CHỦ NHẬT 2 TN
Lời
chứng của ông Gioan
Gioan Tẩy giả nhận ra nơi Chúa Giê su là người Tôi
tớ đích thật thực hiện chương trình của Thiên Chúa. Ngài hoàn toàn để cho Thánh
Thần thấm nhập vào đời sống mình. Vì
thế, để phục vụ thế giới mới, cần phải mặc lấy Đức Ki tô, nghĩa là để cho Thần
Khí Ngài hướng dẫn chúng ta.
Sách Tiên tri Isaia 49,
3.5-6
Một vị Tiên tri tiếp nối
sự nghiệp Isaia loan báo ngày chấm dứt cuộc lưu đày ở Ba bi lon. Ông đã thấy
điều ấy thành sự thật, không qua trung gian một vị Đại vương nhưng qua một
người Tôi tớ mà ông cố gắng xác định những nét nổi bật. Đó sẽ là một nhân vật
hoàn toàn để cho Thiên Chúa ngự trị nhằm mang đến cho toàn thể vũ trụ ơn Cứu
độ.
Thánh vịnh 39
Thánh vịnh nầy là lời kinh của một người công chính
vô danh, không một ai biết đến, bị quân thù chà đạp. Nhưng Thiên Chúa sẽ ban
lại cho tôi tớ của Người sức mạnh, để từ nay ông tận tâm phục vụ Thiên Chúa và
hoàn tất hi tế duy nhất đẹp lòng Thiên Chúa.
Thư thứ 1 Côrintô 1, 1-3
Chúng ta đang ở vào năm 57, 20 năm sau cái chết của
Chúa Giê su. Thánh Phao lô tự giới thiệu mình là tông đồ của Chúa Giê su Ki tô.
Đó là tước hiệu duy nhất Ngài sữ dụng để can thiệp trong một Cộng đòan đã gắn
bó với Chúa khi đón nhận tin mừng Ngài là đấng Cứu độ. Trọn vẹn cuộc sống của
Giáo Hội tập trung vào Chúa Giê su Ki tô, vì chính Ngài đưa con người đến với
Thiên Chúa Cha.
Tin Mừng: Ga
1,29-34
NGỮ CẢNH
Sau lời tựa long trọng suy niệm về Ngôi Lời
(1,1-28), Gioan tiếp tục nói về lời chứng của Gioan Tẩy giả, mà ông đã giới
thiệu trước (6-8; 19-28). Tác giả cho biết Gioan đã thấy Chúa Giê su và làm
chứng cho Ngài, trước khi giới thiệu Ngài cho các môn đệ (35-42).
Có thể đọc bài tin mừng theo bố cục sau đây:
1. Lời chứng của Gioan: Chúa Giê su là Chiên Thiên
Chúa: (29)
2. Sự vượt trội của Chúa Giê su đối với Gioan Tẩy
giả: Phép rửa của Gioan bằng nước, còn phép Rửa của Chúa Giê su trong Thánh
Thần (30-33)
3. Lời chứng của Gioan: Chúa Giê su là Con Thiên
Chúa (34).
TÌM HIỂU
Đây là: được lặp lại ở câu 1,36. Gioan Tẩy giả
không chỉ là người loan báo đức Ki tô như các tiên tri; ông còn là người chỉ
cho người khác biết Ngài.
Chiên Thiên Chúa: tước hiệu mới của Chúa Giê su
biến Ngài thành một nhân vật độc nhất trong lịch sử. Làm sao để hiểu được kiểu
nói trong câu 1,29 (được lặp lại ở câu 1,36) nếu không có thêm chi tiết “đấng
xoá bỏ tội trần gian”? Có nhiều cách hiểu kiểu nói ấy:
a. Con Chiên Vượt qua. Trong trình thuật Khổ nạn,
Ga đưa ra nhiều ám chỉ đến việc hiến tế con chiên trong đền thờ song song với
cuộc xử án Chúa Giê su (18, 28-19, 37). Do đó, nói rằng Chúa Giê su là Chiên
Thiên Chúa có nghĩa là máu của Chúa Giê su khử trừ sự dữ, tiêu diệt tội lỗi (x.
