CHỦ NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN B
Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta Tự do. Người không muốn chế ngự chúng ta, nhưng tự trao ban cho chúng ta. Vì thế, nếu chúng ta đồng ý tự trao hiến cho Người, thì Tình yêu Người sẽ biến chúng ta thành những người trung tín. Như vậy, Chúa là Đấng Đấng Trung Tín mãi mãi vì chúng ta không thể nghi ngờ Tình yêu của Người.
Sách Giô suê 24,1-2a.15-17.18:
Trong Giao ước thứ nhất, con cái Ít ra ên bày tỏ sự đáp trả tự do của mình bằng việc quyết tâm chọn lựa phụng sự Thiên Chúa. Trong Cựu Ước cũng như trong Tân Ước, sự dấn thân cho Thiên Chúa phát sinh từ một sự chọn lựa tự do. Chính khi trung thành phụng sự Thiên Chúa mà người tín hữu tìm lại được sự Tự do đích thực.
Thánh Vịnh 33 :
Một lần nữa, Phụng vụ lặp lại Thánh vịnh nầy. Thánh vịnh ca ngợi việc Thiên Chúa nâng đỡ người công chính trong lúc quẫn bách biết đặt trọn niềm tin vào Người. Chúng ta có cảm nghiệm đầy đủ lòng nhân hậu của Thiên Chúa như thế nào không ? Chúng ta có thể thực sự nhận ra lòng tốt của Người có nghĩa gì không ?
Thư Ê phê sô 5,21-32:
Phụ nữ là hình ảnh của GIÁO HỘI. Ngày xưa, vào thời thánh Phao lô, phụ nữ phải sống trong tình trạng thấp kém nam giới. Nhưng ngài đã nói đến vẻ cao quí của họ bằng cách so sánh với GIÁO HỘI, kết hợp với Đức Ki tô qua một Giao Ước vững bền không gì có thể hủy bỏ vì được xây dựng trên quà tặng một Tình yêu hỗ tương. Ngài kết luận bằng cách nhấn mạnh rằng MẦU NHIỆM ẤY THẬT CAO CẢ.
Tin mừng : Ga 6,60-69
NGỮ CẢNH
Đoạn văn nầy nằm trong phần cuối của giáo huấn về Bánh ban sự sống mà Chúa Giê su đã dạy trong hội đường Ca phạc na um (6,26-51). Sau khi nói đến phản ứng của một số người Do thái 6,52), Ga cho biết phản ứng của các môn đệ. Họ xì xầm phản đối, một số người bỏ đi, nhưng nhóm Mười hai vẫn trung thành gắn bó với Ngài.
Có thể đọc theo bố cục sau đây:
- c. 60: sau người do thái, bây giờ là phản ứng của các môn đệ, làm tiền đề cho phần quảng diễn tiếp sau.
- cc 61-65: lời Chúa Giê su nói là thần khí.
- c 66: một số môn đệ không thể hiểu nên bỏ Ngài.
- cc 67-69: phản ứng của nhóm Mười Hai: tiếp tục tin và đi theo Chúa Giê su.
TÌM HIỂU
Nhiều môn đệ: Gio an không nói cho chúng ta biết đám đông đã qui tụ chung quanh Chúa Giê su như thế nào. Nhưng khi những người nầy tranh luận với nhau thì Ngài lại ghi nhận có một số đông các môn đệ. Chi tiết nầy ăn khớp với các hoạt cảnh mà các tác giả tin mừng khác mô tả một cách ấn tượng (thí dụ xem Mc 3,7-10; 5,24;6,53; 6,53-60).
Chướng tai: từ dùng ở đây không có nghĩa là “đòi hỏi”, nhưng là “khó mà chấp nhận, khó mà đồng ý”. Đối với đa số thính giả, giáo huấn của Chúa Giê su về chính bản thân Ngài quá đanh thép và tuyệt đối. Đó là bằng chứng cho thấy một cách nào đó họ đã hiểu được tình cảnh của mình.
Tự mình biết được: sự hiểu biết mà Chúa Giê su có được ở đây, không chỉ về hiện tại mà về tương lai, sẽ còn được nhấn mạnh trong các cc. 64 và 70-71.
Xầm xì: Chúa Giê su áp dụng cho các môn đệ các từ mà Ngài đã dùng cho người Do thái chống đối giáo huấn của Ngài (6,41-43).
