CHỦ NHẬT 20 TN A
Chúa Giê su đã phá bỏ mọi ranh giới của dân tộc tuyển chọn.
Người Do thái biết mình là Dân được chọn của Thiên Chúa, nhưng họ quên rằng họ
cũng là những nhà truyền giáo và phải làm cho mọi người nhận biết Thiên Chúa
duy nhất đã kết ước với họ. Chúa Giê su biết điều
đó và Ngài đã dẹp bỏ mọi giới hạn và như thế đáp ứng Thánh ý Thiên Chúa yêu
thương tất cả mọi người và làm cho họ được sống.
Sách Tiên tri Isaia 56 1.6-7
Người Do thái bị lưu đày và bị đồng hóa với dân các nước. Họ tự
hỏi lối sống rập theo dân ngoại nơi họ sẽ như thế nào khi họ sẽ trở về quê
hương. Tiên tri Isaia thử trả lời cho thắc mắc của họ. Ông khuyên họ hãy tích cực
tham gia vào cộng đoàn thánh của những người sẽ tin vào Thiên Chúa đích thật.
Thánh Vịnh 66
Đây là lời chúc tụng Thiên Chúa vào mùa gặt hái. Thánh vịnh nầy
mời gọi tất cả các nước ca tụng Chúa vì những kì công Người đã thực hiện. Đó là
lối mở ra kỉ nguyên phổ quát mà Tin mừng công bố.
Thư gửi Rôma 11, 13-15.29-32
Thánh Phao lô thấy trong sự từ khước của người do thái một điều
gì đó mang tính tạm thời cho Giáo Hội. Cửa Nước Trời phải rộng mở cho tất cả mọi
người, đó là điều gây ra một phản ứng từ khước cho Dân Ưu tuyển. Nhưng sẽ có một
ngày, Dân tộc nầy sẽ tìm lại chỗ mà họ đã được mời gọi trong Kinh Thánh đã được
dọn sẵn cho người khác được vào. Sau khi đã nhận ra tội lỗi của mình, họ sẽ
khám phá ra Lòng Thương xót của Thiên Chúa.
Mt 15: 21-28
NGỮ CẢNH
Sau khi nhận thấy sứ vụ rao giảng thất bại, không mang lại kết
quả mong muốn, Chúa Giê su dồn mọi nổ lực dạy dỗ các môn đệ. Bên cạnh đó, các
cuộc tranh luận với người Biệt phái vẫn càng ngày càng trở nên căng thẳng hơn.
Như trong đoạn đi trước (15,10-20 ), Chúa Giê su tranh luận gay gắt với người
Biệt phái về thức ăn sạch và nhơ uế. Ngài chủ trương ngược lại truyền thống do
thái, coi mọi thức ăn đều sạch. Lập trường đó gây tức giận cho người Do thái. Đứng
trước sự cứng lòng của họ, có phải Chúa Giê su đã quyết định bỏ mặc Israel để từ
đây đến với lương dân không? Mt trả lời: Không phải thế! Và trong đoạn nầy,
ông cố gắng chứng minh qua phép lạ Chúa Giê su thực hiện cho một người
ngoại đạo để tưởng thưởng lòng tin của bà, và để khẳng định một lần nữa: “Ngài
chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Israel thôi”.
Có thể đọc đoạn tin mừng theo bố cục như sau:
1. Hoàn cảnh (15,21)
2. Chúa Giê su từ chối yêu cầu của người phụ nữ (22-23a)
3. Chúa Giê su trả lời cho các môn đệ: Ngài từ khước (23b-24)
4. Chúa Giê su tiếp tục từ chối lời van nài của người phụ nữ
(25-26)
5. Chúa Giê su khen ngợi và thán phục đức tin của người phụ nữ
(27-28).