1Ga 3,5).
b. Người Tôi Tớ của Thiên Chúa, được Is 53,7 so
sánh với «một con chiên được dẫn tới lò sát sinh ». Các ám chỉ đến người
Tôi tớ không thiếu trong tin mừng thứ tư, bắt đầu trong việc nhắc tới phép Rửa
của Chúa Giê su (1,32-33) : «Đấng mà Thánh Thần ngự trong »; trong
câu 12,38 Ga trích dẫn Is 63,1. Do đó kiểu nói « Chiên Thiên Chúa »
khiến người ta nghĩ đến Người Tôi tớ đau khổ, nhưng như vậy thì phải dịch là :
« đấng mang tội trần gian », như « tế vật đền tội » (1Ga
2,2).
c. Cách hiểu thứ ba có lẽ phù hợp nhất với lối suy
nghĩ của Gioan Tẩy giả, như chúng ta có thể thấy trong các Tin Mừng Nhất Lãm:
ông loan báo sẽ đến đấng “cầm nia trong tay” (Mt 3,12). Như thế ý tưởng
của ông trùng hợp với quan niệm khải huyền, được diễn tả trong nhiều bản văn
thời đó, về một Con Chiên Hoàng vương chiến đấu chống lại các thú dữ và tiêu
diệt thế giới gian tà (x. Kh 14,10 ;17,14). Tuy nhiên ở đây hình ảnh Híp
pri đã được đức tin Ki tô hoạ lại: trong Kh, cuộc chiến của Con chiên là sự
chết của Ngài và trên môi miệng của vị Tẩy giả, đối tượng bị đánh bại không còn
phải là các tội nhân nữa, mà là tội lỗi trần gian bị Con Chiên Thiên Chúa xoá
đi.
Sau tôi: theo thời gian thì Chúa Giê su đến sau vị
Tẩy giả. Nhưng “sau tôi” còn có nghĩa là “đi theo sau tôi”; đó là chỗ mà
người môn đệ bước theo sau vị thầy của mình. Thực tế thì Chúa Giê su đi trước
như vị Thầy, hoặc như vị mục tử (10,4). Gioan còn nhìn xa hơn: Chúa Giê su đã
có “trước ông”. Ngôi Lời hiện hữu “ngay từ khởi nguyên nơi cung lòng Thiên
Chúa” (1,1-2). Chi tiết thứ hai làm phong phú cho hình ảnh Chúa Giê su.
Tôi đã không biết Người: x.c. 26. Lời nầy được lặp
lại ở câu 1,33, sẽ khiến người ta ngạc nhiên khi nhớ đến câu Lc 1,41. Do đó,
phải hiểu về mầu nhiệm của Chúa Giê su như sau: không ai, cả ông Gioan Tẩy Giả
có thể tự mình mà biết Ngài. Cần phải có sự mạc khải của Cha (x. 6,44).
Làm chứng: cuộc thần hiển trong phép rửa Chúa Giê
su còn được các tin mừng nhất lãm kể lại. Theo tin mừng thứ tư, vị Tẩy Giả làm
chứng rõ ràng, là người duy nhất, dường như thấy “Thánh Thần từ trời ngự xuống”
sau khi cũng chỉ mình ngài đã nghe tiếng nói của “đấng đã đưa ngài đi chịu phép
rửa”.
Tuy nhiên cả bốn trình thuật đều cho biết ý nghĩa
của những gì xảy ra ở sông Giorđanô. Đấng Messia được chờ đợi là chính Chúa Giê
su, bởi vì Ngài được chính Thánh Thần xức dầu.
Chim bồ câu: chim bồ câu được nói tới ở đây chỉ có
tính cách so sánh (tựa như). Khác với các tin mừng nhất lãm, Ga ít nhấn mạnh
đến chi tiết nầy.
Thần Khí: xác định cuối cùng về Chúa Giê su: Ngài
là đấng mà Thần Khí ngự xuống và lưu lại một cách sung mãn : “Thần
khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị nầy” (Is 11,2).
