CHÚA NHẬT XXVI TN C
TỘI VÔ TÌNH – VÔ TÂM – VÔ CẢM
Cách đây không lâu, một video ghi lại một cảnh đau lòng của một em bé ở trung Quốc bị chiếc xe tải cán ở giữa đường khi em đang đi theo mẹ. Điều khiến cho nhiều người giận dữ khi xem đoạn video này, là ngay lúc xảy ra tai nạn, có đến 7 – 8 người đi ngang qua trước tiếng kêu cứu của người mẹ, nhưng không người nào quan tâm dừng lại, họ làm như không phải việc của mình. Gần đây, trên trang mạng cũng lên án một quan chức chính phủ Trung Quốc, khi đên hiện trường một vụ tai nạn tàu lửa khiến cả chục người chết, trước ông kính của phóng viên, ông vẫn hút thuốc và cười thản nhiên khi nói về tai nạn này khiến nhiều người phê phán ông là con người vô cảm. Ở Việt Nam cũng tương tự, một video quay lại cảnh hai nữ học sinh đánh nhau túm tóc lột áo nhau ngay giữa đường phố, người qua lại không ai lên tiếng can ngăn, họ vẫn thản nhiên bước qua, và có người cón lấy điện thoại ra quay phim một cách thích thú…Chúng ta có thể kể ra rất nhiều những trường hợp dửng dưng vô cảm như vậy. Có lẽ xã hội càng tiến bộ, cuộc sống càng giàu có, thì con người càng đánh mất sự quan tâm đến người khác, biến mình trở thành kẻ vô tình với anh em, và từ lối sống vô tình, nó sẽ dẫn đến sự vô cảm, vô tâm trước những đau khổ của anh em, và nó còn trở thành kẻ nhẫn tâm trước đau khổ của người khác. Lời Chúa hôm nay cảnh báo cho chúng ta thái độ sống vô tâm đó.
Bài đọc một cho thấy lúc đó đất Israel đang phồn thịnh, giàu có, từ đó dẫn đến lối sống hưởng thụ, từ những nhà lãnh đạo đến một số người giàu rơi vào tình trạng ăn chơi sa đọa họ không quan tâm đến những người nghèo, không quan tâm đến đời sống đạo và lề luật của Thiên Chúa, và cũng không quan tâm đến vận mệnh quốc gia, họ vơ vét cho đầy túi tham, họ ăn chơi xa xỉ. Trước lối sống đó, Amos, một ngôn sứ từ miên Giudea được sai đến với vương quốc Israel để cảnh cáo và vạch trần lối sống của họ: Khốn cho các người là những kẻ sống yên ổn tai Sion…, các ngươi ngả ngớn trên giường, đùa nô trên trường kỷ, ăn những con chiên non nhất bầy, những con bê béo nhất chuồng, uống rượu ngon, xức dầu thơm hảo hạng… mà không quan tâm trước cảnh nhà Giuse xụp đổ, dân bị lưu đầy, đất nước bị xâm chiếm. Rồi đây sẽ đến ngày chính các ngươi cũng sẽ bị làm nô lệ, bị bắt đi lưu đầy, thế là tan tác lũ phè phỡn. Một quốc gia phồn thịnh là một điều đáng ước mơ, một dân tộc giàu có thì đáng hãnh diện, thế mhưng từ sự giàu có phồn thịnh ấy mà người ta đánh mất tình anh em đồng loại, sống dửng dưng vô trách nhiệm với nhau, thậm chí còn sử dụng tiền bạc của cải, phung phí đến độ làm xỉ nhục người nghèo, đó là điều không thể chấp nhận, và không đáng để hãnh diện.
Không hẳn cái nghèo là mối mối phúc, không phải tất cả sự giàu sang đều là đáng trách, cũng không phải tất cả những người giàu đều bị kết án, điều khiến họ đáng bị kết án đó là sư giàu sang đã làm che mờ con mắt của họ, khiến họ chỉ con nhìn thấy chính mình mà không nhìn thấy anh em chung quanh, điều đáng lên án là vì họ ngủ quên trong sự hưởng thụ đến độ trở thành kẻ vô tình vô tâm với anh chị em chung quanh. Câu chuyên người giàu có và Lagiarô nghèo khó trong Tin Mừng hôm nay muốn nói đến điều đó.