TÌM HIỂU
Ra khỏi đó, Chúa Giê su lui về miền Tia và Si đôn: Người
ta không thể xác định lộ trình nầy vì nó mang một ý nghĩa thần học: tác giả Mát
thêu muốn cho thấy Chúa Giê su tiếp xúc với người dân ngoại sống trong miền ấy. Tia
và Si đôn là cụm từ truyền thống chỉ vùng đất dân ngoại tại vùng bắc-đông-bắc
Palestina thường được gọi là vùng Phênêkia. Dân vùng nầy tự gọi mình là “dân
Canaan”, và CƯ cũng như TƯ tiếp tục dùng tên gọi đó.
Một người đàn bà Ca na an: Người
phụ nữ nầy không phải là người Do thái, nhưng là một người ngoại biết rõ hoạt động
của Chúa Giê su và do đó cũng có ít nhiều niềm tin của người Do thái. Vì thế Bà
gọi Chúa Giê su là con vua Đa vít, tuy không hiểu rõ danh xưng ấy có nghĩa gì.
Bà chỉ lặp lại điều mà Bà nghe người Do thái nói về Chúa Giê su.
Những con
chiên lạc: có thể
chỉ những tội nhân ở Israel, mà cũng có thể chỉ toàn thể dân Israel, được coi
như một đàn chiên lạc mất chủ chăn của họ (9,36; 15,3-13).
Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của
nhà Israel mà thôi: Thoạt nghe, câu nầy có thể làm cho người ta khó
chịu. Thật ra nó xác nhận sứ mạng mà Chúa Giê su nhận lãnh từ
Thiên Chúa Cha, được các sấm ngôn CƯ loan báo. Sẽ có ngày Gia vê đuổi các mục tử
giả mạo nhà Israel để ban trách vụ mục tử cho Đấng Messia (Ed 34, 23).
Chúa Giê su loan báo giờ đó đã đến. Ngài có sứ mạng tái lập Israel thành một
đàn chiên duy nhất trung tín với Thiên Chúa. Sau đó các dân tộc khác mới được
quy tụ. Tuy nhiên giai đoạn thứ hai nầy không trực tiếp thuộc về sứ mạng của Đấng
Messia.
Chó con: Từ nầy (= kunarion)
được dùng thay từ ‘chó’ (= kuon) nhằm làm dịu bớt tính cách khinh
miệt trong lời nói của Chúa Giê su. Người Do thái thường gọi dân ngoại là ‘chó’
chứ không phải là ‘chó con’.
Lòng tin của Bà mạnh thật: Người
phụ nữ Canaan nầy đã hiểu rằng Chúa Giê su không phải là một nhà thần thông thường
thấy nào đó hoạt động một cách cá nhân, nhưng là thừa tác viên thi hành một kế
hoạch của Thiên Chúa cho một dân ưu tuyển. Bà khiêm tốn nhìn nhận rằng dân tộc ấy
được ưu tiên trong chương trình cứu độ. Đức tin của bà hệ tại ở đó.
SỨ ĐIỆP
Một ngày kia, một người ki tô hữu thấy một người hồi giáo đến
nhà thờ cầu nguyện và khi được hỏi lí do, thì người nầy trả lời: “Thiên Chúa
của anh và Thiên Chúa của tôi là một. Tôi đến nhà thờ nầy để cầu nguyện với
Thiên Chúa của chúng ta”.
Bài tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy cuộc gặp gỡ của Chúa
Giê su với một người phụ nữ Canaan. Thánh Mát thêu viết cho những người
Do thái tòng giáo. Ngài muốn nhắc cho họ nhớ rằng Đức Ki tô không chỉ đến
cho các tín hữu của dân tộc họ mà thôi, mà còn cho tất cả mọi người trên toàn
thế giới. Lời loan báo tin mừng được gửi đến với tất cả mọi người, nhờ đó, người
ngoại giáo từ khắp nơi đến với cộng đoàn Ki tô mới hình thành. Và trong số họ,
chắc chắc là có những người Ca na an ngoại giáo. Những người nầy không được nhiều
thiện cảm dưới mắt nhiều người khác. Người ta nghi ngờ họ ăn bánh của những người
Do thái ki tô giáo. Vì thế Thánh Mát thêu kể lại câu chuyện về người phụ nữ Ca
na an nhằm đưa ra một bài học cho cộng đòan Do thái
trở lại với Chúa Giê su.
