực, người giáo dân vừa là tín hữu, vừa là công dân cần phải được hướng dẫn liên tục bằng lương tâm Kitô giáo.
2. Sứ mạng rao giảng Phúc Âm và sứ mạng cải tạo trần thế đòi hỏi hàng giáo phẩm có bổn phận trình bày rõ ràng những nguyên tắc về mục đích của công cuộc Loan Báo Tin Mừng để xây dựng và cải tạo thực tại trần gian. Người giáo dân có bổn phận đảm nhận việc canh tân trật tự trần thế ấy như nhiệm vụ của riêng mình, dưới ánh sáng Tin Mừng và sự hướng dẫn của Hội Thánh.
3. Tất cả những mục tiêu trên đây phải bắt nguồn và lấy sức mạnh từ đức ái. Người Kitô hữu phải tôn trọng tự do và phẩm giá của con người như hình ảnh của Thiên Chúa. Không dùng việc bác ái để lên vai “cha chú” với người nghèo khổ. Bởi vì thế giới ngày nay đã thành như một gia đình, cho nên việc từ thiện, bác ái trở thành khẩn thiết và phổ quát.
CHƯƠNG III: Các môi trường hoạt động Tộng Đồ (từ số 9-14)
1. Hoạt động Tông Đồ Giáo Dân nằm trong hai lãnh vực: trong Giáo Hội và giữa đời.
2. Trong hai lãnh vực này sắc lệnh đề cập mấy môi trường chính:
- Công Đồng Giáo Hội như: giáo xứ, giáo hạt, giáo phận…
- Gia đình: nguồn gốc và nền tảng xã hội.
- Giới trẻ: là sức mạnh tông đồ rất quan trọng cho công cuộc truyền giáo.
- Môi trường xã hội: do sự liên đới giữa các dân tộc trên bình diện quốc tế, và do công ích trên bình diện quốc gia tạo nên.
- Giới phụ nữ: ngày càng tích cực góp phần vào đời sống xã hội.
CHƯƠNG IV: Các phương thức hoạt động Tông Đồ (từ số 15-22)
1. Hình thức Tông Đồ Giáo Dân: có hai hình thức: cá nhân và tập thể. Bằng đời sống cá nhân, người Tông đồ trở nên chứng tá cuộc sống. Bằng lời nói, người Tông Đồ sẽ rao giảng Đức Kitô. Bằng tư cách, người tông đồ sẽ trung thành tuyên xưng giáo lý Chúa Kitô. Ngoài ra, người tông đồ trong tư cách công dân có thể dấn thân kiến tạo và điều hành trật tự trần gian (như gia đình, nghề nghiệp, văn hóa, xã hội…). Người tông đồ cũng thực thi bác ái và cầu nguyện, hy sinh…Đấy là những việc cần thiết và cấp bách của Tông Đồ Giáo Dân, mà đôi khi gặp hoàn cảnh khó khăn như bị giới hạn tự do, xa quê, thiếu vắng linh mục…, người tông đồ vẫn kiên trì sống đạo và truyền đạo.
2. Hoạt động tông đồ tập thể đã được Chúa Kitô khuyến khích: “Ở đâu có hai, ba người nhân danh Thầy mà hội họp lại, Thầy sẽ ỡ giữa họ” (Mt 18,20). Hoạt động tông đồ tập thể rất quan trọng vì hoạt động chung được phối hợp huấn luyện và nâng đỡ, nên kết quả sẽ phong phú hơn hoạt động riêng lẻ.
3. Những hình thức tông đồ tập thể :
Hình thức cộng đồng Giáo Hội:
- Theo gia đình (liên gia Công giáo, xóm đạo…)
- Theo cộng đoàn giáo xứ (như tổ chức hội đồng giáo xứ, hội đoàn…)
- Cộng đồng giáo phận (như hội đồng giáo dân giáo phận,…)
Theo hình thức hội đoàn:
- Nhằm mục đích Loan Báo Tin Mừng (như Legio Mariae, gia đình phạt tạ…)
- Nhằm Kitô hóa trật tự trần thế (như Pax Romana, Cursillos…)
- Nhằm mục đích từ thiện bác ái ( như hội bác ái Vinh Sơn, nữ đoàn bác ái…)
Cộng đoàn luôn cổ võ giáo dân thành lập hoặc gia nhập các hội đoàn, và khuyến cáo họ phải duy trì mối liên lạc với giáo quyền, đứng du nhập bừa bãi những hình thức hội đoàn của những nước khác. Đồng thời phải thích nghi với hoàn cảnh của từng giáo phận để các hội đoàn phối hợp thành những tổ chức mang danh hiệu cao quý là Công Giáo tiến hành, mà trong những phong trào nào có nhiều giáo dân đã thoát ly khỏi gia đình để ra đi Loan Báo Tin Mừng những nơi mà bề trên sai đi.
CHƯƠNG V: Hệ thống phải theo (từ số 23-27)
Sau khi nhắc đến mối liên kết cũng như bổn phận của hàng giáo phẩm và giáo dân, Công Đồng đưa ra một mô hình tổ chức Tông Đồ Giáo Dân.
CHƯƠNG VI: Huấn luyện làm tông đồ (từ số 28-33)
1. Huấn luyện tông đồ là việc làm rất cần thiết. có thể huấn luyện tổng quát chung cho mọi tín hữu về đời sống thiêng liêng và về giáo lý, và có thể huấn luyện chuyên biệt để thích nghi với những hoạt động và hoàn cảnh khác nhau.
2. Những nguyên tắc cần theo
- Huấn luyện người giáo dân làm tông đồ phải căn cứ vào cuộc sống giữa đời và tình trạng thiêng liệng của họ.
- Huấn luyện toàn diện con người (tâm hồn, trí tuệ, tình cảm…) cho hợp với nhân cách xã hội và văn hóa của riêng họ.
- Huấn luyện đời sống đức tin nằm căn bản trong hoạt động tông đô.
Thực tập làm tông đồ: phái huấn luyện liên tục, vì con người luôn đổi mới.
3. Huấn luyện viên và người được huấn luyện
- Các nhà giáo dục như cha mẹ, thầy dạy, linh mục, huynh trưởng…
- Các trẻ em từ tuổi thơ, cũng cần dược huấn luyện làm tông đồ, nhất là các thanh thiếu niên.
- Những người trưởng thành cần phải được khuyến khích dấn thân vào xã hội.
- Đối với mọi người, Công Đồng khuyên cầu nguyện, đóng góp và dấn thân cho công tác Truyền Giáo.
4. Việc huấn luyện phải tương ứng với mục tiêu và dùng những phương thế huấn luyện hiện đại như: tổ chức khóa học, hội thảo, tĩnh tâm…