Người phú hộ này mặc toàn gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình, hành động đó chưa phải là điều sai, vấn đề ở chỗ, ngay tại của nhà anh có một người nghèo, mình đầy ghè chốc, ngày ngày ăn xin, mơ ước được một chút cơm dư canh thừa của nhà giàu này rơi xuống mà cũng không ai cho. Như thế cái tội của người phú hộ này là cái tội anh đã dửng dưng, đã làm ngơ và cố tình không nhìn thấy một người đau khổ đang cần sự giúp đỡ nằm ngay cổng nhà anh. Người phú hô kia đã chỉ biết nghĩ đến mình, lo hửơng thụ ăn uống vui chơi trên những đau khổ đói khát của người khác. Anh có tiền, anh có quyền tiêu xài, nhưng anh tiêu xài một cách phung phí trong khi người bên cạnh đầu tắt mặt tối, đang bệng tật hiểm nghèo đang cần đến sự giúp đỡ của anh, mà anh đã làm ngơ, thì sư tiêu xài phung phí đó lại trở thành cái tội. Anh giàu có tiền bạc, ăn mặc gấm vóc lụa là nhưng tâm hồn anh thật nghèo nàn rách rưới, trái tim anh đã không còn một chút rung động cảm thông.
Cái chết đã đảo ngược lại tất cả, người nghèo Lazarô đựơc đưa vào lòng Apraham, còn Lazarô thì phải vào lò lửa ở đó anh phải chịu cực hình khốn khổ. Đến lúc này, người phú hộ xưa kia ăn uống dư thừa bây giờ chỉ xin một điều thật nhỏ nhoi mà cũng không ai có thể đáp ứng cho anh được nữa, anh nài xin Apbraham sai Lazarô lấy ngón tay nhúng vào nước và làm mát lưỡi tôi, nhưng cũng không thể được, vì như câu trả lời của Apbraham cho thấy: giửa chúng ta đây đã có sẵn một vực thắm khiến từ bên đó không thể qua bên đây, và từ bên đây củng không thể qua bên đó được. Vực thẳm này không phải là vực thẳm địa lý, mà là vực thẳm của sư ngăn cách, vực thẳm của tâm hồn mà chính nhà phú hộ này đã tạo ra khi anh còn sống, anh đã để cho sư giàu sang hưởng thụ ngăn cản khiến anh không thể bước tới với người khác, thì giờ đây, người khác củng không thể bước tới, không thể chạm đến anh được.
Xin ân huệ thứ nhất không được, anh xin ân huệ thứ hai cho những người thân còn lại cũng bị từ chối: họ đã có Mose và các tiên tri, vì với những vị này mà họ không tin thì dù cho kẻ chết có hiện về họ cũng sẽ không tin đâu. Điều này cho thấy được rằng, việc điều chỉnh lại lối sống, việc làm điều thiện điều tốt cần phải thực hiện ngay khi còn sống và khi có cơ hội, không thể nấn ná hay từ chối, và hơn nữa lề luật và các lời ngôn sứ chính là những lời Chúa nhắc nhở thường xuyên mỗi người tu chỉnh lại lối sống của mình, đừng đợi chờ, cũng đừng mong một điềm báo nào nơi người đã chết.
Có người bi quan cho rằng: con người là lang sói của nhau, điều đó có thể đúng nếu chúng ta không làm cho mình nên người, không sống đúng với phẩm giá, tư cách của con người, thì có nghĩa là mình đã bị thoái hóa thành cầm thú với nhau. Hiện nay, mở một trang báo đầu ngày, người ta có cảm tưởng như ở xã hội Việt nam con người ngày càng độc ác với nhau hơn, ngày càng dưng dưng vô cảm với nhau hơn, nhiều người đã đang để mình bị biến thánh dã thú đối với nhau, nào là chuyện ghen tuông đâm chém giết chết bạn tình, nào là cướp bóc hãm hiếp chỉ vì vài trăm ngàn, và gần đây cuối tháng 8 vừa qua, lại một vụ trộm chó ở Bắc Giang, hai kẻ trộm bị cả làng đánh hội đồng cho đến chết để thỏa mãn cơn giận. Trong vụ việc này mạng sống của con người không bằng một con chó, cả làng xúm nhau vào để trút cơn giân lên kẻ trộm. Tại sao người ta lại đi đến việc trộm chó? Tại sao người Việt của mình lại tàn ác dã man với đồng loại như vây ư? Điều đáng sợ là nhiều người coi những chuyện đó không phải chuyện của mình, không liên quan gì đến mình…
Điều đáng tội không chỉ ở việc ác người ta gây ra cho kẻ khác, không trộm cắp không làm hại ai chưa hẳn là người thánh thiện, nhưng khi nhắm mắt làm ngơ trước sư dữ sư xấu thì đã là có tội, để cho sư xấu xảy ra mà không lên tiếng thì đã là đồng lõa; không phải chỉ khi tỏ ra khinh bỉ hay có lời nói xúc phạm đến anh em mới là điều đáng trách, mà ngay cả khi vui cười trên đau khổ của người khác, phung phí thỏa mãn trên sự nghèo đói của người khác, thì đã là làm tổn thương họ rồi.
