LỄ HIỂN LINH
Hiển linh có nghĩa là Thiên Chúa xuất hiện hữu hình giữa chúng ta. Chúa Giê su là Ánh sáng vĩnh cửu đã đến chiếu soi bóng tối trần gian. Nhưng “bóng tối không tiếp nhận Ánh sáng”. Để nhận biết ánh quang rạng ngời của Thiên Chúa, cần phải dứt khoát với bóng tối tội lỗi và chấp nhận đi theo ánh sao, chấp nhận tìm một điều gì khác hơn điều chúng ta đang chờ đợi.
Sách tiên tri Isaia 60,1-6
Vào lúc trở về từ nơi lưu đày, nhiều người Do thái chọn ở lại nước ngòai. Đền thờ Giêrusalem vẫn chưa được tái thiết. Còn thành Giêrusalem chỉ là một quận nhỏ trong đế quốc Ba tư. Nhưng Tiên tri đã nâng đỡ niềm Hi vọng bằng cách loan báo rằng sẽ có một ngày Kinh Thành hoang tàn đó sẽ là trung tâm của Vũ trụ.
Thánh vịnh 71
Thánh vịnh “hoàng vương” diễn tả niềm mong đợi một Vị Vua lí tưởng sẽ đến để hoàn tất công trình của vua Đa vít. Vị Vua ấy sẽ mang đến Công Chính, An Bình, Phúc lành, Quyền năng và sẽ giải thoát tất cả những ai đang đau khổ vì bị nghiền nát. Trong Người sẽ qui tụ tất cả mọi dân nước trên trần gian.
Thư Êphêsô 3,2-3a.5-6
Vào lúc cuối đời, tù nhân Phao lô suy tư về ý nghĩa Công trình của Thiên Chúa. Phải qua một thời gian dài nẩy mầm để con người có thể tiếp nhận mầu nhiệm Thiên Chúa trong tất cả ánh quang của nó. Mầu nhiệm ấy được diễn đạt bởi sự giao hòa của tất cả mọi người bên kia những tranh chấp. Nơi nào Thánh Thần giúp con người nhận ra mầu nhiệm ấy, nơi đó bừng lên ánh sáng.
Tin mừng Mt 2,1-12
NGỮ CẢNH
Với chương 2, hành động của Thiên Chúa và con người gặp nhau và tạo thành lịch sử đậm nét bi kịch của Chúa Giê su, Con Thiên Chúa. Sau khi đã mô tả cây ân sủng (1,1-17), Mt trình bày tin mừng của ân sủng, sự mạc khải, quà tặng của Thiên Chúa cho các dân ngoại. Sau sự cắm rễ trong thời gian, giờ đến sự phát triển trong không gian; sau khi đến trần gian trong im lặng, giờ Ngài tỏ hiện cho muôn dân.
Mt muốn chứng minh rằng Tin Mừng được ban tặng cho lòai người, đã không được tất cả tiếp nhận, trước hết là dân Do Thái, những địa chỉ đầu tiên.
Câu truyện về các nhà Chiêm tinh được trình bày theo dạng một lược đồ tương ứng với các giai đoạn của cuộc hành trình mà các nhà truyền rao Tin Mừng đã trải qua: đến Giê ru sa lem (2,1-2), gặp gỡ vua Hêrôđê (2,3-8), các nhà Chiêm tinh đến nơi ở của hài nhi (2,9-11) và cuối cùng họ ra đi (2,12)
TÌM HIỂU
Khi Chúa Giê su ra đời tại Bê lem: qui chiếu đơn giản đến biến cố Chúa Giê su giáng sinh trong sách Tin mừng Mt. Về nơi giáng sinh là Bê lem, Mt giống với Lc trong 2,4-7.
Vua Hêrôđê: là người gốc Iđumêô, thuộc dòng dõi Esau. Ông là một kẻ soán ngôi, dù cai trị trên phần đất Galilê nhưng lại không thuộc chi tộc Giu đa, cũng chẳng thuộc dòng vua Đa vít. Tước hiệu là Vua (từ nầy được lặp lại một lần nữa ở 2,3 rồi biến mất) đối lại với Chúa Giê su là Vua thực của người Do Thái.
Mấy nhà chiêm tinh: là những nhân vật quan trọng ở các nước ngoại giáo, chuyên về khoa học, đặc biệt khoa thiên văn. Chúng ta không biết là bao nhiêu vị và từ đâu đến. Lòng đạo đức bình dân cho là ba vị, vì có ba phẩm vật dâng cho Chúa (2,11) và trong Tv 72,10. Tác giả Mt thì không nói gì về vấn đề nầy cả.
