CHỦ NHẬT 30 TN A
YÊU THƯƠNG LÀ GIỚI RĂN THỨ NHẤT
Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân không thể tách rời nhau. Mạc khải Ki tô giáo khẳng định rằng tương quan đích thực với Thiên Chúa Cha, đấng giải thoát chúng ta khỏi mọi tha hóa, giúp chúng ta hoàn toàn có thể mở ra với những người anh em với chúng ta. Chính vì thế, hai giới luật đứng đầu của Luật Mô sê và là nền tảng của Luật Ki tô giáo, vẫn không thể tách rời nhau.
Sách Xuất hành 22, 20-26
Luật Mô sê có mục đích diễn tả những đòi hỏi nội tâm của con người được giải thoát khỏi mọi ách nô lệ, khỏi tất cả những gì giam hãm nó trong chính mình. Bộ luật tôn giáo đó diễn tả trên bình diện con người cách hành xử của chính Thiên Chúa.
Thánh Vịnh 17
Đấng Thiên Chúa hùng mạnh đã giải thoát Vua của Ngài khỏi mọi nguy hiểm đe dọa. Vì thế, Vua muốn tạ ơn Ngài bằng cách làm cho sự công chính ngự trị trên toàn thế giới. Nhờ đó mà mọi dân tộc sẽ có thể nhận ra và thờ phượng Chúa.
Thư 1 Têxalônica 1, 5c-10
Qua thái độ đối với các tín hữu, Thánh Phao lô đã cố gắng phản ảnh Tình yêu của Thiên Chúa. Ngài ao ước dân thành Têxalônica bắt chước Ngài mà trở nên gương mẫu đức tin và tình yêu cho tất cả những người sống chung quanh. Được cứu thoát khỏi những bụt thần tha hóa, và quay về với Thiên Chúa đích thật, họ sẽ làm việc cho Nước Chúa trị đến, nơi họ sẽ được ban cho sự sống đời đời.
Tin mừng: Mt 22:34-40
NGỮ CẢNH
Đoạn Tin mừng nầy nằm trong ngữ cảnh những cuộc xung đột giữa Chúa Giê su và các địch thủ của Ngài. Sau những vấn nạn về nộp thuế cho Hoàng đế (cc.15-22), vấn đề kẻ chết sống lại (cc 23-33), là những câu hỏi về giới răn lớn nhất (cc 34-40), và sau cùng là vấn đề Con Vua Đa vít (cc 41-46). Tất cả đều là những đề tài được tranh luận nhiều nhất trong thời Chúa Giê su.
Có thể đọc đoạn tin mừng theo bố cục sau đây:
1. Nhập đề: hoàn cảnh (34)
2. Câu hỏi: điều răn nào trọng nhất (35-36)
3. Câu trả lời của Chúa Giê su (37-40)
TÌM HIỂU
Những người Pharisêu họp nhau lại: Kiểu nói được dùng ở đây lấy lại nguyên văn kiểu nói dùng trong Tv 2,2: “Vua Chúa trần gian dấy binh khởi nghĩa, vương hầu liên minh một khối (= “tụ họp lại một chỗ”) chống lại Đức Gia vê và Đức Kitô của Người. (x. Mt 26,3). Qua đó, Mt ngụ ý rằng những cuộc tranh luận khởi động cuộc đối đầu quyết liệt sẽ đưa Chúa Giê su đến thập giá.
Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều thuật lại biến cố nầy nhưng mỗi tác giả theo hướng riêng của mình: trong Mt, thầy thông luật hỏi Chúa Giê su với ý xấu (x. 19,3;22,15.18). Trái lại trong Mc, viên kí lục có cảm tình với Chúa Giê su, và Ngài khen anh ta vì trả lời đúng. Cũng thế vị tiến sĩ luật trong Lc.
Để thử Người: Mt cũng dùng động từ nầy ở câu 22,18 về vấn đề nộp thuế cho hoàng đế. Rõ ràng trong cả đoạn dài, đối thủ luôn luôn dùng cạm bẫy để đối đầu với Chúa Giê su.