Thưa quý OBACE, câu chuyện Lazarô và người phú hộ vẫn mang tính thời sự, đang xảy ra ngay trong các gia đình trong xóm ngõ của chúng ta. Có thể có những Lazarô đang ở bên cạnh nhà, họ đang nghèo đói, không đủ cơm đủ gạo, họ đang cần một sư quan tâm, đang cần sư giúp đỡ, mà chúng ta đã cố tình làm ngơ. Lagiarô có thể là những người cha người mẹ già đau ốm lâu ngày lâu tháng, là những đứa con ngỗ nghịch, là người thân trong gia đình mà từ lâu chúng ta đã loại họ ra khỏi sư quan tâm chăm sóc của chúng ta. Tất cả họ đang chờ không phải là cơm bánh hay tiền bạc, mà họ đang ước ao được một lời thăm hỏi, một hành động quan tâm của người thân trong gia đình, giúp họ vượt qua sự buồn tủi đơn điệu của tuổi già, sự đau đớn chán nản của bệnh tật, sự mệt mỏi của thất bại hay của công việc, hãy dành cho họ thêm sư quan tâm, sư cảm thông, đừng vô tâm vô tình, vô cảm với họ.
Xin Chúa cho chúng ta có một đôi mắt thật sáng để có thể nhìn thấy những nhu cầu của anh chị em xung quanh, có một tâm hồn nhậy bén trước những hoàn cảnh khổ đau tinh thần và thể xác của họ, và có một trái tim biết rung nhịp và cảm thông để có thể chia sẻ và ủi an anh chị em chung quanh. Amen
Lm. Đan Vinh
CHỦ NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN
Thế gian thường quảng cáo và lôi kéo chúng ta bằng lý tưởng của nó, và buồn thay, nhiều khi nó thành công. Còn tin mừng thì trình bày một trật tự giá trị hoàn toàn đảo ngươc. Như Đức Maria ca trong bài Magnificat, Chúa đuổi những kẻ giàu sang trở về tay trằng. Đó là tiếng kêu lạc điệu trong xã hội tiêu thụ chúng ta. Chúng ta có phản ứng như thế nào trước khi quá trễ?
Tiên tri Amos 6,1a.4-7
Khi người ta no nê,thì số phận phần còn lại của thế gian không đáng quan tâm nữa. nhưng Amos cảnh giác chúng ta phải coi chừng, sẽ có những đảo lộn như chúng thấy trong bài tin mừng ngày hôm nay.
Thánh vịnh 112
Khác với các thế lực trên trái đất, Thiên Chúa là đấng công chính. Người lắng nghe lời của người nghèo và tái lập trật từ trong một thế giới bị xâu xé bởi ích kỉ và bất công.
Thư 1 Tm 6,11-16
Timôthê là một người đạo gốc vì mẹ và bà ngọai của ông là người ki tô hữu. Lúc bấy giờ Phao lô đang bị giam tù và ngài viết thư cho Timôthê đang là Giám Mục. Ngài để lại cho môn đệ yêu quí của Ngài lời khuyên cuối cùng: Hãy đứng vững trong Đức tin và Tình yêu cho đến cùng, dù cho thế giới chung quanh bày ra những giá trị khác với Ki tô giáo.
Tin mừng Lc 16, 19-31
NGỮ CẢNH
Nằm trong chương 16 gồm các giáo huấn dạy về việc sử dụng của cải trần gian (16,1-8; 9-15), dụ ngôn nầy rất độc đáo và chỉ có trong tin mừng Lc. Có thể đọc theo cấu trúc hai phần sau đây. Sau phần vào đề trình bày sự đối chọi giữa một người giàu và một người nghèo trên trần gian (16,19-21), dụ ngôn cho ta thấy số phận của họ đã đảo chiều như thế nào ở thế giới bên kia và tập trung vào hai cuộc đối thoại giữa người phú hộ và ông Abraham: phần đầu về số phận của người phú hộ (16,22-16); phần sau về số phận của các anh em ông (16,27-31).