Từ phương Đông: bản văn chỉ ghi chú đơn giản mà không chính xác là từ đâu. Tuy nhiên phương Đông là nơi phát xuất của nhiều điều: là nơi mặt trời mọc, là nơi Abram khởi hành. Như thế các vị nầy theo gót chân của Abram đi về hướng đất hứa.
Đức Vua dân Do Thái: đây là cách nói của người ngoại về Chúa Giê su: Philatô (27,11), quân lính La mã (27,29), bảng gắn trên thánh giá (27,37), vua Hêrôđê trái lại dùng kiểu nói Híp pri “Đấng Messia” (2,4). Các nhà chiêm tinh biết rằng Đấng Messia mà người Do Thái trông đợi đã sinh ra. Họ là những người đầu tiên biết điều đó giống như các mục đồng ở trong Lc 2,11. Thiên Chúa đã soi sáng họ khi cho họ biết trước.
Vì sao của Người: là dấu chỉ trên trời cho thấy ánh sáng của Thiên Chúa. Việc can thiệp của các nhà chiêm tinh mang ý nghĩa sâu xa là họ được lôi kéo và hướng dẫn bởi một sự soi sáng bên trong tâm hồn. Mt gợi ý một sự đối chọi giữa vì sao nầy với “vì sao của Gia cóp” mà tiên tri Balaam ngoại đạo đã nói đến (Ds 24,17).
Bái lạy Người: cử chỉ nầy chỉ dành riêng cho Thiên Chúa. Niềm tin của các nhà chiêm tinh thể hiện qua thái độ tiến đến với Hài nhi (“các ông đã thấy và đã đến”), không hề có ý định chính trị, nhưng chỉ là cầu nguyện và thờ phượng (“và họ đã dâng cho Ngài lễ vật”) (2,11).
Bối rối: lẽ ra nhà vua và toàn dân phải vui mừng trước tin một vì vua mới sinh ra. Nhưng tại sao họ lại bối rối? Vì Đấng Messia mà họ trông chờ không hợp với những kì vọng của họ. Do đó, Chúa Giê su sẽ bị từ khước và bị bách hại. Giê ru sa lem thành thánh sẽ trở thành kinh thành từ chối. Chúng ta đừng quên rằng, khi Mt viết trình thuật nầy thì thành Giê ru sa lem đã bị tàn phá, dường như đó là dấu chỉ bị Thiên Chúa nguyền rủa.
Triệu tập: Hêrôđê không sẵn sàng chấp nhận một vì vua khác. Vì chính ông đang là Vua. Vì thế ông cho tham khảo ý kiến nơi các nhà thông thái Kinh Thánh. Nên để ý ở đây xuất hiện cụm từ “các Thượng tế và kí lục” mà người ta sẽ gặp lại trong khi họ âm mưu chống lại Chúa Giê su (21,15; 17,3) hay dưới chân thập giá (27,41).
Trong sách ngôn sứ: lời sấm ngôn sứ Mikêa tôn vinh Bết lê hem vì nơi đó vua Đa vít đã sinh ra như khởi đầu cho niềm hy vọng Thiên Sai, chứ không chủ ý chính xác chỉ ra nơi Chúa Giê su sinh ra. Mt lặp lại lời sấm nầy vì đã nhìn thấy một ám chỉ đến nguồn gốc Đa vít của Chúa Giê su. Lời trích dẫn không theo bản văn Mikêa nhưng lại kết hợp với câu 2Sm 5,2.
Vời các nhà chiêm tinh đến: Hêrôđê không muốn để lộ âm mưu chống lại Hài Nhi, nên bí mật cho vời các nhà chiêm tinh đến, trao cho họ những chỉ dẫn cần thiết, và hỏi thêm về thời giờ xuất hiện của Ngôi sao. Điều nầy cắt nghĩa lệnh giết các hài nhi dưới hai tuổi (2,16).
Phái các vị ấy đi: chi tiết nầy cho thấy sự tiếp đón cuối cùng của Hêrôđê, tức là của người Do thái đối với những người ngoại nầy. Đức tin của người ngoại đã vượt trên đức tin của dân Do Thái.
Ngôi sao: không một người Do thái nào ở Giêrusalem đã đi theo họ. Chỉ có niềm tin cùng với họ lên đường đi tìm Chúa. Mt nhấn mạnh đến niềm vui khi họ gặp lại ngôi sao chỉ đường.
