CHỦ NHẬT 3 TN
Chương trình hành động của Chúa Giê su
Đấng mà chúng ta chờ đợi đã đến, nhưng chúng ta có thật sự nhận ra Ngài không? Nếu chúng ta thực sự khám phá ra Ngài, chúng ta sẽ họp thành một dân tộc duy nhất đi theo Ngài. Sống không còn ý nghĩa gì cả nếu thiếu tình thương và gặp gỡ người khác.
Sách Tiên tri Isai 8, 23b --- 9, 3
Vào năm 721 trước Công Nguyện, cư dân trong Vương quốc Israen thuộc các chi tộc Dabulon và Nép ta li đã bị người As si ri lưu đày sang các nước trong vịnh Ba tư. Tại Giê ru sa lem, Isaia loan báo họ sẽ được giải thoát trong tương lai. Lưu đày sẽ chấm dứt, và sự sống sẽ hồi sinh. Thiên Chúa sẽ can thiệp bằng cách chiếu giải ánh sáng của Người trên họ.
Thánh Vịnh 26
Người tín hữu dâng lên Thiên Chúa lòng tin tưởng của họ trước khi lâm chiến. Chúa là ánh sáng và là ơn cứu độ. Ước gì Người luôn mang đến sức mạnh và an ninh. Và nhất là Ngài tỏ hiện ở cuối con đường trên đất của kẻ sống!
Thư thứ nhất Côrintô 1, 10-13.17
Người tín hữu Côrintô đã trở về với Đức Ki tô, nhưng có một số ít tạo thành những phe phái đóng kín, tự hào mình thuộc về một tông đồ uy tín nào đó. Đó là một gương xấu mà thánh Phao lô cực lực lên án. Chỉ có một Đức Ki tô dùng thánh giá để cứu thoát chúng ta khỏi những cái nhìn phàm tục ấy
Tin mừng: Mt 4,12-23
NGỮ CẢNH
Sau khi kết thúc trình thuật các cơn thử thách của Chúa Giê su trong sa mạc (4,1-11), tin mừng Mt bắt đầu một đơn vị văn chương mới gồm ba trình thuật những bước khởi đầu sứ vụ: rao giảng ở Ga li lê (4,12-17); kêu gọi các môn đệ đầu tiên (4,18-22); một tóm lược về hoạt động của Ngài ở Galilê (4,23-25).
Có thể đọc đoạn tin mừng theo bố cục sau đây:
1. Nhập đề: thời gian, nơi chốn (4,12-16)
2. Nội dung lời rao giảng (4,17)
2. Chúa Giê su gọi các môn đồ đầu tiên (4,18-22)
3. Các hoạt động khác của Chúa Giê su (4,23)
TÌM HIỂU
Đến ở Capharnaum: động từ nầy chỉ có Mt dùng để mô tả Ca phar na um như thành phố quê hương của Chúa Giê su (9,1).
Đất Dơvulun và đất Napta li: đây là những phần đất các bộ tộc xưa kia của Israel định cư, tương ứng với phần lớn địa bàn Ga li lê, vào thời tiên tri Isaia, bị người Assyri chiếm đóng. Tiên tri loan báo rằng chúng sẽ được giải thoát khỏi bóng tối nhờ một luồng sáng vĩ đại, có lẽ là biểu tượng của một đứa trẻ sẽ lãnh nhận quyền tối thượng trên vai: “Một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta, Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố vấn kì diệu, Thần Linh dũng mãnh, người cha muôn thở, thủ lãnh hòa bình” (Is 9,5).
Galilê: những lời trích dẫn CƯ mà Mt nhắc lại để nói về Ga li lê, đối với ông là một luận chứng tín lí rất quan trọng.
Galilê là một tỉnh nằm gần lãnh thổ dân ngoại, dân cư phức hợp nhiều giống khác nhau, do đó gây nên mối nghi ngờ đối với lãnh đạo tôn giáo ở Giê ru sa lem. Galilê “phần đất của chư dân” (Is 8,23), lại có thể là nơi sinh ra của đấng Messia mà các tiên tri loan báo sao? Trong Ga cũng có âm vang vấn đề nầy (7,41.52).