TÌM HIỂU
Ông nhà giàu: dụ ngôn tiếp liền sau các “lời nói” trong các câu 14-18. Dụ ngôn không có lời mở đầu hay câu chuyển đọan. Ông phú hộ nầy cũng không có tên gọi như ở câu thứ 1. Sự đối chọi giữa cuộc đời xa xỉ của ông và sự kế cận của người nghèo cho ta hiểu rằng ông ta vì quá giàu có nên đã hoàn toàn trở nên vô cảm. Thêm vào đó là sự giàu có thiêng liêng giả tạo của những người tự cho mình là công chính, “điều đáng ghê tởm trước mặt Thiên Chúa” (16,15). Tất cả những điều đó đã tạo thành một sự phân cách giữa người giàu và người nghèo trên thế gian (16,210. X. Amos 2,6-7; G 24,2-12.
La da rô: đây là trường hợp độc nhất, vì trong các dụ ngôn, các nhân vật không bao giờ được gọi bằng tên riêng cả. Nhưng đây là một người nghèo, và trước mặt Thiên Chúa, sự nghèo khó là một tước hiệu để được Người quan tâm riêng. La da rô có nghĩa là Thiên Chúa gúp đỡ: tên gọi mang theo niềm hi vọng. Thiên Chúa không bỏ rơi những người nghèo (Cn 22,22-23; Tv 71,12-14).
Thèm được những thứ: cùng một kiểu nói như trong trường hợp đứa con trai phung phá, dịch là: muốn ăn cho đầy bụng (15,16).
Chó: khung cảnh nầy làm ta nhớ đến ông Gióp. Trong Thánh Kinh, chó được coi như là thú dữ và đáng ghê tởm. Ở đây, sự hiện diện của chúng nhấn mạnh đến sự trái ngược giữa người giàu có và người nghèo.
Ông Áp bra ham: những người công chính trong Cựu Ước thường được cho là sẽ gặp ông Abra(ha)m và sẽ đoàn tụ với các tổ phụ của họ. Nhưng ở đây, người nghèo mừng lễ cùng với các tổ phụ (x. 13,28-29 dùng hình ảnh bữa tiệc); đây chính là vĩnh phúc. Các họa sĩ thường vẽ những người được chọn như là những người con quay quần chung quanh ông Abra(ha)m, tổ phụ của họ.
Kiểu nói: “trong lòng ông Abra(ha)m” được dùng ở đây còn xuất hiện ở Ga 13,23 nói về người môn đệ mà Chúa Giê su yêu mến “nằm trong lòng Chúa Giê su”, nghĩa là ở bên tay trái, gối đầu trên ngực Chúa (13,25): đó là vị trí danh dự trong bữa tiệc. Vị trí của người môn đệ là vị trí của Con Một nơi “cung lòng Cha” (Ga 1,18).
Thật vậy tình phụ tử của ông Abra(ha)m, là hình ảnh duy nhất của tình phụ nơi Thiên Chúa nối kết các môn đệ vào sự thông hiệp mà Người chia sẻ với Con của Người. Bàn tiệc Thánh Thể, tức là bàn tiệc thiên quốc sẽ đến, đã thực hiện bằng việc đi vào trong cung lòng của Chúa Cha cùng với Chúa Con.
Chôn: sự khác biệt giữa người nghèo và người giàu một lần nữa được nhấn mạnh: người trước được đưa lên trời, còn người kia thì bị chôn vùi dưới đất. Sự đảo lộn tư thế bắt đầu xuất hiện.
Âm phủ: hoặc nơi ở của người chết. Trong khoảng thời gian dài đến thế kỉ thứ 2 trước CN, người ta tin rằng những người chết, gồm những người lành và kẻ dữ được qui tụ trong một nơi hoang tàn (được gọi là sheol trong tiếng Híp pri, và Hadès trong tiếng Hi lạp). Nhưng vào thời Chúa Giê su, ý tưởng đã có tiến bộ: nói chung, người ta nghĩ rằng những người công chính yên nghỉ chờ đợi ngày sống lại (họ ở trên “thiêng đàng” hoặc trong vườn Ê đên, 23,43); còn người dữ thì đã bị phạt trong lửa muôn đời . X. đạo lí nầy manh nha trong đoạn Đn 12,2-3.
Nhưng ở đây Lc đưa ra một giáo huấn về sự sống sau khi chết. Mục tiêu duy nhất của ông là khuyến khích người ta sám hối ngay từ giờ. Ông trình bày khoảng cách giữa tình trạng của những người nghèo và tình trạng của những người giàu trước nhan Thiên Chúa (16,22). Số phận con người trong đời sống bên kia đã được bắt đầu ở đây trên mặt đất nầy; do đó, người ta cần phải thay đổi cách sống trên trần gian.