Đây là một người ngoại đến với Ngài để xin chữa cho con gái của
bà bị quỉ ám. Bà nầy gốc vùng Tia và Siđôn, nay thuộc Li ban, nơi Chúa Giê su
đã lui về ít lâu trước. Đối với Do thái giáo thì đó là một người ngọai giáo. Bà
ta và dân tộc bà có thói quen bị khinh miệt như là “những con chó” nghĩa là bị
đối xử hết sức tàn tệ. Dù vậy để cứu con mình, bà tỏ ra dạn dĩ và coi thường tất
cả. Lời van xin của bà là tiếng kêu của một đức tin lạ lùng phát ra từ một người
đàn bà ngọai giáo. Dù không biết gì về căn tính đích thức của Chúa Giê su, Bà vẫn
gọi Ngài như là ‘Đấng Messia’, ‘con Vua Đa vít’, và là ‘Chúa’. Đó là những tước
hiệu dành cho Thiên Chúa nên qua đó, bà tỏ cho thấy rằng hành vi đức tin của bà
đi xa hơn nhiều người tín hữu ngoan đạo.
Lòng khiêm nhường của người phụ nầy khiến chúng ta nghĩ đến những nhà cầu
nguyện nổi tiếng bằng Kinh Thánh, đặc biệt bằng các thánh vịnh. Bà ý thức sự thấp
hèn và sự bất xứng của mình trước mặt Chúa Giê su. Lần đầu bị từ chối, bà tiếp
tục nài nỉ. Câu trả lời của Chúa Giê su có thể bị xem là cứng cõi; hơn nữa, nếu
chỉ nghe sơ qua, thì có vẻ cục bộ: “Ta chỉ được sai đến cho các chiên lạc
nhà Israen”. Nhưng nếu đọc kĩ, chúng ta sẽ khám phá ra điều nầy: các “chiên
lạc” mà Chúa Giê su nói đó không chỉ là những người tín hữu đích thật của luật
Mô sê,mà còn chỉ tất cả những người ngọai giáo mà các tiên tri và các Thánh vịnh
thường nói đến. Họ không phải là những người xa lạ đối với Thiên Chúa; họ cũng
thuộc về Ngài. Ngài đến để ban ơn cứu độ cho tất cả.
Thế rồi, một câu nói kì lạ khác : “Không nên lấy bánh của
con cái mà đem cho chó con” (Mt 15,26). Thật ra, Chúa Giê su chỉ nhắc lại
tiếng tăm người ta đồn về người Canaan: Ngài muốn cho người phụ nữ nầy một cơ hội
diễn tả trước mặt các môn đệ một đức tin mà họ tưởng là không thể có được.
Và nhờ thế mà chúng ta nghe được câu trả lời đáng khen ngợi của
người đàn bà Canaan nầy. Chủ nhà thường để cho các chó con ăn những miếng bánh
vụn từ bàn rơi xưống. Bà tin vào một Thiên Chúa có một trái tim luôn rộng mở
cho tất cả mọi người, không trừ ai. Bấy giờ Chúa Giêsu ngạc nhiên vì niềm tin
đơn sơ nhưng chân thành đó, nên đã ban cho như bà cầu xin. Bà không chỉ được những
miếng bánh vụn, mà kể từ nay, Ngài cho bà ngồi vào bànăn và được chia sẻ bánh của
con cái. Như thế, chỉ có đức tin mới quyết định Giao ước với Thiên Chúa chứ
không chỉ là việc thuộc về một dân hoặc thi hành các lề luật Mô sê.