Anh em lấy làm chướng: đây nói về một cái gì chai cứng làm cho người ta vấp té. Từ nầy thường dùng trong Tin mừng nhất lãm, nhưng trong Ga chỉ xuất hiện ở đây, trong câu 16,1 và trong 1 Ga 2,10. Nghĩa của nó rất mạnh: chỉ đức tin bị lâm vào tình trạng nguy hiểm nặng nề. Trong thực tế, một vài môn đệ không tiếp tục đi theo và sẽ bỏ hẵn Chúa Giê su (6,66).
Nơi đã ở trước kia: nghĩa là “nơi Thiên Chúa” (1,1); “trong cung lòng Chúa Cha” (1,8; x. thêm 3,13;6,46). Cùng với cuộc tử nạn rồi được tôn vinh, Chúa Giê su trở về cùng Cha, nơi Ngài đã xuất phát và đến trong thế gian (16,28).
Câu chưa chấm dứt. Dường như là một lời cảnh giác cho những ai vấp ngã vì gặp khó khăn trong đức tin; một ngày kia người ta sẽ không còn thấy, không còn nghe Chúa Giê su nữa. Người ta chỉ đến với Ngài trong đức tin mà thôi.
Thần khí/xác thịt: theo phong cách của một câu tục ngữ, Chúa Giê su đối chọi xác thịt với thần khí (x. 3,6), như các tác giả Thánh Kinh. Khi I sa i a (31,3) tuyên bố: “Ai cập là phàm nhân chứ đâu phải là thần. Chiến mã của chúng là súc vật chứ đâu phải thần khí”, ý nghĩa của sự đối chọi là rất rõ ràng: một đàng không có mảy may quyền năng đích thực nào cả, mọi tạo vật trong bản chất mỏng dòn của mình; một đàng là Thiên Chúa, đấng duy nhất ban sự sống.
Các thính giả của Chúa Giê su vẫn trì trệ mãi trong cách hiểu của họ, nên họ chỉ thấy nơi Ngài là “con ông Giuse”; đối với họ “xác thịt và máu huyết” của Chúa Giê su chỉ là xác thân hay chết mà thôi. Do đó họ không thể hiểu được giáo huấn của đấng đã “từ trời xuống” để biến “xác thịt” của Ngài, bị phó nộp làm hi tế và rồi được tôn vinh, trở thành nguồn mang lại sự sống đời đời.
Ngay từ đầu: nghĩa là từ khi họ đi theo Chúa Giê su.
Không tin: Chúa Giê su dùng những lời nầy để diễn tả điều giới hạn tính hiệu năng nơi lời của Ngài cũng như nơi quyền năng ban sự sống của Ngài.
Ai: X. c. 61. Chúa Giê su có một tri thức trực tiếp, cá nhân về lời đáp trả của từng người, “Ngài gọi tên từng con một” (10,3).
Vì thế: Chúa Giê su đã đưa ra nguyên tác tổng quát: đức tin vào Đức Ki tô là công việc của Cha (6,44). Và đây là lời giải thích: một vài môn đệ đi theo Ngài mà không thật sự tin vào Ngài; họ không sẵn sàng cho sự định hướng mà Thiên Chúa muốn nơi họ.
Rút lui: sự ra đi của “nhiều môn đệ” được xác định rõ: “Từ lúc đó”. Có thể dịch là: “Vì thế”; “vì những gì Chúa Giê su đã nói”. Đó là khởi điểm cho sự cô đơn mà Chúa Giê su phải đối đầu trong cuộc Khổ nạn. Vương quốc không được thiết lập vì áp lực của một phong trào quần chúng, nhưng là hậu quả của đức tin.
Nhóm Mười Hai: Ga không kể lại việc Chúa Giê su chọn lựa mười hai môn đồ. Đàng khác, chỉ ở đây Ngài gọi “nhóm Mười Hai”, trong câu 6,71 và trong 20,24. Họ thật sự là nồng cốt của những người tín hữu.
Bỏ đi: trong thời khắc khó khăn ấy Chúa Giê su không nhượng bộ một chút nào. Ngài cương quyết đặt nhóm Mười Hai trước một sự chọn lựa theo hoặc chống lại Ngài.