Phần phước – bất hạnh: x. G2,10. bản văn nầy không nói về phần thưởng cho người công chính và hình phạt cho người tội lỗi. Nó chỉ trình bày một trong những đảo ngược tình thế mà Lu ca thích nói tới, mà chúng ta đã thấy trong Bát Phúc (6,20-26) và trong kinh Magnificat (1,46-55).
Vực thẳm lớn: hình ảnh của hai thế giới không liên lạc với nhau như Thiên Chúa và tiền của (16,13). Vực thẳm đã hiện hữu trên mặt đất nơi mà ông nhà giàu sống trong một thế giới đóng kín trước thế giới của người nghèo. Nó vẫn còn và vĩnh viễn hiện diện trong cuộc sống bên kia. Người ta sẽ thu lấy những gì mà người ta đã gieo vãi.
Ông nhà giàu nói: ở đây bắt đầu phần thứ hai của dụ ngôn: lời khẩn xin tiếp theo của ông nhà giàu cho phép Abra(ha)m xác định kết luận phần thứ nhất; tiền của – và sự bảo đảm mà nó sinh ra – làm mờ mắt và giam hãm, đóng kín tâm hồn con người trước Lời Thiên Chúa. X. trong 15,29-30 phản ứng của người con cả cho phép tái xác nhận và mở rộng thái độ đúng đắn của người cha.
Mô sê: ông Abram qui chiếu đến Kinh Thánh diễn tả thánh ý của Thiên Chúa về việc sử dụng của cải trần gian nầy, cũng như về sự cần thiết của việc sám hối: chỉ cần lắng nghe lời Người (x. 6,47;8,11-15).
Họ sẽ ăn năn sám hối: không chỉ nói về việc sám hối liên quan đến tiền của (19,1-10), mà trong mọi khía cạnh của cuộc sống (x.13,3.5). Do đó cũng liên quan đến những người Pha ri sêu (16,15).
Sống lại: nhiều lần người Do thái đã xin Chúa Giê su làm một dấu lạ cả thể để họ có thể tin vào Ngài, nhưng Chúa Giê su chỉ nhắc lại dấu chỉ Giô na (11,29-30). Ngài đã ban cho họ trong sự sống lại của người thanh niên ở thành Nayin (7,11-17), và đặc biệt trong cuộc Phục sinh của Ngài, cũng như trong bài giảng thực hiện dưới danh Ngài sau Hiện xuống.
Thế nhưng cả dấu chỉ nầy cũng không thuyết phục được người Do thái. Tuy nhiên nó chính là sự hoàn tất Lề luật và các Tiên tri (24,27.44-46; Cv 28,23). Sự trùng khớp giữa Kinh thánh và cuộc sống của Chúa Giê su là một trong những lý chứng quyết định nhất của đức tin. Do vậy, Chúa Giê su nói dụ ngôn nầy để tìm cách thuyết phục các thính giả của Ngài cần phải sám hối nếu thật sự họ muốn trở thành con cái đích thật của Abra(ha)m và chia sẻ vinh quang của ông. Chúa Giê su dùng nhân vật danh tiếng Abraham để mời gọi họ tin vào Ngài và nhờ vậy mà được cứu độ.
SỨ ĐIỆP
Các bài đọc chủ nhật hôm nay lớn tiêng tố cáo điều mà chúng ta gọi là “phân hóa trong xã hội”. Chúng ta có thể kiểm chứng khoảng cách giữa người giàu và nghèo đã càng ngày càng gia tăng như thế nào trong những thập niên gần đây. Sự giàu có xa hoa không cùng của một số người đã không ngừng được bày ra. Điều đó trở thành một sỉ nhục đối với những người nghèo càng lúc càng lún sâu vào trong nỗi bất hạnh của mình. Chỉ cần nêu ra ở đây về sự cách biệt khủng khiếp giữa tiền lương như một thí dụ điển hình: có những ngôi sao bóng đá nổi tiếng hằng ngày nhận thù lao bằng số tiền mà nhiều người kiếm được trong một hay nhiều năm làm việc, thậm chí trong cả một cuộc đời. Nhưng sự nghèo khó không chỉ trong bình diện vật chất, mà còn trầm trọng hơn về phương diện tâm linh. Chúng ta đừng quên những người không được giáo dục, không có văn hoá, không được kính trọng trong xã hội và nhất là thiếu vắng tình thương.