Chúa phán “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ […]
Ta cho thần khí Ta ngự trên Người” (Is 42,1). Đối với Gioan Tẩy giả, Chúa Giê
su là một người có liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa.
Làm phép rửa trong Thánh Thần: vì có Thần Khí, nên
Chúa Giê su có thể ban phát Thần Khí (3,34). Phép rửa trong Thần Khí chỉ có sau
khi Ngài sống lại (20,22), khi các môn đệ bắt đầu tin. Bấy giờ Thần Khí không
ngừng tuôn đổ xuống.
Tôi đã thấy: so sánh với Mt 3,17; Mc 1,11; Lc
3,22.
Đấng Thiên Chúa tuyển chọn (= Con Thiên Chúa): chỗ
nầy một vài thủ bản cổ ghi “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (x. Is 42,1). Còn “Con
Thiên Chúa” thì hợp với lời của Cha được các Tin mừng nhất lãm thuật lại (x. Mc
1,11). Ngoài ra, kiểu nói ấy còn là tước hiệu dành cho các vua, nhất là đấng
Messia được loan báo (x.1,49). “Ta sẽ là Cha nó, và nó sẽ là con Ta” (2 Sm
7,14).
Trong tin mừng Ga, tước hiệu ấy vừa giữ lại ý
nghĩa đã có trong truyền thống thánh Kinh, vừa có thêm ý nghĩa mới mà niềm tin
ki tô gán cho.
Thần khí đã tỏ hiện. Đối với Thiên Chúa, Chúa Giê
su là Con đối với Cha mình. Ngay từ khung cảnh đầu tiên, tác giả tin mừng đặt
trên miệng của vị Tẩy giả điều cốt yếu trong mạc khải mà Ngài sẽ dạy về chính
mình.
SỨ ĐIỆP
Tất cả ba bài đọc hôm nay đều gửi đến chúng ta một
sứ điệp hi vọng.
Thật vậy, bài đọc thứ nhất Isaia nói: “Tôi được
Đức Chúa trân trọng và Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi”. Lời nói trên một
lần nữa giúp dân Israen xác tin rằng Thiên Chúa yêu thương và trân trọng họ như
thế nào, và Người không bao giờ bỏ rơi dân của Ngài.
Thế nhưng, khi Isaia viết bản văn nầy, mọi sự
dường như đi ngươc lại. Dân Israên đang phải gánh chịu nhiều nỗi tai ương.
Thành thánh Giêrusalem bị phá hủy. Dân cư bị lưu đày đến đất ngọai bang. Phẩm
giá, đức tin và văn hóa của họ không còn đươc các lân bang nhìn nhận nữa Xa quê
hương họ tự nhủ không biết có ngày nào được trở về cố hương không. Nhưng chính
lúc ấy, lúc mà tất cả coi như đã bị mất, thì vị Tiên tri đã gửi đến sứ điệp hy
vọng nầy.
“Thế nên
tôi được Đức Chúa trân trọng”. Nói cách khác, mọi người có thể khinh dễ, nhạo
báng anh em, nhưng không gì có thể ngăn cản Thiên Chúa yêu mến anh em. Thi hành
sứ mạng tiên tri trong tình thế có vẻ tuyệt vọng tức là tiếp tục cậy dựa vào
Chúa là sức mạnh của chúng ta, dù phải đối đầu với những lời chế nhạo và bất
tín của người đời.
Trong bài đọc thứ hai, thánh tông đồ Phao lô nói
với những người trở lại cũng đang sống trong một tình thế đầy khó khăn. Trong
số họ, có những người bị khinh dễ vì họ đến từ một môi trường lây nhiễm văn hóa
ngọai đạo. Thế nhưng đó lại là nơi mà Thiên Chúa chọn lựa để Tin mừng đã được
rao giảng. Thánh Phao lô nói với họ rằng: “Anh em đã được thánh hóa trong Đức
Ki tô Giê su. Anh em là một dân thánh”. Đó là một cách khác nói với họ rằng:
“Anh em được trân trọng trước mặt Chúa”.