Ngươi phải yêu mến Đức Chúa: Đây không phải là việc đơn giản hóa lề luật bằng cách loại bỏ những điều phụ thuộc, mà là nhắc lại ý nghĩa của các giới răn, và cho thấy là chúng bắt nguồn từ ý định tối cao của Thiên Chúa. Tình yêu phải toàn diện (hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn), nghĩa là phải động viên toàn bộ con người để yêu thương.
Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất: Từ “và” ở đây có chức năng giải thích: giới răn nầy đứng đầu tất cả vì nó quan trọng nhất xét về nội dung. Từ “thứ nhất” ở đây có hàm ý đứng đầu vì nó mang lại ý nghĩa đích thực cho tất cả các giới răn khác. “Còn điều răn thứ hai”: không có ý nói thuộc vào hạng thứ yếu, nhưng hàm ý: cũng quan trọng như giới răn thứ nhất. Giới răn thứ hai không thể so sánh, tương tự hay đồng nhất với giới răn thứ nhất, song là ngang hàng xét về tầm quan trọng: yêu mến tha nhân cũng khẩn thiết như yêu mến Thiên Chúa.
Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy: Chúa Giê su luôn đứng trong truyền thống Lề luật của Do thái giáo. Cả hai đều đã hiện diện trong Lề luật, tầm quan trọng của chúng dựa trên sự kiện là chúng tóm kết tất cả toàn bộ sách Thánh, Ngài chỉ tái giải thích bằng cách cho thấy ý nghĩa thâm thuý của chúng mà thôi (x.Rm 13,9).
Theo truyền thống Hội đường, Lề luật gồm 613 giới luật tích cực, trong đó có 365 điều cấm và 248 điều buộc. Từ lâu người ta đã cố gắng tổng hợp chúng lại và đề ra những đường nét chính yếu, nhưng không thành công vì không vượt qua được tính cách tỉ mỉ chi li quá độ của nền đạo đức do thái giáo. Do đó tính cách độc đáo của trình thuật trên không nằm trong quan niệm tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân mà CƯ và Do thái giáo đều biết rất rõ, nhưng trong việc chúng được đưa lại gần nhau và chổ đứng tối thượng mà Chúa Giê su gán cho bảng “lược tóm” Lề Luật.
SỨ ĐIỆP
Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân
Người Pha ri sêu một lần nữa bàn tính gài bẫy Chúa Giê su. Một người trong bọn đặt cho Ngài câu hỏi: “Thưa Thầy, trong lề luật đâu là giới răn thứ nhất?”. Đối với họ, ưu tiên số một là tuân giữ 613 điều luật Mô sê. Họ chỉ thấy điều được phép và điều cấm đoán, nên khinh khi những ai không tuân giữ hoàn hảo.
Chúa Giê su không nhìn mọi sự như thế. Đối với Ngài, điều quan trọng nhất là tình yêu tuyệt đối với Thiên Chúa Cha và ước muốn cứu độ mọi người. Dĩ nhiên Ngài cũng để ý đến những điều được phép và những điều cấm làm; nhưng Đức Ki tô muốn giúp chúng ta đi xa hơn. Ngài hướng chúng ta đến điều cốt yếu; đó là giới răn thứ nhất: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi”. Khi đã hiểu được điều đó, sẽ không còn giới hạn vào những gì cho phép hay cấm đoán, nhưng người ta sẽ làm hết sức mình. Tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa là một ưu tiên tuyệt đối soi sáng toàn thể cuộc sống chúng ta.
Rồi đến giới răn thứ hai cũng giống giới răn thứ nhất: “Ngươi hãy yêu mến đòng loại như chính mình ngươi”. Thật vậy, nếu chúng ta yêu mến Thiên Chúa, chúng ta cũng sẽ khám phá tình yêu mà Người dành cho từng người trong anh em chúng ta. Ngài là một người Cha yêu thương tất cả con cái mình. Và khi những đứa con nầy làm điều xấu, tình yêu của người Cha bị tổn thương nơi Ngài. Chính vì lẽ đó mà Ngài đòi chúng ta phải yêu thương nhau như anh em hoặc đúng hơn như Ngài đã yêu thương chúng ta. Người ta không thể nói rằng mình yêu Thiên Chúa mà còn giận dữ với một ai đó. Vì thế phải gấp rút có những cử chỉ giải hòa và đón nhận những cử chỉ của người khác. Ngài mai, có thể là quá trễ.