Câu trả lời của Đức Ki tô từ đó mang một chiều kích khác. Người
phụ nữ Canaan không bị lọai trừ, không ở ngòai dân Israel đích thật. Đức tin của
bà đưa bà vào trong Vương quốc cánh chung mà Thiên Chúa đã muốn thực hiện trong
Con của Ngài. Những người ở ngoài cũng được liên kết vào việc thờ phượng Chúa
như người Do thái. “Nhà Cha Ta sẽ là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Is
56,7).
Chúa Giêsu mạc khải rằng Thiên Chúa sẵn sàng ‘bẻ khóa’ mở
cửa trước cho người sĩ quan La mã ngọai đạo đã thưa với Ngài: “Tôi
không xứng đáng cho Ngài vào nhà tôi, nhưng chỉ mói một lời và đầy tớ của Ngài
sẽ được lành mạnh”. Ngài ngạc nhiên xác nhận rằng có những người ở rất xa
Thiên Chúa đã làm một bước đi còn dài hơn cả những người tín hữu tốt nhất.
Ngày nay cũng thế, nhiều người ngoại gõ cửa chúng ta. Những
thành phần các tôn giáo khác cố gắng tìm biết sứ điệp của tin mừng. Những người
‘tin sai quấy’, những người dửng dưng, nhũng người rất xa đức tin hiện diện
trong đoàn hội chúng ta trong các lễ hôn phối và an táng. Họ tỏ ra chú ý hơn
người ta tưởng. Làm sao chúng ta đón tiếp họ? Chúng ta có gì để trao ban cho họ?
Những miếng bánh vụn hay cả chiếc bánh?
Rồi còn những người mà người ta gọi là “những kẻ mới vào”. Họ ở
xa đức tin, nhưng như người đàn bà Canaan, họ đã gặp Đức Ki tô và đã thể hiện một
bước đi ngoạn mục. Trong khi đó, những ai tự cho là tín hữu thì vẫn khư khư và
không nhúc nhich trong pháo đài antoàn của mình. Tin mừng về người phụ nữ
Canaan nầy là một bài học quí giá cho tất cả các tín hữu. Tất cả được nhắc nhở
rằng đức tin không bao giờ dễ dàng cả. Nhưng Chúa Giê su chờ đợi chúng ta một
niềm tin hoàn hảo. Với Ngài, chúng ta được mời gọi luôn luôn tiến xa hơn trong
đức tin.
Mỗi ngày chủ nhật chúng ta được nuôi dưỡng bằng “Bánh sự sống”.
Chúng ta hãy nài xin Chúa giúp đỡ chúng ta tiến trên con đường mà Ngài đến để vạch
rađể trở thành những chứng nhân đức tin và hi vọng cho tất cả những người chung
quanh.
ĐÀO SÂU
1. HỎI: Bài đọc một trích từ sách nào?
THƯA: Bài đọc một trích từ sách Isaia
thường được gọi là Sách Isaia thứ ba, từ chương 56 đến 66, được soạn tác trong
những thập niên đầu sau cuộc Lưu đày, tức là khoảng cuối thế kỉ 6 hay đầu thế kỉ
thứ 5. Nội dung nằm củng cố niềm tin người Do thái hồi hương đang thất vọng trước
thực tế khó khăn ngoài dự tưởng.
2. HỎI: Bối cảnh bài đọc một như thế nào?
THƯA: Sau 50 năm xa cách quê hương, người
lưu đày trở về thấy mọi sự thay đổi hoàn toàn. Họ phải chạm trán với nhiều vấn
đề phức tạp chưa từng có, như phải làm sao để chung sống với những người ngoại
đã chiếm cứ và đang làm chủ mảnh đất của mình. Rồi có nên tiếp nhận vào cộng
đoàn những người mới theo đạo không? Một số chủ trương cần phải giữ sự trung
thành, một số khác tỏ ra cởi mở hơn với một số điều kiện.