Thế nhưng đó chính là nơi Chúa Giê su lớn lên (Mt 2,23) và sau khi lãnh nhận phép rửa từ tay Gioan, Ngài đã chuẩn bị sứ vụ của mình (4,12); nơi đó, sau khi phục sinh, Ngài đã hẹn gặp các môn đệ (28,10). Vì thế, chính từ nơi đó phải bừng lên một nguồn sáng giữa đêm đen, theo lời của tiên tri Isaia.
Qua cách trình bày trên, Mt đã muốn độc giả hiểu rằng Chúa Giê su, đấng Messia, đã phải trốn khỏi Giêrusalem, nơi của sự chết và khước từ, để lui về Galilê, nơi mà không ai mong đợi Ngài. Đấng Messia là một người Ga li lê. Ngài đã ra đi mạc khải mình ở nơi giáp ranh thế giới Do thái và dân ngoại. Thậm chí đối với Mt, nếu Chúa Giê su ưu tiên hướng tới các chiên lạc của nhà Israel (15,24), thì sự kiện Ngài đã sống và sinh hoạt trong vùng “Galilê các dân ngoại”, loan báo rằng ơn cứu độ đã được ban cho tất cả mọi người.
Từ lúc đó, Chúa Giê su bắt đầu: sau phần được coi là nhập đề, dường như kiểu nói nầy loan báo phần thứ nhất của sách tin mừng: phần sau chúng ta sẽ thấy lại kiểu nói nầy ở câu 16,21 để loan báo phần thứ hai.
Phần tóm lược lời rao giảng của Chúa Giê su giống y như những gì mà Gioan Tẩy giả loan báo trong câu 3,2. Điều đó nhấn mạnh đến tính cách liên tục giữa Gioan và Chúa Giê su. Mc thì ngược lại, dành kiểu nói nầy cho Chúa Giê su và thêm: “Hãy tin vào Tin mừng”. Có lẽ đối với Mt, cả hai từ căn bản nầy về đức tin và Tin mừng là cách diễn tả sự mới mẻ của Chúa Giê su.
Những kẻ lưới người: những người nầy sẽ trở thành những kẻ chài lưới bắt người (hình ảnh rất mạnh mẽ gợi lên những cuộc tranh đấu vào lúc cuối thời gian). Nhưng trước tiên họ được kêu gọi phải tin, nghĩa là từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa Giê su.
Theo Người: trình thuật có tính cách thần học, dù mang nét tự phát và cụ thể. Như việc ông Si mông là người đầu tiên được kêu gọi là một khẳng định tín lí hơn là một hồi kí lịch sử (trình thuật của Ga 1,35-42 có vẻ thực hơn!). Khía cạnh bất ngờ của lời mời gọi, không chuẩn bị gì cả, lời đáp trả tức thời và hoàn toàn không phải là những dữ kiện hợp với thực tế. Tất cả khởi đầu bằng lời mời gọi mà Chúa Giê su đưa ra; lời đáp trả phải tức thời và có tính quyết định.
Trong các hội đường (của họ): Mt thường viết như thế (“của họ”) có lẽ phản ảnh sự tách biệt giữa cộng đoàn của Ngài và Do thái giáo chính thức.
Rao giảng Tin Mừng: x. Mc 1,1. Ngay diễn từ đầu tiên trong Mc 1,14-15 thì đã đặt ra vấn đề tin và tin mừng. Còn Mt thì mới đưa Tin mừng vào đây. Mối liên kết giữa Tin Mừng và Nước Trời nhắc lại rằng kiểu nói “tin mừng” có ý nghĩa là một lời loan báo đầy phấn khởi về một biến cố lên ngôi của một quân vương, ở đây là Đấng Messia-Vua.