Tình yêu của chúng ta đối với người khác trước tiên phải tỏ ra trong lời nói và những gì chúng ta viết. Ai trong chúng ta cũng đều biết rằng lời nói phát xuất từ tâm hồn. Chính từ đó sinh ra điều tốt lành, nhưng cả những ý tưởng xấu xa, những phán đoán vội vã, những kết án không hồi lại được. Chúng ta đánh giá một ai đó không xứng đáng cho chúng ta tin tưởng. Phải chi chúng ta có thói quen suy nghĩ về điều tốt của những người chung quanh chúng ta! Có thể mắc nguy cơ bị sai lầm, nhưng sẽ mang lại nhiều tích cực trong cách sống. Bài tin mừng hôm nay muốn giúp đỡ chúng ta thay đổi cách nhìn chúng ta về người khác. Chúa Giê su hiện diện trong mỗi người, đặc biệt nơi những người bé nhỏ, bệnh tật, bị xã hội loại trừ. Họ chiếm chỗ nhất trong trái tim Ngài và chúng ta chỉ có thể yêu thương họ như Ngài.
Bước đầu tiên trong việc yêu thương người lân cận là nói và nghĩ tốt về họ; bước nầy phải được thể hiện bằng những hành vi cụ thể. Yêu thương theo cách của Đức Ki tô, đó là chia sẻ, là đón nhận, là trao ban. Chúng ta sẽ được soi sáng nhiều về điều đó khi chiêm ngắm thập giá của Đức Ki tô. Ngài đã trao ban cho đến tận cùng, đến hiến trọn thân mình. Chúa Thánh Thần hiện diện để gợi hứng cho chúng ta biết sống tình yêu huynh đệ đó như thế nào: điều ấy có thể diễn tả bằng những hành vi rất đơn giản, một nụ cười huynh đệ, khiêm nhường lắng nghe, chấp nhận quan điểm của người khác, một cố gắng để trở nên dễ thương với người khó thương. Và chắc chắn, chúng ta không quên lời cầu nguyện vì nó tạo nên một hệ thống liên đới kì diệu. Cầu nguyện cho người khác, đó cũng là một cách yêu thương.
Một ngày kia, Chúa Giê su dạy; “Hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là đấng trọn lành”. Chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Tất cả những gì chúng ta làm, tất cả những gì chúng ta tổ chức, phải luôn phát xuất từ tình yêu, vì nhờ vậy cuộc sống chúng ta sẽ có ý nghĩa. Chỉ cần nhìn vào đời sống cụ thể chúng ta cũng có thể xác tín rằng chúng ta vẫn còn ở rất xa mức độ hoàn thiện mà Thiên Chúa đòi hỏi.
Tình yêu tha nhân được nói đến một cách rất cụ thể trong lệnh truyền của luật Mô sê: “Ngươi không được đối xử tệ bạc với người di cư ở trong nhà ngươi”. Ngày hôm nay cũng thế, chúng ta đang đối diện với từng đòan người di cư thuộc đủ mọi tầng lớp. Họ phải chạy trốn sự nghèo đói và chiến tranh. Họ bị bỏ rơi trong những ổ chuột hoặc trong những trại tạm cư. Đây là cơ hội tốt nhất để thực thi giới luật yêu thương những người đang cần sự giúp đỡ nhất.
“Hãy hoàn thiện như Cha các con là đấng Hoàn thiện”. Có thể hoàn thiện như Thiên Chúa được không? Tôi tin rằng chúng ta phải tiếp nhận lời mời gọi đó như một ánh sáng dẫn đường cho chúng ta, một chóp đỉnh mà chúng ta phải hướng tới, như một lí tưởng mà chúng ta phải vươn lên hằng ngày. Tin mừng ấy trình bày cho chúng ta như một sức bật, một động năng không ngừng thúc đẩy chúng ta vươn lên và vượt qua chính mình, bởi vì yêu thương Thiên Chúa và yêu thương tha nhân như Chúa Giê su, chúng ta không bao giờ có thể đạt đến mức hoàn toàn. Cũng gần giống như một cuộc leo núi mà chúng ta phải kiên trì thực hiện trong suốt cuộc sống chúng ta.