Bài tin mừng hôm nay cũng đi theo chiều hướng ấy,
Gioan Tẩy giả đã nhận ra Đấng Messia. Thiên Chúa Cha đã gọi Ngài là Con yêu
dấu. Đức Giê su người Na gia rét mà bề ngoài không gì khác biệt với mọi người
đã đến với Gioan để lãnh nhận phép rửa do ông thực hiện. Và ông đã nhận ra Ngài
là Chiên Thiên Chúa. Đó là một cách cho thấy Con Thiên Chúa được Thiên Chúa Cha
trân trọng và yêu mến.
Cả ba bài đọc gặp nhau vì cả ba đều mang đến tin
mừng. Chúng nói với chúng ta về tình yêu và tất cả những trân trọng mà Chúa
dành cho chúng ta. Tất cả chúng ta đều có giá trị trước mắt Thiên Chúa. Vì thế,
chúng ta không được phép tuyệt vọng về chính mình: “Tôi có đáng gì đâu”. Chúng
ta cũng không được nói về người khác rằng họ không là gì cả. Xét đoán một ai đó
là một cách thủ tiêu người khác. Điều đó hoàn toàn đi ngược lại tình yêu Thiên
Chúa luôn coi chúng ta tất cả như là của quí giá nhất của Ngài. Chính vì từng
người và tất cả mọi người mà Ngài đã chết trên thập giá.
Dĩ nhiên trong đời, chúng ta vẫn còn phạm những
sai lầm, vẫn còn nhiều khuyết điểm, vẫn còn chịu nhiều nỗi bất hạnh. Nhưng Chúa
yêu thương chúng ta như chúng ta đang là. Người gắn bó với từng người đến nỗi
Người có thể đến tìm chúng ta từ rất xa và từ rất thấp. Vì thế, chúng ta phải
rút ra các kết luận: Nếu Thiên Chúa đánh giá cao chúng ta, thì chúng ta không
có quyền thất vọng về chính mình cũng như về người khác. Đức Ki tô là đấng đến
nâng chúng ta chỗi dậy. Không gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của
Ngài.
Ba bài đọc muốn mời gọi chúng ta tìm gặp tất cả
những người mà cuộc đời bạc đãi và đối xử một cách cay đắng: đó là các nạn nhân
của những bất công và bị khinh bỉ, nên khó tin rằng họ được mọi người quan tâm.
Những người đau khổ vì bệnh tật thường cảm nhận mình bị gạt bên lề. Những người
khác đầy mặc cảm bởi vì khả năng của họ
không được người khác công nhận hoặc đánh giá đúng mức.
Nhưng lòng yêu thương của Thiên Chúa thì vô giới
hạn. Không một ai bị lọai trừ. Đặc biệt những người thuộc thành phần hèn kém
nhất trong xã hội nhưng lại có chỗ nhất trong tình yêu của Thiên Chúa. Chính
giá trị ban cho mỗi người đã làm cho họ sống, thế nên, số phận một người thường
được quyết định trong cái nhìn mà chúng ta có về họ. Cái nhìn đó có thể là độc
ác hay nhân từ, tàn nhẫn hay đón tiếp, dửng dưng hay chú ý. Điều quan trọng là
lời nói của mỗi người phải được lắng nghe và đánh giá. Một ngày nọ, có một chị
nữ tu đã ngồi lắng nghe một bệnh nhân nói trong suốt một giờ đồng hồ. Cuối
cùng, người nầy đã nói với chị: “Chị đã giúp đỡ tôi rất nhiều”. Sự thật thì chị
nữ tu ấy có làm gì ngoài việc chú ý lắng nghe những gì anh ta nói. Đối với chị
đó là một cách tỏ ra cho người kia biết rằng họ là người quan trọng.
Đức Ki tô nhìn chúng ta bằng một cái nhìn đầy yêu
thương. Ơn cứu độ của Ngài ban cho tất cả mọi người. Đó là tin mừng mà chúng ta
phải mang đến cho tất cả mọi người chưa nhận biết Thiên Chúa. Chúng ta hãy xin
Chúa giúp chúng ta để có một cái nhìn như Ngài về chúng ta và về tất cả những
người chung quanh, một cái nhìn đầy yêu thương và quí mến.