Chúng con biết đến với ai: có một chuyển động trong toàn bộ khung cảnh: họ rút lui, không theo Ngài nữa (6,66), họ bỏ đi (6,67), chúng tôi sẽ đến với ai (6,68). Đức tin vào Đức Ki tô được trình bày như một vấn đề định hướng cuộc sống mà mỗi người phải trả lời là có hay không.
Câu hỏi của ông Phê rô dường như cho thấy thái độ thất vọng nếu chính ông không có một câu trả lời dứt khoát và tích cực: “Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Lời tuyên bố nầy, cũng như đức tin được công bố của Giáo Hội, là tiếng vang vọng trực tiếp từ giáo huấn của Chúa Giê su vừa mới hứa ban sự sống đời đời.
Phần chúng con: trong các Tin mừng Nhất lãm, lời tuyên xưng đức tin của Phê rô nhân danh các tông đồ khác biệt với các ý kiến quần chúng về Chúa Giê su: “Còn các con bảo thầy là ai?” (Mc 8,29). Ở đây, ngược lại với sự không tin và bất định của nhiều môn đệ, đức tin của Phê rô nổi bật, được diễn tả ở số nhiều. Ông nói nhân danh nhóm Mười Hai.
Tin / Nhận biết: sự liên kết của hai động từ nầy rất mạnh. Khi nghe lời Chúa Giê su bằng lòng tin, người ta có một sự hiểu biết chắc chắn, được Thiên Chúa bảo đảm. Sự long trọng của công thức cho phép nhìn thấy ở đây một lời tuyên xưng đức tin của cộng đoàn tín hữu sơ khai.
Đấng Thánh của Thiên Chúa: Chỉ có Ngài là Đấng thánh. Ở đây có lẽ chúng ta có một công thức nguyên thuỷ của lời tuyên xưng đức tin của Phê rô. Tân Ước thường xử dụng kiểu nói khá cổ điển nầy để chỉ Chúa Giê su (Mc 1,24 và chú giải; Lc 1,35;4,34; Cv 3,14;4,27-30; Kh 3,7;1Ga 2,20).
SỨ ĐIỆP
Phải chọn lựa
Để hiểu trang tin mừng nầy, trước tiên cần phải nhớ rằng nó đã được viết cho những cộng đoàn ki tô hữu sau khi Đức Kytô sống lại. Các Ki tô hữu nầy gặp nhiều khó khăn khi tìm hiểu sứ điệp của Chúa Giê su về bí tích Thánh Thể. Nên tác giả tin mừng nhắc họ nhớ lại điều đã xảy ra trong thời Chúa Giê su. Đám đông càm ràm bỏ đi: “Chẳng ai hiểu ông ta muốn nói gì?” Đám đông đã chứng kiến phép lạ hóa bánh ra nhiều, nhưng lại bị sốc trước diễn từ tiếp theo. Không chỉ đám đông người Do thái mà cả một số đông các môn đệ cũng đã xầm xì về điều đó. Trước kia họ đã bắt đầu tin, nhưng giờ thì họ bỏ đi. Chung quanh Chúa Giê su, bây giờ chỉ còn trống vắng.
Cảnh ngộ nầy lúc nào cũng xảy ra: chỉ cần nhìn chung quanh chúng ta thậm chí trong chính gia đình của chúng ta. Trong giáo huấn của Giáo Hội cũng như lập trường của các Giáo Hoàng, có nhiều điều khó lòng chấp nhận. Có người nghĩ rằng sự đầu thai là một giáo lí còn hợp lí hơn là sự sống lại. Nhiều người rời bỏ đức tin ki tô để gia nhập một giáo phái. Bản thân chúng ta cũng trải qua nhiều bước thăng trầm, có lúc chúng ta đi theo Chúa Giê su, cũng có lúc chúng ta quay lưng từ bỏ Ngài.
Chúa Giê su đã nói: “Ta là bánh hằng sống. Man na trong sa mạc không là gì cả trước lời khẳng định ấy. Chính Ta mới là lương thực cho các người. Lời ta nói là lương thực cho các ngươi”. Rồi phần tiếp theo bài diễn từ mới thực sự là khó chấp nhận: “Ai ăn thịt ta và uống máu ta thì có sự sống đời đời”. Nếu đặt mình vào vị trí của những người lần đầu tiên nghe lời nói đó, chúng ta sẽ có phản ứng như thể nào?