Điều kì diệu là Thiên Chúa không hành xử như một vị quan án luôn sẵn sàng tìm cách bắt bẻ chúng ta, nhưng trước hết là một người Cha không ngừng mời gọi chúng ta lớn lên trong tình yêu. Dù chúng ta có như thế nào đi nữa, Ngài sẽ không bao giờ ngừng yêu thương mời gọi chúng ta trở về với Ngài. Đó quả thực là tin mừng mà Chúa loan báo cho chúng ta hôm nay, một lời mời gọi hãy yêu thương như Ngài đã yêu thương. Ngài đến gặp chúng ta trong mọi tình huống của cuộc sống để chỉ cho chúng ta con đường đến sự Thánh thiện.
Một vài người nghĩ rằng tham dự thánh lễ Chủ nhật là đã thi hành những gì luật buộc. Quả thật, thánh lễ là đỉnh cao trong cuộc sống đức tin, vì chính đó là nơi mà chúng ta đón nhận Đấng là nguồn mạch của mọi tình yêu. Chúng ta đón nhận sức sống Lời Chúa nói với chúng ta: “Điều mà anh em phải làm, trước tiên đó là yêu thương Thiên Chúa và tha nhân”. Tuy nhiên, từ đỉnh cao ấy, chúng ta được sai đi vào cuộc sống bằng cách thực hiện những gì Chúa dạy. Nhờ thế mà sự hiện diện của Chúa Giê su trong thánh lễ và cuộc sống chúng ta hòa quyện vào nhau. Chúa hiện diện để đồng hành với chúng ta và chỉ cho chúng ta con đường. Hơn bao giờ hết, chúng ta có thể nói với Ngài: “Con tin vào Chúa, Lạy Chúa; Ngài là đời con, Ngài là tình yêu của con”.
ĐÀO SÂU
1. Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta con đường nên thánh nào?
Chủ nhật nầy, Chúa Giê su trình bày một tiến trình thánh hóa nội tâm và không vị luật. Ngòai ra, Ngài chờ đợi chúng ta một sự công chính hóa bằng đức tin chứ không chỉ bằng việc làm
2. Đoạn sấm ngôn Is 22,20-26 nói gì về người lân cận?
Đoạn ấy nói rằng người lân cận là người cụ thể, người cần một sự giúp đỡ để thoát khỏi tình huống khó khăn. Cần phải nhìn thấy, nghe thấy và chú ý đến họ. Lời sấm Is 22,20 còn mời gọi chúng ta hãy từ bỏ thái độ dửng dưng, và tránh sự hấp tấp vội vàng trong việc làm điều tốt vì Nước Trời. Chúa truyền cho chúng ta đừng làm gì xấu cho những người không thể tự bảo vệ: “Các ngươi đừng làm hại cô nhi quả phụ. Nếu các ngươi hà hiếp những hẻ ấy.. Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ..”
3. Phải sống như thế nào khi đã xác nhận những sự can thiệp của Thiên Chúa trong cuộc sống riêng của mình?
Như Tác giả Thánh vịnh 17 (18), khi suy tư về những biến cố trong cuộc đời mình, đã cất cao tiếng hát cảm tạ Chúa, là đấng đã làm nên mọi điều trọng đại. Ông thân thưa với Thiên Chúa về tình yêu của ông, gọi đó là “sức mạnh của tôi”, bởi vì đối với ông Ngài là đấng Cứu độ quyền năng. Ông tạ ơn Ngài về những ơn lành đã nhận được.
4. Đâu là những ơn ban mà chúng ta là những ki tô hữu đã nhận được từ Thiên Chúa?