Hài Nhi: vì sao chỉ là dấu chỉ, và đây là Hài Nhi, là ánh sáng đích thực. Sau cuộc hành trình đức tin, giờ đây là sự chiêm ngắm Đấng Messia.
Maria: việc chỉ nói tới Đức Maria mà không nói tới ông Giuse một lần nữa là dấu cho thấy sự tượng thai đồng trinh của Chúa Giê su (1,16.20.25). Mầu nhiệm nầy cùng với việc kêu gọi dân ngoại ưu tiên vào ơn cứu độ đi đôi với nhau cho thấy Thiên Chúa đã thực hiện một điều mới mẻ (x. Gr 31,22).
Mở bảo tráp: đây là những lễ vật quí giá nhất thời đó kèm theo sự nhìn nhận thần tính của Chúa Giê su. Lẽ ra những lễ vật nầy phải được tiến dâng nơi đền vua ở Giêrusalem (theo Tv 72,10-11.15), thì lại đến Bết lê hem, trong một căn nhà không có một chút gì là đền vua, và dâng cho một đứa bé ốm yếu. Nhưng đứa bé nầy là VuaThiên Sai, nhà của Ngài là biểu tượng cho Giáo Hội.
Đã đi lối khác: Thiên Chúa can thiệp qua một giấc mơ, báo cho các nhà chiêm tinh, một khi đã tìm thấy Đấng Messia rồi thì không cần trở lại Giê ru sa lem nữa. Một con đường khác được mở ra cho họ và mọi ki tô hữu thuộc mọi dân nước.
SỨ ĐIỆP
Tiếp nối lễ Giáng sinh, hôm nay chúng ta mừng lễ Hiển linh. Bài tin mừng kể cho chúng ta nghe câu truyện về các nhà đạo sĩ từ Phương đông đi tìm Chúa Cứu thế; họ đã lên đường sau khi đã khám phá ra một vì sao mới báo tin một vị Quân vương vừa sinh ra.
Theo não trạng của người đông phương, thì đó là chuyện thường tình: một vì sao mới xuất hiện trên bầu trời đánh dấu một nhân vật lớn sinh ra. Điều bình thường trong thế giới ngoại giáo cũng xảy ra trong do thái giáo. Ngôi sao là biểu tượng loan báo Đấng Messia, đã xuất hiện trong Kinh Thánh. Ánh sao lạ dẫn đường các đạo sĩ đến gặp Chúa Giê su là một trong những cách mà Thiên Chúa thường dùng để hướng dẫn con người tìm kiếm Ngài. Đối với các thầy tư tế ở Giêrusalem, thì đó là lề luật giúp họ biết nơi Đấng Messia phải sinh ra. Còn đối với chúng ta ngày nay, thì chắc chắn là Tin mừng và phép Thánh Thể.
Thật vậy, ngày hôm nay Thiên Chúa vẫn còn ban cho chúng ta nhiều dấu hiệu, giống như những vì sao lạ chỉ đường cho chúng ta đến với Ngài; đối với người nầy thì đó là chứng từ của cuộc sống của một ai đó; đối với người khác, thì có thể là một chuyến hành hương; đối với một số người khác nữa, thì có thể là kết quả của một cuộc gặp gỡ hay đọc một quyển sách. Tất cả các dấu chỉ trên và nhiều dấu khác nữa chỉ thực sự có ý nghĩa nếu chúng đưa chúng ta đến với Đức Ki tô. Chúng giống như bàn tay chỉ cho chúng ta một con đường để theo.
Vì thế, Lễ Hiển linh hôm nay mang ý nghĩa Đức Ki tô tỏ mình ra cho những ai chưa biết Ngài. Các đạo sĩ từ phương Đông đến là những người ngọai quốc. Họ không biết Thiên Chúa vì họ không thuộc về dân của Người. Khi viết tin mừng, thánh Mát thêu nói với những người ki tô hữu gốc do thái đang gặp nhiều khó khăn để chấp nhận điều ấy. Sự hiện diện của các nhà đạo sĩ muốn nói với chúng ta rằng tất cả các dân tộc đều qui hướng về Vua Cứu độ. Thiên Chúa đã đi vào trong một dân tộc cụ thể; nhưng không phải để bỏ rơi các dân tộc khác. Tất cả mọi người đều có chỗ của mình trong đoàn người các nhà đạo sĩ. Vì thế, lễ Hiển linh là lễ của tất cả những kẻ đi tìm Thiên Chúa. Ngày nay, có nhiều người đặt vấn đề về Người. Có những người rất ngưỡng mộ sứ điệp tin mừng, nhưng do dự trước bước quyết định dứt khoát dẫn họ đến máng cỏ. Sự do dự của họ làm chúng ta suy nghĩ. Có thể điều ngăn cản họ đó là cuộc sống của người Ki tô hữu. Họ nhìn thấy chúng ta vẫn cứ giam mình trong ý tưởng mà không dám làm chứng bằng một đức tin thực sự sống động.
