YÊU LÀ THA THỨ TẤT CẢ -
TIN TƯỞNG TẤT CẢ - CHỊU ĐỰNG TẤT CẢ (1Cor 18,3)
Mãi mãi ngôn ngữ
loài người sẽ không bao giờ đủ từ để định nghĩa được: Tình yêu là gì? Và, càng
khó hơn nữa để diễn tả tình yêu của hai người nam nữ dành cho nhau hoặc tình
yêu của cha mẹ dành cho con cái: Tại sao anh A lại yêu cô B đến độ chấp nhận mọi
gian khó để hai người đến được với nhau? Tại sao cha mẹ lại dám hy sinh cả một
đời hao gầy chỉ vì tình yêu dành cho con cái? Mãi mãi tình yêu vẫn là một mầu
nhiệm mà mỗi người chỉ có thể cảm nhận chứ không thể diễn tả hết bằng lời. Có
nhiều người cho rằng: Yêu là muốn điều tốt cho nhau, làm điều tốt cho nhau, là
vui khi thấy người mình yêu hạnh phúc và đau khổ khi thấy người mình yêu đau khổ.
Thánh Phaolô sau nhiều năm suy niệm về tình yêu của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, đã
định nghĩa trong bài ca Đức ái (1 Cor 18,3): “Yêu là tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng và chịu đựng tất cả”.
Phụng vụ Lời Chúa
ngày Thứ Sáu Thánh hôm nay cho chúng ta nghiệm ra tình yêu tha thứ, tin tưởng
và chịu đựng tất cả mà Đức Giêsu đã thể hiện trong cuộc đời và đặc biệt qua cuộc
thương khó của Ngài.
Trước hết, Chúa
Giêsu đã thể hiện tình yêu tin tưởng trọn vẹn nơi Thiên Chúa Cha. Điều này đã
được tiên tri Isaia diễn tả qua hình ảnh của một người Tôi Tớ hoàn toàn tin tưởng
vâng phục Thiên Chúa: “Này đây người tôi
trung của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật và được suy tôn đến tột cùng”. Mặc
dù được Thiên Chúa yêu thương, nhưng người tôi tớ này vì tin tưởng và vâng phục
hoàn toàn Thiên Chúa, đã chấp nhận bị người đời thóa mạ lăng nhục: “Mặt mày tan nát chẳng dáng vẻ của con người
nữa… Bị người đời khinh khi ruồng rẫy… Người gánh chịu những đau khổ đó vì
chúng ta”. Theo cái nhìn của người đời, người tôi tớ này giống như kẻ bị Thiên
Chúa ruồng bỏ. Nhưng Người chịu tất cả những đau khổ ấy là vì Thiên Chúa đã muốn
Người chịu và Người đã đón nhận để làm vui lòng Thiên Chúa. Vì thế, Thiên Chúa đã
trả lại cho Người vinh quang, danh dự và ban cho Người muôn dân làm gia sản. Người
mang lấy tội của muôn người, để cứu muôn người khỏi tội. Hình ảnh người tôi
trung trong sách Isaia đã được ứng nghiệm nơi Đức Giêsu, Đấng đã hoàn toàn tin
tưởng nơi Chúa Cha và phó thác trọn cuộc đời, hơi thở, sức sống của mình cho
chương trình cứu độ mà Thiên Chúa Cha muốn Người thực hiện.