Vì thế mà tin mừng hôm nay loan báo cho chúng ta một sự đảo ngược tình thế. Điều mà chúng ta đang sống hôm nay để lại một âm hưởng muôn đời. Tất cả những điều đó, Chúa Giê su cắt nghĩa cho chúng ta bằng một dụ ngôn bắt chúng ta phải suy nghĩ. Dụ ngôn ấy nói về hai người: một bên là một người giàu có, hưởng thụ giàu sang cho riêng mình. Ngay bên cạnh ông ta là một người nghèo khổ, đang chết dần chết mòn trong một tình trạng khốn cùng cực độ
Bài tin mừng không nói rằng người giàu có tàn ác hay hành hạ người nghèo. Ông ta cũng không bị khiển trách vì đã giàu. Sự sai lầm duy nhất của ông ta là đã không nhìn thấy ông La da rô ở ngoài cửa. Trong dụ ngôn nầy, người giàu có không hề biết đến và không mảy may để ý Ông La da rô nghèo khổ. Ông ta cứ tiếp tục không sống như không có người nghèo hiện hữu trước mắt ông
Điều mà Chúa Giê su tố cáo trước tiên đó là sự dửng dưng của ông nhà giàu đối với người bất hạnh. Đó là một thái độ rất trầm trọng vì nó làm cho con người trở nên vô cảm đến độ không còn có thể cảm thông với kẻ khác. Nó làm cho chúng ta xa rời Thiên Chúa, đấng đến gần tất cả những ai đang đau khổ và tự đồng hoá với mỗi người trong họ. Và rốt cục, thái độ ấy phá huỷ tâm hồn.
Nhưng đến cuối đời, tình trạng của ông La da rô và của người giàu đảo ngược: trong khi Ladarô được hưởng hạnh phúc, thì ông nhà giàu phải chịu cực hình khủng khiếp. Bấy giờ, thật là quá trễ để ông nhà giàu nhận ra những hậu quả sự đui mù của mình. Cả đời ông ta đã sống chỉ nghĩ đến mình: của cải, quần áo, đồ ăn, thức uống chiếm hết tâm trí của ông. Trong tâm hồn ông không có chỗ cho người khác. Dụ ngôn dường như gợi ý rằng ông cũng không có cả những người đồng bàn với mình. Ông cô đơn và sẽ như vậy mãi ở cõi đời sau. Ở đó, không ai có thể đến cứu giúp ông vì ông đã đào một cái hố sâu chung quanh mình. Sự cô đơn khủng khiếp ấy do chính ông gây nên. Ông hoàn toàn bị giam hãm.
Tính ích kỉ và dửng dưng không chỉ là những khiếm khuyết hoặc tội lỗi. Đó còn là một tai hoạ lớn. Người ích kỉ chỉ tìm hạnh phúc cho riêng mình trong việc tích góp của cải để tiêu xài. Thực sự ông ta suốt đời không thoả mãn. Không gì có thể lấp đầy hoàn toàn tâm hồn. Bao lâu còn tiếp tục sống trong tình trạng ấy, thì con người không bao giờ thực sự được hạnh phúc. Chúng ta là những ngưòi ki tô hữu, chúng ta biết rằng bí quyết của hạnh phúc đích thật nằm trong Tin mừng. Điều làm nên giá trị cuộc đời là chính cách mà chúng ta nhìn người khác và nhất là cách mà chúng ta yêu thương họ ngang qua những cử chỉ mở rộng, tiếp đón và sẵn sàng.
Tin mừng nói với chúng ta về một vực thẳm mà người giàu đã tạo ra giữa ông và ông La da rô. Và tin mừng cảnh giác chúng ta về vực thẳm ấy, coi chừng chúng ta có thể lọt vào. Lời Chúa hôm nay còn cho chúng ta biết rằng trên con đường sám hối trở về, chúng ta không cô đơn. Đức Ki tô hiện diện để mở mắt và mở tai chúng ta. Ngài tiếp tục chỉ cho chúng ta thấy những người đói ăn, đói tình yêu và đói ơn nghĩa. Nếu Ngài vẫn đến trong thế giới nầy và tiếp tục đến trong cuộc đời chúng ta là để san bằng vực thẳm ngăn cách giữa Thiên Chúa và chúng ta. Ngài mời gọi chúng ta kết hợp với Người và liên kết với nhau. Sứ vụ của chúng ta là làm việc với Đức Ki tô để xây dựng một thế giới mới, công bằng hơn, huynh đệ hơn và liên đới hơn
ĐÀO SÂU
1. HỎI: Bài đọc một có nội dung như thế nào?
THƯA: Bài đọc 1 (Am 6,1.4-7) là một trích đoạn của Sách Tiên tri A mos cảnh cáo Vua quan Ít-ra-en chỉ biết sống trong cảnh giầu sang nhung lụa mà chẳng quan tâm gì đến tình hình và vận mệnh của dân tộc. Hậu quả là đất nước họ sẽ bị ngoại bang xâm chiếm và bản thân họ sẽ phải bị lưu đầy khốn khổ.