SỨ ĐIỆP
Chủ nhật tuần trước đã đưa chúng ta từ thời gian các Lễ trọng mùa Giáng sinh bước sang mùa thường niên. Điều đó muốn nói rằng chúng ta bắt đầu đi từ đứa bé mới sinh ở Bết lê hem đến người rao giảng ở Ga li lê. Câu chuyện chủ nhật nầy cần phải đặt sau phép rửa của Chúa Giê su và cuộc thử thách mà Ngài trải qua trong sa mạc. Và như thế chúng ta bước sang một giai đọan mới trong cuộc đời Ngài.
Trong trình thuật nầy, thánh Mát thêu xác định một điểm mà nếu không để ý, chúng ta có thể hiểu sai: “Khi Chúa Giê su nhận được tin Gioan bị bắt, Ngài lui về miền Ga li lê”. Chúng ta không được coi đây như là việc Chúa Giê su chạy trốn bạo lực mà có thể Ngài là nạn nhân. Phần tiếp theo giải thích cho chúng ta hiểu tại sao Ngài chọn đến miền ấy. Ở đây, chúng ta đang đứng trước khúc quanh của lịch sử.
Thế thì, tại sao lại là Ga li lê?
Trước tiên, cần phải nhớ rằng Mát thêu nói với những người Ki tô hữu Do thái trở lại. Ngài muốn chứng tỏ cho họ thấy rằng đấng mà họ đặt tin tưởng đúng là Đức Ki tô. Nhưng trên tất cả, ông muốn cho họ hiểu rằng Chúa Giê su không chỉ đến cho họ mà thôi. Ngài còn đến với những người đang bị chìm ngập trong bóng tối ngọai giáo. Sứ điệp của Ngài là một tin mừng không chỉ dành cho các tín hữu còn trung thành, nhưng cũng quan tâm đến những người còn ở xa. Sứ mạng cứu độ của Ngài có tính phổ quát, bao quát hết mọi người thuộc mọi dân nước và mọi thời đại.
Chính trong tinh thần đó mà Ngài đến với các đám đông gồm người Do thái pha trộn với người ngoại. Galilê chỉ là nơi qua đường, là cửa ngõ mở ra thế giới. Chính từ vùng đất bị khinh dể đó mà ơn cứu độ của Thiên Chúa giải sáng trên mọi dân tộc. Ánh sáng ấy chỉ mong soi sáng mọi người thuộc mọi dòng giống, mọi tôn giáo với những cuộc tranh giành, chiến đấu, ánh sáng và bóng tối. Tin mừng của Đức Ki tô muốn đến với họ trong chính cuộc đời của họ, việc làm của họ, và tất cả những gì quan trọng đối với họ.
Và để giúp cho mọi người nghe sứ điệp ấy, và để Ánh sáng của Ngài được tỏa chiếu khắp nơi, Đức Ki tô cần có sự giúp đỡ. Chính từ môi trường thấp hèn đó mà Ngài đã chọn các tông đồ của mình, trên bờ hồ chứ không trên những bậc thềm đền thờ, giữa những người đánh cả ở biển hồ chứ không từ những vị tư tế. Đó là những người ít học, và ít được chuẩn bị nhất sẽ trở thành những người đầu tiên tiếp nhận Ánh sáng và đi theo đấng tự giới thiệu như là Đường, Sự thật và là Sự sống.
Thánh Mát thêu mô tả sự đáp ứng của họ như sau: “Lập tức, bỏ lưới, họ đi theo Ngài”. Lập tức. Hành động lập tức bỏ mọi sự để đi theo Chúa Giê su không phát xuất từ ý chí của họ, nhưng từ sức mạnh thu hút của lời Chúa. Hình như họ bị lôi kéo bởi một sức mạnh không thể cưỡng lại được. Những ai cho rằng mình là người tín hữu trung thành coi chừng có thể làm cho người khác thất vọng. Ở đây, những người đáp trả hăng hái nhất trước lời mời gọi của Chúa Giê su là những người tội lỗi sống trong một vùng đất bị mọi người khinh dễ. Những con người bất ngờ cảm nhận được lời mời gọi như một ánh sáng mà những người Do thái trung thành đã không thể xác định được. Và “lập tức” họ đi theo Ngài.