Bài Thương Khó cho
chúng ta thấy một tình yêu hy vọng và chịu đựng, được hòa quyện với nhau nơi
con người và sự đau khổ mà Chúa đã trải qua. Lúc cận kề với cái chết là lúc con
người cảm thấy đau khổ nhất, cô đơn nhất và cần có người ở kề bên nhất. Chúa
Giêsu cũng mang tâm trạng đó. Tuy nhiên, các môn đệ của Chúa dường như đã không
hiểu và không đồng cảm được với nỗi khổ tâm và sự cô đơn này. Trong lúc Thầy
trò vào vườn Cây Dầu để cầu nguyện, các môn đệ đã để Chúa một mình đối diện với
cơn hấp hối, còn họ thì lăn ra ngủ. Khi Giuđa dẫn theo một đám đông và các người
biệt phái đến vây bắt Đức Giêsu, các môn đệ cũng không phản ứng, vì sợ. Simon
Phêrô đã phản ứng cách yếu ớt khi rút gươm nhắm chém một đứa đầy tớ vô danh tiểu
tốt, còn những người khác thì bỏ trốn hết. Chúa Giêsu không hề trách các học
trò cùa mình, Ngài cảm thông, tha thứ và còn yêu cầu đám lính: “Các anh cứ bắt tôi, nhưng để cho những người
này đi”. Ở trong dinh thượng tế, Chúa Giêsu vẫn tin tưởng các học trò của
mình, coi họ như nhân chứng, khi nói với mọi người: “Các ông cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi nói gì”.
Khi Giuđa bước đến
chào và hôn mặt Chúa, mặc dù biết rằng đó là cái hôn chỉ điểm, là nụ hôn phản bội,
Chúa Giêsu không trách anh, nhưng thức tỉnh lương tâm của anh bằng một câu hỏi:
“Giuđa, anh dùng cái hôn để nộp Con Người
sao?” Chúa đón nhận cái đau đớn của sự phản bội, Chúa cũng đón nhật tất cả
sự xỉ vả, hành hạ mà đám lính gây ra cho Người. Những tên lính vô danh, những
tên đầy tớ hạng bét của các thượng tế, giờ đây cũng nhảy vào để hành hạ, nhục mạ
Chúa Giêsu trước mặt mọi người. Chúa Giêsu đã đón nhận đau đớn cả thể xác và
đau khổ trong tâm hồn với một trái tim quảng đại tha thứ. Giống như Chúa đã thức
tỉnh lương tâm cho Giuđa, giờ đây trong dinh thượng tế, Chúa cũng tha thứ và thức
tỉnh lương tâm cho các tên lính: “Nếu tôi
nói sai, thì anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải sao lại
đánh tôi?”.
Tin Mừng cho thấy,
suốt hành trình thập giá, Chúa Giêsu đã thể hiện một tình yêu tha thứ cho những
người làm khổ Ngài. Trong dinh thượng tế, quả là sự bẽ bàng ê chề cho Chúa
Giêsu, khi Chúa tin tưởng các môn đệ và nói với mọi người: “các ông cứ hỏi họ…”, thì ở ngoài sân,
Simon Phêrô đã vội vã ba lần chối rằng không biết Thầy. Chúa Giêsu quay lại
nhìn Simon với một cái nhìn thương xót, tức là vừa thương cho sự hèn nhát, vừa
xót xa cho sự yếu đuối đến phản bội của ông. Simon đã đọc được tín hiệu này và ông
đã khóc.
Tại dinh Philatô,
Chúa Giêsu bị cáo gian như một tên tội phạm nguy hiểm, gian ác. Chúa Giêsu
không hề lên tiếng biện minh hay phản đối, Ngài giữ sự thinh lặng. Một sự thinh
lặng khiến Philatô không thể hiểu và cảm thấy hoảng sợ. Philatô hỏi Chúa: “Vậy ông là vua sao?” Chúa Giêsu cho ông
ta biết, Ngài là Vua của sự thật, Ngài đến để làm chứng cho sự thật: “Tôi sinh ra và đến thế gian này là để làm
chứng cho sự thật”. Điều này càng khiến cho Philatô bối rối hơn nữa và hỏi Chúa:
“Sự thật là gì?” Chúa Giêsu không định
nghĩa cho Philatô nghe sự thật là gì, nhưng qua cái nhìn cảm thông tha thứ, qua
cách phản ứng thinh lặng trước những lời cáo gian của dân chúng, Chúa Giêsu cho
Philatô thấy ông đang đứng trước Sự Thật là chính Thiên Chúa, Đấng thánh thiện,
xót thương và tha thứ. Nơi Ngài không bao giờ có gian dối và điều xấu, nhưng chỉ
có yêu thương và tha thứ. Philatô đã phần nào hiểu ra và nói với dân chúng: “Ta không thấy có lý do nào để kết tội ông ấy”.