2. HỎI: Tiên tri cho chúng ta biết Thiên Chúa là ai?
THƯA: Qua đoạn Sách trên (6,1.4-7) tiên tri cho chúng ta biết Thiên Chúa là Đấng rất công minh: những người cầm quyền đã được giao trọng trách cai trị dân, được hưởng những đặc quyền, đặc lợi về vật chất, thì họ có trách nhiệm phải chăm lo cho dân, cho đất nước. Sống thờ ơ với đời sống thường ngày của dân, với vận mệnh của đất nước, chỉ biết hưởng thụ mà không chu toàn trách nhiệm, thì họ đáng bị trừng phạt.
3. HỎI: Tiên tri Amos trách những kẻ cầm quyền và người giàu có như thế nào?
THƯA: Tiên tri trách những kẻ cầm quyền và người giàu có sống an nhiên tự tại trên xác tín sai lầm mà không thấy cuồng phong đang kéo đến làm cho toàn bộ xã hội tan nát.
4. HỎI: Sai lầm của họ là gì?
THƯA: Sai lầm của họ là xây dựng sự bảo đảm cho mình trên những cái mau qua chóng tàn như chiến thắng quân sự, kinh tế phồn vinh và vỏ bọc đạo đức. Họ quên rằng sự an ninh duy nhất của Ít ra ên phải đặt trên nền tảng lòng trung thành với Giao Ước. Đó là điều mà tất cả các tiên tri Cựu Ước đều lưu ý.
5. HỎI: Tiên tri Amos dạy gì về điều ấy?
THƯA: Amos cũng như các tiên tri khác dạy rằng: hạnh phúc con người và các dân tộc đến từ sự trung thành với Giao Ước của Thiên Chúa. Và sự trung thành ấy bao gồm công bằng xã hội và niềm tín thác vào Người. Nếu họ lạc xa đường lối ấy, thì sớm muộn gì họ cũng phải chết.
6. HỎI: Tiên tri Amos có thái độ nào đối với tình trạng xã hội ở vương quốc phía Bắc?
THƯA: Dưới triều Vua Giê rô bô am, vương quốc phía Bắc phát triển không ngừng. Tuy nhiên, sự phồn thịnh kinh tế đòi hỏi phải đi đôi với sự phát triển xã hội. Tiếc thay, người ta đã dần dần xa lí tưởng ban đầu mà Lề luật đã vạch ra là bảo vệ sự công bằng giữa các công dân và phân phối đất đai đồng đều cho họ.
7. HỎI: Tên gọi La da rô có nghĩa gì và nói lên điều gì?
THƯA: La da rô có nghĩa là Thiên Chúa cứu giúp: Người thương cứu giúp ông không phải vì ông nhân đức, mà bởi vì người nghèo như ông biết mở tâm hồn đón nhận Lời Người.
8. HỎI: Điều ấy có làm cho những người nghe ngạc nhiên không?
THƯA: Họ rất ngạc nhiên, vì câu chuyện Chúa Giê su kể hoàn toàn khác với câu chuyện mà họ được nghe: có một người giàu có đầy tội lỗi và một người nghèo đầy nhân đức. Cả hai khi chết được đưa lên cân: người tốt, dù giàu hay nghèo, đều được tưởng thưởng, còn người xấu, dù giàu hay nghèo, đều bị phạt
9. HỎI: Chúa Giê su có theo lí luận ấy không?
THƯA: Không. Ngài không hề nói ông La da rô là người nhân đức. Ngài chỉ cho biết rằng, người giàu có hoàn toàn dửng dưng, không hề đoái hoài tới người anh em nghèo đói đang nằm ngay trước cửa nhà ông.