Hiệp với nhau chúng ta cùng hướng về đấng yêu
thương chúng ta như là của quí giá nhất của Ngài. Ngài là Đường là Sự thật và
là Sự sống, đấng duy nhất có thể dẫn chúng ta đến với Cha.
ĐÀO SÂU
ĐỨC GIÊ-SU,
NGƯỜI TÔI TỚ TUYỆT HẢO CỦA THIÊN CHÚA
Is 49,3. 5-6
Người tôi tớ Thiên Chúa là ánh sáng cho muôn dân
Tv 40,2
Lạy Chúa, nầy con xin đến để thi hành thánh ý Chúa
1Cr 1,1-3
Thánh Phao-lô ngỏ lời chào Hội Thánh Chúa ở Cô-rin-tô
Ga 1,29-34
Đây là Chiên Thiên Chúa, đấng gánh tội trần gian Ngươi
1. HỎI: Các
bài đọc được liên kết theo chủ đề gì?
THƯA: ĐỨC GIÊ-SU, NGƯỜI TÔI TỚ
TUYỆT HẢO CỦA THIÊN CHÚA. Gio-an Tẩy giả tiếp nhận và giới thiệu cho các đồ đệ
của ông Đấng Tôi tớ tuyệt hảo là Đức Giê-su. Chỉ có Ngài mới hoàn thành vai trò
‘ánh sáng cho muôn dân’ (BTM) vì Ngài mạc khải tình yêu của Cha trong suốt cuộc
sống của mình, không những cho chúng ta mà còn cho tất cả các dân tộc (Bđ1).
2. HỎI: Có
mấy bài ca về người Tôi tớ trong sách Tiên tri I-sai-a?
THƯA: Có bốn: Bài 1 trong Is
42,1-9, bài 2 trong Is 49, 1-7; bài 3 trong Is 50, 4-9; và bài 4 trong Is
52,13-53,12. Tuy cả bốn đều phát họa diện mạo đấng mà tiên tri gọi là “Người
Tôi tớ của Thiên Chúa”, nhưng mỗi bài nhấn mạnh những đường nét riêng biệt.
3. HỎI: Bài
ca thứ nhất có những điểm chính yếu nào”
THƯA: Bài ca thứ nhất (42,1-9)
có ba điểm quan trọng sau đây: thứ nhất, người Tôi tớ được Thiên Chúa chọn lựa
cho một sứ mạng rõ ràng; thứ hai, sứ mạng ấy nhằm xét xử loài người theo nghĩa cứu độ; thứ ba,
cứu thoát những người bất hạnh thuộc mọi lãnh vực, và thứ tư sứ mạng ấy bao trùm
toàn thể nhân loại.
4. HỎI: Đấng
Cứu độ là ai?
THƯA: Trong bài ca thứ nhất (Is
42), người ta chưa thấy rõ diện mạo của đấng cứu độ nhưng trong bài ca thứ hai
(Is 49), với những đường nét rõ ràng hơn thì đó là người tôi trung của Thiên
Chúa, là dân Ít-ra-en.
5. HỎI: Câu:
“Hỡi Ít-ra-en, ngươi là tôi trung của Ta. Ta sẽ dùng ngươi để biểu lộ vinh
quang” (Is 49,3) có nghĩa là gì?
THƯA: Nghĩa là nơi dân
Ít-ra-en, tôi trung của Thiên Chúa, Người sẽ được tỏ hiện, được nhận biết, và
được mạc khải trong vinh quang nghĩa là trong công trình cứu độ của Người.
6. HỎI: “Dân
Ít-ra-en là tôi tớ Thiên Chúa” có nghĩa gì?
THƯA: Tước hiệu ‘tôi tớ’ mà
Ít-ra-en nhận được trong cuộc lưu đày có hai nghĩa: một là được Thiên Chúa bảo
đảm và nâng đỡ, hai là có sứ mạng tin vào ơn cứu độ và làm chứng để thế gian
tin nhận Ngài là đấng Cứu độ.
7. HỎI: Thế
nào là ‘Ánh sáng muôn dân’?