3. HỎI: Tiên tri trả lời như thế nào trước vấn đề ấy?
THƯA: Tiên tri truyền lại Lời
Chúa, quyết định mở cửa đón nhận những người tín hữu mới. Những ai có lòng
thành tâm muốn gia nhập cộng đoàn Do thái thì hãy mở rộng vòng tay tiếp nhận họ.
Trước những người còn hoài nghi, tiên tri nhấn mạnh đó là lệnh truyền của Thiên
Chúa.
4. HỎI: Đó có phải là điểm mới trong chương trình
cứu độ của Thiên Chúa?
THƯA: Đúng vậy. Đây là điểm quan
trọng trong chương trình cứu độ được Thiên Chúa loan báo: từ nay ơn cứu độ được
mở rộng ra cho tất cả mọi người, không trừ ai. Đó là tính cách phổ quát của ơn
cứu độ.
5. HỎI: Tiên tri có đưa ra điều kiện gì không?
THƯA: Tiên tri đưa ra ba điều kiện để
tiếp nhận: một là giữ ngày sa bát, hai là thực hành Giao Ước, ba là làm những
điều đẹp lòng Chúa.
6. HỎI: Bài đọc một gửi đến sứ điệp nào?
THƯA: Bài đọc một gửi đến sứ điệp nầy:
từ nay, bất cứ ai giữ lề luật và thi hành sự công chính đều được tiếp nhận vào
trong Nhà của Thiên Chúa.
7. HỎI: Bối cảnh bài tin mừng như thế nào?
THƯA: Sau cuộc tranh luận về ô uế
(15,1020), Chúa Giê su quyết định hướng về phía dân ngoại (c 21), tức là vùng
phía bắc Pa les ti na, là phần đất ô uế dưới mắt người Do thái vì không tuân giữ
luật trong sạch của Mô sê. Tại đó, người đàn bà Ca na an ngoại giáo đến đón gặp
Ngài (cc.22-28).
8. HỎI: Tia và Si đôn là những địa danh mang ý
nghĩa gì?
THƯA: Tia và Si đôn là cụm từ
truyền thống chỉ vùng đất dân ngoại tại vùng bắc-đông-bắc Palestina thường được
gọi là vùng Phênêkia.
9. HỎI: Thái độ im lặng kì lạ của Chúa Giê su trước
lời van nài của người đàn bà khiến người ta nghĩ đến dụ ngôn nào?
THƯA:Dụ ngôn ‘người bạn quấy rầy’ trong
tin mừng thánh Lu ca (11, 5-8) qua đó, Chúa Giê su dạy các môn đồ phải cầu nguyện
một cách kiên trì và không bao giờ được nản lòng.
10. HỎI. Tại sao Chúa Giê su giữ thái độ im lặng với
người đàn bà Ca naan; có phải Ngài tỏ ra dửng dưng với bà ta không?
THƯA. Chắc chắn là không, Chúa Giê su
biết trước các phép lạ mà Chúa Cha đã định trước để hoàn thành sứ mạng được
giao phó cho Ngài.
11. HỎI. Thế thì tại sao Ngài không quan tâm đến
yêu cầu của bà ?
THƯA: Vì Ngài muốn thử nghiệm lòng tin
của người đàn bà: đơn giản là Ngài không phải là một nhà thần thông nào đó,
nhưng là Con Vua Đa vít, nghĩa là Đấng Messia sinh ra từ dòng dõi Đa vít
12. HỎI: Cụm từ ‘Những con
chiên lạc’ chỉ ai?
THƯA:Có thể chỉ
những tội nhân ở Israel, mà cũng có thể chỉ toàn thể dân Israel, được coi như một
đàn chiên lạc mất chủ chăn của họ (9,36; 15,3-13).
13. HỎI: Tại sao Chúa Giê su trả lời Ngài chỉ được
sai đến với các chiên lạc nhà Ít ra ên?