10. HỎI: Ông Abraham được nhắc tới bao nhiêu lần trong câu chuyện nầy, và có mục đích gì?
THƯA: Chúa Giê su nhắc tới ông Abraham đến 7 lần trong câu chuyện nầy. Ngài hỏi các thính giả: “Ai thực sự là con cái Abraham?”. Và đưa ra câu trả lời: “Nếu ngươi không nghe lề luật và các tiên tri dạy, nếu người dửng dưng với sự đau khổ của anh em mình, ngươi không phải là con cái Abraham”
11. HỎI: Điều cốt yếu mà Chúa Giê su muốn nhắc cho người Do thái là gì?
THƯA: “Là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục? Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành. Ðức công chính ngươi sẽ mở đường phía trước, vinh quang Ðức Chúa bao bọc phía sau ngươi” (Is 58,7-8).
12. HỎI: Việc ông La da rô được các thiên thần đem vào lòng Áp-ra-ham có nghĩa gì?
THƯA: Điều ấy có nghĩa là người nghèo có một vị trí danh dự trong Vương quốc của Thiên Chúa (x. Lc 13,28-29, Ga 13,22).
13. HỎI: Chúa Giêsu muốn dạy cho chúng ta những điều gì khác trong dụ ngôn này?
THƯA: Người ta không thể trở thành con cái Abraham, tức là những người thừa kế của Vương quốc Israel chỉ bằng những lời nói suông. Vì thế qua giáo huấn này, Chúa Giê su mời gọi mỗi người chúng ta đừng gọi mình là Kitô hữu bằng lời nói suông rồi sau đó trong thực tế sống như người hoàn toàn không biết đến Thiên Chúa.
14. HỎI: Người Kitô hữu thực sự là ai?
THƯA: Đó là người đặt Tin Mừng của Chúa Kitô ở trung tâm cuộc sống mình. Là người biến đổi cuộc sống của mình mỗi ngày, dựa trên Lời Chúa dạy. Là người tham gia vào việc xây dựng Giáo Hội tức là cộng tác vào sự phát triển Vương quốc của Thiên Chúa trên trần gian.
15. HỎI: Người phú hộ bị kết án bởi sự giàu có của mình không?
THƯA: Không. Khi nói với ông Abraham, ông ta cho rằng vì thiếu hiểu biết mà cuộc sống của anh đã trở nên xấu xa. Vì thế, chỉ cần một dấu lạ từ trời và anh sẽ tin. Nhưng Abraham phản bác: dù có một dấu lạ từ trời, ông ta cũng không hoán cải. Lý do là vì không phải sự giàu có, mà chính việc sử dụng của cải một cách ích kỷ kết án ông. Cũng không phải do ông thiếu hiểu biết, vì ai không lắng nghe lời Thiên Chúa phán ngang qua lương tâm và Kinh Thánh thì dù có một phép lạ cuộc sống cũng sẽ không đổi thay. Ông bị kết án vì đã không thể đón nhận cuộc đời như một quà tặng của Thiên Chúa và không hề có một ý thức nào về tình tương thân tương trợ.
16. HỎI: Người phú hộ bị lên án được coi như một sự trừng phạt của Thiên Chúa?
THƯA: Không phải thế. Khi còn sống, ông đã đóng kín tâm hồn, chỉ quan tâm đến những lợi ích trần gian và gắn bó với tiền bạc của cải đến nỗi ông cảm thấy vô ích và trống rỗng khi gặp ánh sáng của Thiên Chúa là một món quà của tình yêu ban tặng cho ông. Sự kết án nằm sẵn trong số phận của người giàu có vì đã chọn một cách sống đi ngược với kế hoạch của Thiên Chúa về con người. Do đó, không phải Thiên Chúa lên án, nhưng bản thân ông lên án chính mình bởi hành động của mình.
17. HỎI: Có phải ông La da rô nghèo khổ được cứu độ bởi vì ông đã không gặp may trong thế giới này?
THƯA: Không phải thế. Ông được vào Thiên đàng vì ông đã mở ra cho Thiên Chúa để cho Người hướng dẫn bằng sức mạnh của tình yêu và ân sủng của Người.
18. HỎI: Bài tin mừng dạy ta những bài học nào?
THƯA: Bài tin mừng dạy ta những bài học nầy: một là số phận đời đời sau khi chúng ta chết liên hệ mật thiết với việc chúng ta sử dụng của cải trần gian nầy như thế nào; hai là nếu của cải có thể gây ra nhiều nguy hiểm thì Thiên Chúa cũng ban cho chúng ta nhiều phương thế cần thiết để đương đầu và chiến thắng; ba là người ta không chịu ăn năn hối cải là vì cứng lòng không dùng các phương thế Chúa ban, chứ không phải vì thiếu phương thế; bốn là số phận sau khi chết là vĩnh viễn, không thể thay đổi.