Tin không phải chỉ là bằng lòng chấp nhận những chân lí mạc khải; nhưng trước tiên đó là đứng dậy, hành động, là tiếp tục tìm kiếm. Thiên Chúa của chúng ta luôn luôn ở bên kia ý tưởng mà chúng ta có về Ngài. Ngày hôm nay chúng ta khám phá thấy rằng Ngài đang hoạt động trong tâm hồn của tất cả mọi người, dù tin hay không. Ngài yêu thương quan tâm đến tất cả mọi người, và chỉ mong ước có một điều: tất cả đều có thể khám phá ra và tiếp nhận Ngài trong cuộc sống.
Điều Thiên Chúa chờ đợi đã không xảy ra với các nhà lãnh đạo Do thái giáo, hay hàng tư tế ở Giêrusalem. Họ là những nhà chuyên môn về Kinh Thánh. Họ biết rằng Đấng Messia phải sinh ra ở Bêlêm; lẽ ra họ phải là những người đầu tiên đến gặp Người. Thế mà họ không nhúc nhích; họ không chịu khó lên đường tìm kiếm. Điều đó hoàn toàn đi ngươc lại với đức tin. Họ tự hào về kiến thức của mình và hoàn toàn đóng kín tâm hồn từ chối cơ hội mà Thiên Chúa ban cho. Trái lại, các nhà đạo sĩ đã đứng dậy và bắt đầu hành trình đức tin như một sự tìm kiếm.
Trong lễ Hiển linh hôm nay, chúng ta hướng nhìn đến tất cả những ai không biết Đức Ki tô. Chúng ta nghĩ đến tất cả những người không cùng tôn giáo với chúng ta, cả những người công giáo đang ở bên lề cuộc sống Giáo Hội. Chính vì tất cả mọi người mà Đức Ki tô đã đến. Vấn đề không phải là chinh phục hay chế ngự họ, mà là làm chứng bằng tất cả cưộc sống của chúng ta. Các nhà lãnh đạo ở Giêrusalem, họ biết rõ nhưng không hành động. Cũng thế, có thể chúng ta rất giỏi về giáo lí, về Kinh thánh, về Thần học; điều đó không giúp ích gì cả nều như chúng ta không chịu đi đến máng cỏ ở Bêlem.
Ước gì người ki tô chúng ta hôm nay cảm nhận trách nhiệm của mình. Tin mừng được giao phó cho chúng ta cần phải tỏa sáng trong cuộc sống. Nếu chúng ta thật sự tiếp nhận và để cho tin mừng biến đổi mình, thì bấy giờ đời sống sẽ tỏa sáng như ánh sao đã thu hút các nhà đạo sĩ đến với Chúa Giê su.
Chúng ta đang bước qua một năm mới. Ai trong chúng ta cũng mong ước được tốt đẹp và thành công. Nhất là được ánh sáng Đức Ki tô soi chiếu đời sống chúng ta. Chúng ta hãy hoàn toàn tin tưởng đi theo Ngài. Xin Thiên Chúa biến chúng ta thành những ki tô hữu luôn biết tỏa sáng tình yêu của Đức Ki tô giữa đêm tối trần gian.
Tiệc Thánh thể tụ họp chúng ta mỗi ngày chủ nhật cũng là một lễ Hiển linh, một sự tỏ hiện của Đức Ki tô cho thế giới. Cũng như các nhà đạo sĩ, chúng ta được kêu gọi lên đường để không lỡ hẹn với Đức Ki tô. Mỗi tuần, đây là thời điểm thuận tiện nhất cho phép chúng ta gặp Đấng Cứu độ để kín múc và tái tạo nơi Ngài. Và cũng như các đạo sĩ, chúng ta hãy qua đường khác mà về để làm chứng niềm hi vọng đã thúc đẩy chúng ta.