Cuộc chinh phục phát xuất từ một vùng đất bị những người thanh sạch nguyền rủa. Thế giới được canh tân đã bắt đầu từ một vùng đất nhơ uế, nhưng rộng lòng tiếp nhận Thần khí, tiếp nhận Thiên Chúa, luôn thích thực hiện những điều ngoài dự đoán. Với những người hoàn toàn dốt nát, Chúa Giê su đã có những chương trình to lớn. Nhưng trước tiên, Ngài mời gọi họ đi theo Ngài: “Thầy sẽ làm cho anh em trở thành những kẻ chài lưới người”. Quăng lưới để bắt cá, có thể làm cho cá chết khi kéo nó ra khỏi môi trường sống tự nhiên. Ngược lại, kéo con người ra khỏi bóng tối là giúp họ khỏi chết đuối, là cứu thoát họ.
Bài tin mừng hôm nay là lời mời gọi gửi đến tất cả chúng ta. Ai trong chúng ta cũng đều nhận thấy con số những người ki tô hữu giảm sút. Điều đó không có gì phải than vãn hay lo lắng. Chính Đức Ki tô tiếp tục mời gọi những kẻ chày lưới người, không chỉ các linh mục, mà còn các tín hữu dấn thân. Công đồng Vaticanô II nhiều lần nhắc nhở và nhấn mạnh sự kiện là với tư cách người chịu phép rửa, tất cả chúng ta được gọi truyền giáo. Một ki tô hữu chịu phép rửa mà không rao giảng tin mừng là một người ki tô hữu không xứng đáng với danh hiệu mình lãnh nhận, vì không làm trọn sứ mạng Thiên Chúa giao cho.
Tin mừng mà chúng ta phải loan báo không có biên giới. Chúng ta phải loan báo cho mọi người. “Ngã tư các dân ngoại” mà chúng ta phải đi đến không phải là một xứ sở xa xôi. Chắc chắn đó là nơi mà chúng ta đang sống, gần tất cả những người đang chờ đợi một ánh sáng, một niềm hi vọng. Trong bóng đêm của đau khổ, chúng ta có sứ mạng mang đến ánh sáng của tin mừng.
Tuy nhiên có một sai lầm cần phải tránh: người loan báo tin mừng không được tự coi là đã hiểu biết về Chúa hơn những người lãnh nhận. Động năng của việc truyền giáo đích thực thể hiện bởi việc không ngừng quay trở về với Thiên Chúa và tin mừng Chúa Giê su Ki tô.
Điều trước hết phải quan tâm là dành ưu tiên cho chương trình của Chúa Giê su, cho những ý tưởng của Ngài và sứ điệp của Ngài. Điều đó giả thiết rằng chúng ta bỏ lại sau lưng ý tưởng cá nhân của chúng ta, hay hoạt động nào đó mà chúng có nguy cơ ưu tiên hơn. Chúa Giê su nói với chúng ta: “Hãy sám hối, hãy thay đổi tâm hồn; Nước Trời đã gần bên”. Chương trình vĩ đại của Thiên Chúa là đưa mọi người đến với Người.
Trong tuần lễ cầu cho sự hiệp nhất các tín hữu nầy, chúng ta hãy cùng nhau hướng về Chúa hiệp thông với anh em công giáo, tin lành, chính thống và các phái khác. Tất cả chúng ta tuyên xưng một Đức Ki tô và muốn làm chứng cho Ngài. Nhưng sự chia rẽ của chúng ta là một phản chứng. Người Ki tô hữu chia rẽ với nhau không thể thực sự làm chứng cho Tin mừng. Bấy giờ, như các tông đồ biển hồ Galilê, chúng ta hãy đơn giản đi theo Đức Ki tô. Chính chung quanh Ngài sự hiệp nhất của chúng ta sẽ được thiết lập. Ngài là Đường, là Sự Thật, và là Sự sống. Chỉ mình Ngài mới có thể dẫn chúng ta đến với Cha