THƯA: Ơn gọi của Đấng Cứu thế
là trở thành phương tiện Thiên Chúa sử dụng để mang ơn cứu độ đến với toàn thể
mọi người.
8. HỎI: Như
vậy với các bài ca về ‘Người Tôi tớ Thiên Chúa’ niềm mong đợi thiên sai đã thay
đổi?
THƯA: Đúng thế. Với những mô tả
trong các bài ca, diện mạo đấng Cứu thế không còn là Đấng Mê-si-a-Vua nữa, mà
trở thành Đấng Mê-si-a-Tôi tớ.
9. HỎI:
‘Người Tôi tớ Thiên Chúa’ là một tập thể hay một cá nhân?
THƯA: ‘Người Tôi tớ Thiên Chúa’
là một tập thể, là dân Ít-ra-ên, là số Sót gồm những người kiên trì trong đức
tin giữa cuộc lưu đày. Chính họ là những người mà Thiên Chúa giao phó sứ mạng
nâng đỡ đức tin anh em mình, qui tụ họ để dẫn họ về lại quê hương.
10. HỎI: Nội
dung bài đọc 2 (1Cr 1,1-3) như thế nào?
THƯA: Trong lời mở đầu bức thư,
thánh Phao-lô tự giới thiệu là ‘Tông đồ của Đức Giê-su Ki-tô’ ngỏ lời với những
ai kêu cầu Danh Đức Giê-su, Chúa chúng ta.
11. HỎI: Ngữ
cảnh bài tin mừng (Ga 1, 29-34)
như thế nào?
THƯA: Sau lời mở đầu Tin mừng
(1,1-18) dành để nói về Ngôi Lời của Thiên Chúa và giới thiệu Gioan Tẩy
giả, trong phần kế tiếp Gio-an dành cho
tuần đầu tiên sứ vụ Đức Giê-su (1, 19-2,12) mở đầu là lời chứng của Gioan Tẩy
giả (29-34), và thâu nạp các môn đệ đầu tiên. (35-51). Có 2 ý chính: Gioan làm
chứng rằng Đức Giê-su là: 1. Chiên của Thiên Chúa (1,29-31); 2. Con của Thiên
Chúa (1,32-34).
12. HỎI:
‘Con Thiên Chúa’ có nghĩa gì?
THƯA: Ở đây, tước hiệu ‘Con
Thiên Chúa’ có nghĩa là Đấng Mê-si-a. Đối với Gio-an Tẩy giả, đó là cách nói
rằng Đức Giê-su thật là Đấng Mê-si-a mà người ta trông đợi, đấng phải đến để
mang lại hạnh phúc hoàn hảo cho trần gian.
13. HỎI: Tại
sao tước hiệu ‘Mê-si-a’ và ‘Con Thiên Chúa’ tương đương với nhau?
THƯA: Vì khi được tấn phong lên
ngôi, vua Ít-ra-ên nhận được hai tước hiệu ấy. Nghi thức xức dầu biến ngài
thành một người được hiến thánh, một đấng Mê-si-a (= Đấng được xức dầu). Còn
tước hiệu Con Thiên Chúa xuất phát từ việc Ngài là Vua và từ nay, Thiên Chúa sẽ
hướng dẫn và gìn giữ Ngài trong mọi lúc.
14. HỎI:
Điều gì đã khiến Gio-an Tẩy giả khẳng định một cách chắc chắn rằng Đức Giê-su
chính là Đấng Mê-si-a của Ít-ra-ên?
THƯA: Vì chính ông đã tận mắt
nhìn thấy Thánh Thần ngự xuống và ở với Ngài. Từ nay mọi hành động của Ngài làm
cũng là hành động của Chúa Thánh Thần.
15. HỎI:
Thời ấy, dân Do thái chờ đợi đấng Mê-si-a nào?
THƯA: Thời ấy, phần lớn dân Do
thái chờ đợi một Đấng Mê-si-a-Vua: Vị Vua nầy sẽ ngự trị ở Giê-ru-sa-lem sau
khi đã giải thoát toàn dân khỏi ách nô lệ La mã. Chính Ngài sẽ mang lại an
ninh, hòa bình và hạnh phúc cho mọi người.