Từ đó, Philatô tìm cách để tha Chúa Giêsu. Tuy nhiên, thiện chí của Philatô
đã không thành, trước những lời gào thét của đám đông dân chúng: “Giết đi, đóng đinh nó vào thập giá… Chúng
tôi không có vua nào khác ngoài Cesar.” Philatô đã chiều theo sự gian dối
và sự ác thay vì đi tiếp trên con đường sự thật mà Chúa Giêsu đã khơi gợi lên
trong tâm hồn ông. Chúa Giêsu đã cảm thông với thất bại này của Philatô và nói
với ông: “Ngài không có quyền gì trên
tôi, nếu Trời không ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì sẽ mắc tội nặng
hơn”.
Cuối cùng, khi
đón nhận cây thập giá, Chúa Giêsu đã biến cây thập giá trở thành biểu tượng của
tình yêu thương và tha thứ. Thập giá là một dụng cụ hành hình dã man nhất mà
con người có thể nghĩ ra để hành hạ nhau. Tử tội khi bị treo trên thập giá sẽ trải
qua nhiều ngày đau đớn, đói khát, chết dần, chết mòn trong kiệt sức và ngạt thở.
Chúa Giêsu đã bị người Do Thái mượn tay Philatô để hành hình bằng dụng cụ dã
man này. Nhưng Thiên Chúa lại có cách của Ngài, Thiên Chúa có thể biến điều xấu
nên điều tốt, rút sự lành ra từ sự ác, Ngài đã biến cái chết thập giá của Chúa
Giêsu trở thành cơ hội đem lại ơn tha thứ cho nhân loại.
Thưa quý OBACE,
nghe và suy gẫm các bài đọc, đặc biệt bài Thương Khó hôm nay, chúng ta nhận ra
tình yêu lớn lao quảng đại của Thiên Chúa dành cho nhân loại khi trao tặng Người
Con duy nhất cho chúng ta. Người Con ấy là Chúa Giêsu đã trở nên giống chúng ta
mọi đàng, đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu: “Tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng và chịu đựng tất cả”.
Tưởng niệm Chúa
Giêsu chịu đóng đinh, chúng ta nhận ra chính tội lỗi của chúng ta đã khiến cho Chúa
phải đau khổ và phải chết. Trong hành trình thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta
cũng thấy có bóng dáng và sự hiện diện của chính mình, tham gia vào việc gây ra
đau khổ và cái chết cho Chúa. Nhưng, chúng ta tin Chúa đã tha thứ và đã cứu chuộc
chúng ta bằng cái chết của Ngài. Chúng ta không chán nản thất vọng trước tình
trạng của mình, nhưng luôn tín thác vào tình yêu bao dung của Chúa.
Xin Chúa gìn giữ,
đừng để ta trở lại tình trạng tội lỗi, vào con đường cũ, gây ra đau khổ cho Chúa.
Xin cho chúng ta luôn tin vào tình yêu và sự tha thứ của Chúa, để quyết tâm
chính sửa lại đời sống và sống đẹp lòng Chúa hơn. Xin cho chúng ta học nơi Đức
Maria và môn đệ Gioan, theo sát Chúa trên hành trình thập giá, cùng cảm thông
chia sẻ với những đau khổ của Chúa Giêsu và cũng sẽ được chia sẻ niềm vui phục
sinh với Ngài. Amen.
Lm Giuse Đỗ Đức Trí