Thế mà Chúa Giê su đã không làm gì để giữ họ lại. Ngài cứ để cho họ ra đi. Ngài muốn tất cả mọi người hiểu rằng Bánh Thánh Thể không chỉ là một biểu tượng hay một cuộc tưởng niệm đơn thuần. Nhưng còn là sự hiện diện thực sự của Ngài dưới hình bánh rượu. Thánh Thể là một sự hiện thực. Hiệp thông chính là ăn Mình Đức Ki tô, là nuôi sống nhờ Ngài. Hoặc là chấp nhận, hoặc là bỏ đi. Chân lí không bao giờ nửa chừng hay chấp nhận thỏa hiệp nhượng bộ cho xong chuyện.
Cuối cùng, chỉ còn lại mình Chúa Giê su với nhóm Mười Hai. Bấy giờ cuộc đối thọai trở nên thân mật và cảm động hơn: “Còn các con, các con có muốn bỏ đi không ?”. Trong câu hỏi ngầm chứa viễn tượng ở một mình, đi một mình trên mọi nẻo đường Pa lết ti na. Nhưng Chúa Giê su thích như thế hơn là đính chính hay rút lại lời tuyên bố vô cùng thiết yếu trong sứ điệp của Ngài.
Câu hỏi ấy cũng đặt ra ngày hôm nay cho chúng ta: chúng ta có muốn ra đi hay ở lại? Điều gì khiến chúng ta ở lại ? Thói quen chăng ? Hay chỉ vì muốn giống người khác ? Hay thiếu can đảm ra đi ?
Tin mừng hôm nay nói với chúng ta rằng chúng ta không thể ở giữa chừng. Phải quyết định theo hoặc chống lại Chúa Giê su. Quyết định còn dễ, nhưng trung thành với quyết định không dể chút nào. Khi chọn Thiên Chúa, chúng ta phải từ bỏ các bụt thần khác. Khi chọn Đức Ki tô, chúng ta phải từ bỏ tiên tri giả khác. Những ai hiến thân trong đời tu trì, phải từ bỏ cuộc sống khác, dù tất cả đều rất đẹp và xứng đáng.
Điều mà Chúa Giê su chờ đợi nơi chúng ta đó là một hành vi đức tin tự do và cá nhân, một hành vi đức tin bao quát toàn bộ đời sống chúng ta. Chúa Giê su nói với chúng ta những điều rất quan trọng liên quan đến đức tin, đức tin của các tông đồ và của chúng ta. Trước tiên Ngài nói với chúng ta rằng đức tin là ơn ban của Thiên Chúa: “Không ai đến với Ta nếu Cha ta không lôi kéo kẻ ấy”. Chỉ nhờ Thánh Thần chúng ta mới có thể đến cùng Thiên Chúa.
Điều đó không có nghĩa là một vài người đã được chọn trước, còn một vài người khác thì không. Trong tình yêu bao la, Thiên Chúa gọi tất cả mọi người, và ban cho tất cả mọi người ơn đức tin. Ơn ban ấy tất cả chúng ta đã lãnh nhận, nhưng chúng ta đã sử dụng như thế nào. Một lần nữa, vấn đề là từng người chúng ta phải tự do quyết định theo hay không theo Chúa. Và phải xác tín rằng đức tin không phải chỉ là một giáo huấn mà còn là một con đường. Và trên con đường đó, có Chúa Giê su dẫn chúng ta đến với Cha của Ngài.
Điều chắc chắn là trên con đường đó, thường có mây mù và thỉnh thoảng bão táp. Tất cả chúng ta ít nhiều đều phải đối đầu với những lo toan cuộc sống, tương lai cho con cái, những vấn đề việc làm hay thất nghiệp, vấn đề an ninh cuộc sống. Một số người khác thì lo cho bệnh tật, đau khổ phần xác phần hồn. Nhưng Đức Ki tô vẫn hiện diện và đề nghị chúng ta hãy biến đổi cuộc sống của mình. Lời của Ngài là Thần Khí và Sự sống. Là lời đem lại sự sống Đời đời.