THƯA: Thoạt nghe, câu nầy có thể
làm người ta khó chịu. Thật ra nó xác nhận sứ mạng mà Chúa Giê su nhận lãnh từ
Thiên Chúa Cha, được các sấm ngôn CƯ loan báo. Sẽ có ngày Thiên Chúa loại các mục
tử giả để ban nhiệm vụ mục tử cho Đấng Messia (Ed 34, 23). Giờ đây, Chúa Giê su
xác nhận giờ đó đã đến. Ngài đến với sứ mạng qui tụ Israel thành một đàn chiên
duy nhất trung tín với Thiên Chúa. Rồi sau đó mới quy tụ các dân tộc khác.
14. HỎI: Chúa Giê su có đòi buộc người đàn bà phải
giữ luật Mô sê không?
THƯA: Không. Ngài không đòi gì cả ngoài
đức tin.
15. HỎI: Đức tin của người đàn bà Ca na an hệ tại ở
điều gì?
THƯA: Đức tin của bà hệ tại ở ba điều:
một là bà tin rằng Chúa Giê su không phải là một nhà thần thông nào đó hoạt động
một cách cá nhân, nhưng là thừa tác viên của Thiên Chúa, hai là bà đã
không thất vọng trước thái độ khước từ của Chúa Giê su nhưng kiên trì tin tưởng
vào tình thương của Ngài. Ba là nhận thức ưu tiên của dân Ít ra ên trong chương
trình cứu độ của Thiên Chúa.
16. HỎI: Sự kiên trì của người đàn bà phát xuất từ
đâu?
THƯA: Từ lòng yêu mến con gái của
bà. Khi có lòng yêu thương, người ta sẵn sàng kiên trì trong mọi sự cho đến khi
đạt được điều mình mong ước.
17. HỎI. Đứa con gái của bà bị ma quỉ hãm hại, vậy
cả người ngoại giáo Ca na an cũng tin vào sự hiện diện của ma quỉ sao?
THƯA: Có thể là như vậy. Điều quan trọng
ở đây là nếu ma quỉ hành hạ cả những người ngoại, thì điều đó có nghĩa là ơn sủng
mà Thiên Chúa của người Do thái ban phát không chỉ dành riêng cho dân Do thái
mà thôi, mà cho tất cả các dân tộc, bởi vì tất cả đều là con cái Đấng Tối cao.
Thế nên, Chúa Giê su sẽ chữa lành con gái bà.
18. HỎI. Đâu là Giáo huấn ngang qua đọan tin mừng
nầy?
THƯA: Với sự xuất hiện trên trần gian,
Đức Ki tô đã thay đổi hoàn toàn viễn tượng Giao ước và do đó, ơn cứu rỗi mà
Thiên Chúa ban cho: từ nay viễn tượng phổ quát sẽ thay thế viễn tượng quốc gia.
Việc đi vào Vương quốc không cần điều kiện về giòng dõi nữa, mà chỉ nhờ đức tin
dựa trên nền tảng là lòng quảng đại của Thiên Chúa. Chính nhờ đức tin mà tất cả
mọi người sẽ được qui tụ trong Đức Ki tô, Con Thiên Chúa Cha. Với cái chết cứu
độ của Đức Ki tô, tất cả đều được mời vào bàn tiệc cứu độ và hiệp thông. Không
còn cảnh người thì được ăn bánh, kẻ thì chỉ được những miếng bánh vụn, nhưng tất
cả sẽ được ăn no và được sống nhờ vào Thân mình và Máu Đức Ki tô. Tất cả sẽ được
thông phần trong cùng một tấm bánh và cùng một chén rượu để làm nên một thân thể
duy nhất trong Đức Ki tô
19. HỎI. Đối với các tông đồ sau Lễ Hiện xuống, việc
nhớ lại phép lạ nầy của Thầy mình sẽ rất quan trọng?
THƯA: Đúng vậy. Và còn hơn nữa.
Thật vậy, sau lễ Hiện Xuống, các môn đệ sẽ nhìn ra trong câu truyện nầy như một
lời của Chúa Giê su mời gọi các ông loan báo Tin mừng khắp nơi.