16. HỎI: Đức
Giê-su có đáp ứng lòng mong đợi đó không?
THƯA: Không. Ngài không phải là
Đấng cứu độ trần thế như lòng mong đợi của người Do thái, nhưng là Đấng Cứu độ
giải thoát con người khỏi vòng tội lỗi làm băng hoại con người.
17. HỎI:
‘Chiên Thiên Chúa’ có nghĩa gì?
THƯA: ‘Chiên Thiên Chúa’ có
nghĩa là Con Chiên do chính Thiên Chúa ban tặng. Khi I-sa-ac hỏi cha: “Còn con
chiến tế hiến ở đâu?” Abraham trả lời: “Chính Thiên Chúa sẽ cung cấp cho chúng
ta, con à”. Ở đây, chiên Thiên Chúa ám chỉ đến Người Tôi tớ của Thiên Chúa mà
bài ca Tiên tri I-sai-a đã nói tới: Ngài được ví như con chiên vô tội mang lấy
tội lỗi của muôn người.
18. HỎI: Khi
Gio-an Tẩy giả nói rằng Đức Giê-su là Chiên Thiên Chúa, ông muốn nói gì?
THƯA: Ông muốn giới thiệu Ngài
như là đấng cứu độ loài người, là Chiên Vượt qua. Ngài được Thiên Chúa lựa chọn
và sai đến trần gian để thực hiện việc cứu độ loài người. Ngài là đấng vô tội
hiến mạng sống mình để cứu thoát tất cả mọi người.
19. HỎI:
Việc nhắc đến người tôi tớ trong I-sai-a có giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm
không?
THƯA: Có. Tiên tri I-sai-a đã
loan báo rằng công việc cứu độ nhân loại không phải là công việc của một người
đơn độc, nhưng là của cả một dân tộc. Ki-tô hữu trên toàn thế giới họp thành
một dân tộc mà Thánh Phao-lô gọi là “Thân Thể Đức Ki tô”. Thân thể mầu nhiệm ấy
tăng trưởng mạnh mẽ để cho Thánh Thần Thiên Chúa hoạt động và hướng dẫn.
20. HỎI:
Sống sứ điệp Lời Chúa như thế nào?
THƯA: 1. Hiểu biết và tin thật Đức Giê-su là Con Yêu Dấu, là Người
Tôi Trung và là Sứ Giả của Thiên Chúa. 2. Cảm tạ Thiên Chúa đã mời gọi và tuyển
chọn chúng ta và giao cho chúng ta sứ mạng giới thiệu Chúa Giê-su Ki-tô cho
đồng loại. 3. Hăng say nhiệt thành với sứ mạng làm chứng và giới thiệu Con
Thiên Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô cho những người chung quanh, bằng lời nói, việc
làm, sách báo và nhất là cách sống Phúc Âm.
GLCG 523 712, 720. Thánh Gio-an Tẩy Giả đã được
sai đến ( x.Cv 13,24) để trực tiếp dọn đường cho Đức Ki-tô ( x.Mt 3,3). 608 523
517. Sau khi chấp nhận ban phép rửa cho Đức Giê-su giữa những kẻ tội lỗi (x. Lc
3,21; Mt 3,14-15), Gio-an Tẩy Giả đã thấy và giới thiệu Người : "Đây là
Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian" (Ga 1,29) ( x. Ga 1,36). Như
vậy ông cho thấy rằng Đức Giê-su vừa là Người Tôi Tớ đau khổ, im lặng chịu dẫn
đến lò sát sinh (Is 53,7) (x. Gr 11,19) và gánh tội lỗi muôn dân (x. Is 53,12),
vừa là Chiên Vượt Qua biểu tượng cho việc Ít-ra-en được cứu chuộc trong cuộc
Vượt Qua lần đầu (Xh 12,3-14) ( x. Ga 19,36; 1Cr 5,7). Toàn bộ cuộc đời của Đức
Ki-tô diễn tả sứ mạng của Người là "hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá
chuộc muôn người" (Mc 10,45).