Nếu chúng ta đi với Chúa Giê su, nếu chúng ta hiệp thông với Ngài chúng ta sẽ có thể hiến ban sự sống của chúng ta theo gương của Ngài. Và lúc bấy giờ có thể có những hành vi quảng đại hiến thân cho anh em mình như Ngài. Có sự sống đời đời là như thế. Chúa Giê su đã nói một cách cương quyết: “Ai tin thì có Sự Sống đời đời. Ai không tìn thì đã bị luận phạt rồi”. Cũng như lời Giôsuê khuyến dụ dân Israên: “Anh em phải chọn lựa, hoặc theo Thiên Chúa, hoặc theo tà thần, hoặc là sự sống hay sự chết”.
ĐÀO SÂU
1. HỎI: Ông Gio suê là ai?
THƯA: Giô suê là nhân vật quan trọng, xuất hiện rất sớm trong cuộc Xuất hành (Xh 17), được Mô-sê tin cẩn và chọn lựa kế vị ông để lãnh đạo dân Ít ra ên (31,7-8). Mô sê đã trao cho ông mọi quyền hành, trừ quyền tế tự thì trao cho ông Êlêazar. Trong suốt cuộc đời, lúc nào Giô suê cũng cho thấy một lòng trung thành với Thiên Chúa và Mô-sê. Tên ông lúc đầu là Hôsêa, sau được ông Mô sê đổi lại là Giô suê có nghĩa là ‘Gia vê (là sự) Cứu độ’ (Ds 13,16).
2. HỎI: Ông đã nổi bật như thế nào?
THƯA: Ông đã chỉ huy dân Ít ra ên đánh thắng quân Amalếch trong khi ông Mô- sê giang tay cầu nguyện (Xh 17,8-16). Ông được chọn làm người đại diện bộ tộc Éphraim trong nhóm 12 người đi do thám đất Canaan (Ds 13,8). Chỉ có ông và ông Caleb là trên 12 tuổi khi ra khỏi Ai cập mà còn sống khi vào đất hứa, trong khi tất cả những người khác đều đã bị phạt chết vì không trung thành với Thiên Chúa (Ds 14,30-38; 31,26-65; 32,13).
3. HỎI: Sách Giô suê là sách gì?
THƯA: Đó là quyển thứ sáu trong Bộ Kinh thánh Cựu Ước, được gọi tên là Giô suê vì truyền thống Do thái tin rằng chính ông Giô suê là tác giả. Tuy nhiên khó có thể coi ông là tác giả toàn tác phẩm vì có nhiều biến cố xảy ra sau thời của ông.
Sách có thể bố cục làm 2 phần:
- Phần thứ nhất gồm 12 chương đầu trình bày cuộc chiếm lãnh Đất Hứa, khởi đầu từ lúc vượt qua sông Giođan.
- Phần thứ hai từ chương 13 đến 24 trình bày cuộc phận chia đất đai cho 12 bộ tộc Ít ra ên. Chương cuối cùng kể lại đại hội toàn dân tại Sikhem. Bài đọc thứ nhất trích từ chương nầy.
4. HỎI: Si-khem có vị trí nào trong Kinh Thánh?
THƯA: Si-khem là một địa danh quan trọng trong lịch sử các tổ phụ Ít ra ên. Đó là nơi Abraham, rồi đến ông Gia cóp đã dựng một bàn thờ kính Thiên Chúa. Ông Giu se được mang về chôn cất ở đó. Sau khi vua Salômôn băng hà, vương quốc bị chia làm hai thì Si-khem lại trở thành thủ đô của Vương quốc phía Bắc.
5. HỎI: Tầm quan trọng của Si-khem ở điểm nào?
THƯA: Nhưng Si-khem còn quan trọng hơn vì là biểu tượng của sự lựa chọn. Ở đó, Gia cóp đã bắt buộc gia đình từ bỏ bụt thần (St 35,4). Và đến lượt ông Giô suê cũng qui tụ các con cái Ít ra ên về đó để bày tỏ quyết tâm trung thành với Thiên Chúa.
6. HỎI: Bài đọc một nói về điều gì?
THƯA: Bài đọc một là một trong những trang sách cảm động trong Cựu Ước. Trong cuộc hành trình đầy gian nan tiến về đất Hứa, không phải lúc nào dân Ít ra ên cũng hoàn toàn đặt niềm tin vào Thiên Chúa. Nhiều lúc họ bị phạt nặng vì thất trung với Ngài. Thế nên, vào lúc cuối đời, ông Giôsuê đã qui tụ toàn dân tại Si-khem để họp nhất toàn dân chung quanh Thiên Chúa. Ông đã nói lên lập trường của mình, rồi sau đó yêu cầu toàn dân xác định lập trường của họ là trung thành và thờ phượng Thiên Chúa cho đến cùng .