Đó là những ơn mà thánh Phao lô đã nói tới trong đoạn thư 1 Tx 1,5-10: 1) ơn trở về với Thiên Chúa độc nhất là Cha, được mạc khải bởi Con Một của Ngài, nhờ Ân Sủng của Chúa Thánh Thần; 2) Ơn ban Lời Cứu độ; 3) Sự giải phóng khỏi ách nô lệ của các bụt thần; 4) Ơn ban Niềm Hi vọng; 5) Niềm vui đích thực và Bình an trong Chúa.
5. Chúng ta là những con người mỏng dòn yếu đuối, chúng ta nói là chúng ta yêu thương Thiên Chúa trên hết mọi sự nhưng rốt cục chúng ta không làm được?
Đó là sự khó khăn mà ai trong chúng ta đều vấp phải. Thật vậy, không dễ yêu thương Thiên Chúa một cách cụ thể vì chúng ta không thể tiếp xúc cụ thể, không thể nhìn thấy Ngài. Nhất là không dễ dàng mà yêu thương Thiên Chúa hơn cha mẹ, anh chị em, bạn hữu của chúng ta. Nhưng Chúa Giê su xác nhận với chúng ta rằng tình yêu người lân cận là dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu tha nhân là cách diễn tả cụ thể của tình yêu Thiên Chúa.
6. Có thể đáp trả tình yêu Thiên Chúa không nếu chúng ta bị nô lệ bởi các đam mê lệch lạc hoặc những của cải trần gian?
Chắc chắn là không. Nếu như trái tim chúng ta không được tự do, chúng ta không thể yêu thương Chúa, phụng sự Ngài và yêu mến anh em theo thần khí của Chúa Giê su Ki tô. Lòng gắn bó với của cải trần gian, tình yêu bệnh hoạn và ích kỉ và nhiều đam mê xấu xa khác là những chướng ngại không cho phép chúng ta cảm nhận và đáp trả tình yêu của Thiên Chúa.
7. Bầu khí bài Tin mừng tuần nầy xem ra có vẽ căng thẳng và đối kháng?
Đúng là như thế. Chúa Giê su đang đối đầu với các tiến sĩ Luật, những nhà chuyên môn dạy và cắt nghĩa Thánh Kinh. Lẽ ra họ phải là những người gương mẫu, thì họ lại là những người mưu tính gian trá và muốn gài bẩy Chúa Giê su. Còn Chúa Giê su, dù biết hết mọi điều ấy, Ngài vẫn không nặng lời trách cứ, mà chỉ nhắc lại giới răn yêu thương Thiên Chúa và tha nhân. Ngài không thêm điều gì mới, nhưng cho biết đâu là căn bản của giới luật ấy.
8. Như thế, Chúa Giê su cho thấy cung cách Cứu thế của Ngài?
Đúng thế, và đó là con đường cứu thế bằng tình yêu mà Ngài lược tóm trong giới luật yêu thương, ở đó Lề luật đạt tới đỉnh điểm mong đợi. Chúa Giê su không tách tời tình yêu Thiên Chúa với tình yêu tha nhân, nhưng giới răn thứ hai được trình bày như là bằng chứng và xác định giới răn thứ nhất.
9. Theo giáo huấn của Chúa Giê su, thì chúng ta phải sống người Ki tô hữu tốt lành như thế nào?
Bằng cách sống như anh em, có một tình yêu cụ thể đới với tha nhân chứ không giới hạn trong lời nói hay trong tư tưởng. Đó là cách mà Chúa Giê su đã chỉ dạy để làm chứng tình yêu đối với Thiên Chúa trong thế gian. Đức Ki tô mạc khải cho chúng ta một điều có giá trị quan trọng về Thiên Chúa và về con người: đối với Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là “làm cái gì”, mà là “làm như thế nào” trong nội tâm và trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa và tha nhân. Rồi sau đó, mới đến “Phải làm gì ?”.
10. Chúa Giê su chỉ cho chúng ta phải sống như thế nào ?
Bằng cách mạc khải cho chúng ta bản chất mầu nhiệm của Thiên Chúa: Ngài là Tình yêu, do đó là Đấng sáng tạo, giải thoát, tha thứ, tìm kiếm và đưa về mình.