7. HỎI: Bài đọc một nhấn mạnh đến điều gì?
THƯA: Trước tiên,bài đọc một nhấn mạnh đến vaitrò của ông Giô suê. Trong bài đọc, ông Giô suê thể hiện vai trò người cứu độ bằng cách bảo đảm sự duy nhất của dân quanh Thiên Chúa của mình. Ông đã làm gương cho mọi người: ‘Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ ĐỨC CHÚA’(Gs 24,14) và mời gọi tất cả mọi người cũng dấn thânphụng sự Thiên Chúa Ít ra ên như gia đình ông.
8. HỎI: Điểm nhấn mạnh thứ hai là gì?
THƯA: Đólà sự cần thiết, khẩn cấp phải chọn lựa. Dân Chúa lúc nào cũng bị cám dỗ bỏ Thiên Chúa mà thờ lạy bụt thần, như vào thời các Vua (cuộc chiến Êlia chống lại các tiên tri Ba-an, 1V9), thời lưu đày ở Ba by lon. Chính vì thế sự chọn lựa ở Si-khem trở thành mẫu mực cho các thế hệ sau: ‘Chúng tôi sẽ phụng thờ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng tôi, và chúng tôi sẽ nghe lời Người.’(Gs 24,24)
9. HỎI: Ngữ cảnh bài tin mừng như thế nào?
THƯA: Đoạn tin mừng nầy nằm trong phần cuối của giáo huấn về Bánh ban sự sống mà Chúa Giê su đã dạy trong hội đường Ca phạc na um (6,26-51). Sau khi nói đến phản ứng của một số người Do thái (6,52), Ga cho biết phản ứng của các môn đệ. Họ xì xầm phản đối, một số người bỏ đi, nhưng nhóm Mười hai vẫn trung thành gắn bó với Ngài. Có 4 ý sau đây: 1. Sau người Do thái, bây giờ là phản ứng của các môn đệ, làm tiền đề cho phần quảng diễn tiếp sau (c. 60). 2. Lời Chúa Giê su nói là thần khí (cc 61-65). 3. Một số môn đệ không thể hiểu nên bỏ Ngài (c 66). 4. Phản ứng của nhóm Mười Hai: tiếp tục tin và đi theo Chúa Giê su (cc 67-69).
10. HỎI: Tại sao các môn đệ của Chúa Giê su nói: ‘Lời nầy chướng tai’?
THƯA: Đó là phản ứng của một số môn đệ không thể chấp nhận và tin vào những gì Chúa Giê su đã nói. Ngài tự cho mình tự trời xuống, trong khi ai cũng đều biết rõ tông tích của Ngài. Ngài tự cho là Bánh ban sự sống, như họ thấy Ngài cũng chỉ là một người bình thường. Ngài nói Ngài ban sự sống đời đời, nhưng đó là điều mà chỉ có một mình Thiên Chúa có thể làm mà thôi. Ngài bảo phải ăn thịt Ngài, một việc khủng khiếp đối với mọi người. Ngài bảo phải uống máu của Ngài, nhưng đó là điều mà Lề luật cấm triệt để. Và trên hết Ngài đã phán những điều đó một cách long trọng y như trong một Giao ước!
11. HỎI: Chúa Giê su muốn ám chỉ điều gì khi nói: ‘Nếu anh em thấy Con Người đã lên nơi đã ở trước kia thì sao’?
THƯA: Chúa Giê su muốn ám chỉ đến việc thăng thiên, tức là việc Ngài trở về với Thiên Chúa Cha sau khi sống lại. Việc lên trời mạc khải hoàn toàn về Con Người xuống thế (1,51; 3,13; 6,62) và về nguồn gốc thần linh của Ngài (20,17). Vào lúc đó, Chúa Giê su mới đảm nhận chức vụ Con Người, lúc đó nguồn gốc thiên giới của Ngài mới hoàn toàn tỏ lộ. Nói theo thánh Phao lô, thì đó là lúc mà Ngài trở thành Chúa muôn loài, Con Thiên Chúa quyền năng (Rm 1,4), thu hồi những ưu phẩm thần tính của Ngài (Pl 2,6-11).
12. HỎI: ‘Thần khí mới làm cho sống’ có nghĩa gì?
THƯA: Đó là thần khí ban sự sống, là ơn ban Chúa Thánh Thần mà sau nầy trong diễn từ trong nhà Tiệc li, Chúa Giê su sẽ nói rõ ràng hơn (Ga 15,26-27). Một thân xác mà không có Chúa Thánh Thần ngự trị chỉ là một xác chết về phần thiêng liêng (x. 2 Cr 3,6; 1Cr 15,45-47; Ga 3,6).
13. HỎI: Chúa Giê su muốn nói đến xác thịt nào trong câu: “Xác thịt chẳng có ích gì?
THƯA: Ở đây Chúa Giê su không nói đến xác thịt của Ngài, mà là xác thịt nói chung (3,6; 8,15), tức là nhân tính chúng ta đối lập với Thần Khí Ngài sẽ ban cho. Nhân tính ấy bất lực trong việc cứu rỗi chính mình cũng như đón nhận ơn cứu rỗi và chân lí do Chúa Giê su mang đến (x. Mt 16,17).
14. HỎI: Tại sao Thánh Gioan ghi nhận ‘có nhiều môn đệ rút lui’ (c.66)?
THƯA: Phần lớn các môn đệ không thể chấp nhận những lời nói ‘chướng tai’ của Chúa Giê su nên họ đã rút lui không còn theo Ngài nữa. Đó là khởi điểm cho sự cô đơn mà Chúa Giê su phải đối đầu trong cuộc Khổ nạn. Vương quốc Thiên Chua không được thiết lập do áp lực của một phong trào quần chúng, nhưng là kết quả của đức tin.
15. HỎI: Câu hỏi của Chúa Giê su ‘Anh em có muốn bỏ đi không?’ (c.67) có ý nghĩa gì?
THƯA: Câu hỏi của Chúa Giê su không hề có ý gây hấn (=Anh em bỏ đi luôn di!) nhưng hàm chứa một lời mời gọi ở lại. Ngài đặt câu hỏi ấy để cho các môn đệ tự do quyết định. Ngàikhông rút lại bất cứ điều gì đã nói để nhượng bộ.
16. HỎI: Qua câu hỏi của Chúa Giê su và trả lời của Phê rô, Đức tin là gì?
THƯA: Ngang qua câu hỏi của Chúa Giê su: ‘Anh em có muốn bỏ đi không?’ Và câu đáp lại của Phêrô: ‘Bỏ Thầy, chúng con biết đến với ai?’, chúng ta thấy đức tin không phải là một món đồ, hay một hành trang, nhưng là một con đường. Một con đường mà người ta phải để cho Thiên Chúa hướng dẫn: “Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho”.
17. HỎI: ‘Chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa’. Đức tin của các môn đồ như thế nào?
THƯA: Đấng Thánh của Thiên Chúa không phải là tước hiệu chỉ Đấng Messia. Các tiên tri cũng được gọi như thế, vì được Thiên Chúa sai đi. Chắc chắn các Tông đồ lúc bấy giờ chưa nhận biết Đức Ki tô một cách toàn diện như phải được biết. Họ chỉ trên con đường đi đến một sự hiểu biết như thế. Họ không chỉ nhìn thấy Ngài, mà còn nhận ra rằng Ngài được Thiên Chúa sai đến, vì thế, nên họ tin tất cả những gì Ngài nói. Lòng tin của họ dần dần được thanh luyện và được nâng cao.
18. HỎI: Chúng ta phải thực thi Lời Chúa như thế nào?
THƯA: Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay chúng ta phải:
1. Thoát ra tình trạng đức tin nửa vời, nửa nóng nửa lạnh, vui thì theo mà buồn thì bỏ, để dứt khoát chọn Chúa Giê su và sống trong tình thân mật với Ngài, đặc biệt trong bí tích Thánh Thể.
2. Khi chọn Thiên Chúa, chúng ta phải từ bỏ các bụt thần khác. Khi chọn Đức Ki tô, chúng ta phải từ bỏ tiên tri giả khác. Chọn thì tương đối không khó, nhưng trung thành với sự chọn lựa ấy suốt đời mới cực kì khó.
3. Nếu chỉ nghĩ đến cá nhân mình, quan tâm đến mình và sống ích kỉ thì không thể gọi được là ‘tin vào Đức Ki tô’.